Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đảng ủy công an trung ương lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng từ năm 1998 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
LỰC LƯỢNG TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
LỰC LƯỢNG TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2008

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MAI HOA



HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1
Chương 1. ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LỰC LƯỢNG TỪ
NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2003 ................................................................................ 9
1.1. Khái quát về tình hình đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng Công
an nhân dân trước năm 1998.................................................................................. 9
1.1.1. Công cuộc đổi mới đất nước và chủ trương xây dựng lực lượng công an
nhân dân trong sạch, vững mạnh ........................................................................... 9
1.1.2. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng Công an nhân
dân trước năm 1998 ............................................................................................. 14
1.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong lực lượng của Đảng ủy Công an Trung ương từ năm 1998 đến năm
2003 ..................................................................................................................... 19
1.2.1. Chủ trương đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng của Đảng
ủy Công an Trung ương ....................................................................................... 19
1.2.2. Đảng ủy Công an Trung ương chỉ đạo thực hiện đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng ............................................................................................ 24
Chương 2. ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LỰC LƯỢNG TỪ
NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2008 .............................................................................. 43
2.1. Yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân trước tình hình mới và chủ
trương đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng của
Đảng ủy Công an Trung ương ............................................................................. 43
2.1.1. Đặc điểm của giai đoạn và yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân
dân ....................................................................................................................... 43

2.1.2. Chủ trương đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực
lượng của Đảng ủy Công an Trung ương ..................................................... 47
2.2. Đảng ủy Công an Trung ương chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng ......................................................................................... 51
2.2.1. Chỉ đạo triển khai Nghị quyết 02/2003/NQĐU (VP) và kiện toàn bộ máy
thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.................................................... 51
2.2.2. Chỉ đạo thực hiện công tác phòng ngừa tham nhũng .......................................... 55
2.2.3. Chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng ....................................... 64
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ...................................................................... 75
3.1. Một số nhận xét cơ bản ...................................................................................................... 75
3.1.1. Về ưu điểm ............................................................................................................ 75


3.1.2. Về hạn chế và nguyên nhân hạn chế ..................................................................... 83
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu .............................................................................................. 89
3.2.1. Về hoạch định chủ trương ..................................................................................... 89
3.2.2. Về chỉ đạo thực hiện ............................................................................................... 95
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 104
PHỤ LỤC

........................................................................................................................... 111


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

AN
ANTT
BCĐ


: An ninh
: An ninh trật tự
: Ban chỉ đạo

CATW

: Công an Trung ương

CAND

: Công an nhân dân

CNH

: Công nghiệp hoá

CSĐT

: Cảnh sát Điều tra

CSHS

: Cảnh sát Hình sự

CSGT

: Cảnh sát Giao thông

CSKT


: Cảnh sát Kinh tế

CSKV

: Cảnh sát Khu vực

CSTG

: Cảnh sát Trại giam

CSQLHC

: Cảnh sát Quản lý hành chính

HĐH

: Hiện đại hoá

KTĐB

: Kiểm tra đặc biệt

TTATGT

: Trật tự an toàn giao thông

TTKSGT

: Tuần tra kiểm soát giao thông


TTKS

: Tuần tra kiểm soát

UBTV

: Ủy ban thường vụ

UBKT

: Ủy ban kiểm tra

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XDLL

: Xây dựng lực lượng


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự tồn tại của chính quyền nhà nước. Tham nhũng là hành vi của
người có quyền hạn trong bộ máy nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước giao
để vụ lợi cho mình hoặc cho người khác, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước,
của tập thể và công dân. Tham nhũng chính là những căn bệnh tha hóa của
quyền lực nhà nước. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, căn bệnh này có sự
phát triển khác nhau, phụ thuộc vào ý chí chống tham nhũng của bộ máy lãnh

đạo.
Ở nước ta, sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo Đảng đã và đang từng
bước đạt những thành tựu to lớn trên mọi các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cùng với những kết quả quan trọng, không thể không nhận thấy những bất cập
còn tồn tại. Trong nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường, đã nảy
sinh tệ tham nhũng. Tệ tham nhũng xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực, nhiều ngành,
nhiều cấp và ngày càng diễn ra theo chiều hướng nghiêm trọng, gây ra tác hại
nặng nề về nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, đạo đức… làm
xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tham nhũng đang trở
thành vấn đề nổi cộm, bức xúc, trở thành vấn nạn, mà nếu chúng ta không đấu
tranh kiên quyết để loại bỏ, nó sẽ có khả năng đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Đây là một trong bốn nguy cơ của cách mạng nước ta, thách thức sự tồn tại và
phát triển của đất nước.
Với tính chất nghiêm trọng của tệ tham nhũng, Đảng, Nhà nước Việt
Nam nói chung, Đảng ủy CATW nói riêng đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng CAND, nhằm làm cho lực lượng CAND trở nên trong
sạch, vững mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên, có một
thực tế là bên cạnh một số thành tựu đã đạt được trong công tác phòng, chống
tham nhũng ở lực lượng CAND, thì vẫn tồn tại không ít những hạn chế, nhược
điểm, bất cập đòi hỏi phải được tiếp tục nhận diện và giải quyết. Do vậy, nghiên
1


cứu quá trình Đảng ủy CATW lãnh đạo phòng, chống tham nhũng trong lực
lượng CAND từ năm 1998 đến năm 2008; đánh giá những thành công, hạn chế,
đúc rút những kinh nghiệm lịch sử quan trọng cho việc tiếp tục thúc đẩy công
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng lên một bước tiến mới
là một việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, vừa có tính thời
sự nóng hổi. Đó chính là những lý do cơ bản để tác giả chọn chủ đề cho đề tài

luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của
mình là “Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trong lực lượng từ năm 1998 đến năm 2008”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về mảng đề tài này, mặc dù chưa có một công trình chuyên luận nào
được xuất bản, song đã có rất nhiều sách, bài viết hoặc có liên quan, hoặc liên
quan trực tiếp được công bố với nhiều góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau.
Có thể phân chia các công trình nghiên cứu này thành các nhóm tài liệu như
sau:
2.1. Các bài nói, bài viết về phòng, chống tham nhũng của lãnh đạo Đảng và
Nhà nước
Hồ Chí Minh, “Thực hành tiết kiệm và chống bệnh tham ô, lãng phí,
chống bệnh quan liêu”, Nxb. Trẻ, 1999; Nông Đức Mạnh, Võ Chí Công, Hà
Mạnh Trí...,“Một số bài nghiên cứu về tham nhũng và phòng, chống tham
nhũng đăng trên các tạp chí”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005; Nguyễn Tấn
Dũng, “Đẩy mạnh cải cách hành chính, đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng
phí và phòng chống tội phạm”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, 5-2005; “Đảng và
Nhà nước đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, phát huy
dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ mới”, Nxb. Lao động - Xã hội, 2005...
Các công trình này đã trình bày, phân tích một cách khá hệ thống chủ
trương, đường lối, nội dung, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước Việt Nam nói chung. Qua các ấn phẩm này, có thể nhận thấy những
tư tưởng cơ bản, chủ đạo, xuyên suốt về đấu tranh phòng, chống tham nhũng

2


của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau, nhất là trong những năm tiến
hành cách mạng XHCN.
2.2. Những công trình của cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân

Bộ Nội vụ, Tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng, Viện Khoa học
Công an, 1997; Nguyễn Hữu Tiếp, Đấu tranh chống tham nhũng trong lực
lượng Công an nhân dân của Thanh tra Công an thực trạng và giải pháp, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học An ninh nhân dân, Hà Nội, 1997; Lê Văn Cương,
Tham nhũng trong đấu tranh xây dựng, một số vấn đề phương pháp luận, Tạp
chí Công an nhân dân, số 3/1998; Phan Văn Lai, Các dạng tham nhũng trong
CAND và giải pháp khắc phục, đề tài khoa học cấp Bộ;…
Những công trình này có một đặc điểm chung là khai thác về tham nhũng
ở góc độ của những nhà làm luật pháp. Các công trình này bước đầu đã khái
quát những nét cơ bản nhất về thực trạng tham nhũng, cũng như phòng, chống
tham nhũng trong lực lượng CAND trong quá trình ra đời, phát triển và trưởng
thành. Các tác giả cũng đã rút ra một số kinh nghiệm trong công tác phòng,
chống tham trong của lực lượng CAND dưới góc độ áp dụng luật pháp. Ở các
công trình này, công tác phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND
những năm 1998 -2008 có được đề cập, tổng kết, song còn khá sơ sài.
2.3. Những công trình của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu khác
Tham nhũng - tệ nạn của mọi tệ nạn, Nxb. Viện Thông tin Khoa học xã
hội, 1997; Đặng Huy Trứ, “Bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người
xưa”, Nxb. Văn hoá thông tin, 2002; Stapenhurst.R, “Kiềm chế tham nhũngHướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia”, Sách tham khảo,
Nxb. Chính trị quốc gia, 2002; Đỗ Xuân Tuất, Phạm Quang Hưởng, Nguyễn
Ngọc Hân,“Đảng cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí”, Nxb. Lao động - Xã hội, 2006…
Nhìn chung, những công trình này đã đề cập trực tiếp, hoặc gián tiếp đến
công cuộc phòng, chống tham nhũng của nước ta ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Đáng chú ý là cuốn sách “Đảng Cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí” (tập thể tác giả) - một công trình đã khái quát tương đối
3


đầy đủ những chủ trương, chính sách trong công cuộc đấu tranh chống tham

nhũng, lãng phí của Đảng CSVN. Các tác giả cũng đã đúc rút một số kinh
nghiệm về việc nâng cao năng lực hoạch định chủ trương và tổ chức thực hiện
của Đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Những vấn đề về
đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND chưa được đề cập
tới, có chăng chỉ là một vài con số, số liệu với tư cách là dẫn chứng cho tình
trạng tham nhũng trong xã hội Việt Nam.
Nhìn chung, trong nhóm công trình này, hầu như các tác giả chưa đề cập
đến vấn đề phòng, chống tham nhũng ở một ngành cụ thể, đặc biệt là trong lực
lượng CAND. Đó cũng là nội dung còn bỏ trống, mà tác giả luận văn cố gắng
bổ sung trong công trình nghiên cứu của mình.
2.4. Luận văn, luận án của học viên cao học và nghiên cứu sinh
Lê Văn Cương, “Tham nhũng ở nước ta hiện nay và biện pháp khắc
phục”, Luận án Tiến sĩ Triết học, 1993; Hoàng Anh Tuyên, “Phòng ngừa các tội
phạm về tham nhũng ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Bùi Quang Huy,
“Tham nhũng và vấn đề phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học…
Nhóm công trình này bao gồm chủ yếu là các luận văn, luận án ngành
Triết học, hoặc Luật học. Các tác giả đã tiếp cận vấn đề tham nhũng ở Việt Nam
nói chung dưới góc độ triết học, hoặc luật học, bước đầu làm sáng tỏ những khái
niệm cơ bản liên quan đến “tham nhũng”, mô tả khái quát về tình trạng tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay; đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Cũng chưa có một luận văn, luận án nào nghiên cứu đến vấn đề
đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND dưới sự lãnh đạo
của Đảng ủy CATW.
Một cách tổng quát, những công trình nêu trên đã giúp cho tác giả luận
văn hình thành những kiến thức cơ bản về tham nhũng và đấu tranh phòng,
chống tham nhũng ở nước ta, gợi mở ý tưởng nghiên cứu mới cho việc giải
quyết đề tài đã lựa chọn. Tuy nhiên, những công trình được liệt kê vẫn còn chưa
4



nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện quá trình Đảng ủy CATW lãnh đạo
phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND từ năm 1998 đến năm 2008,
dưới góc độ lịch sử Đảng như đề tài mà tác giả luận văn đã lựa chọn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những quan điểm, chủ trương và của Đảng ủy CATW đối với
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND những năm
1998-2008; làm rõ vai trò của Đảng ủy CATW trong chỉ đạo tổ chức thực hiện
những chủ trương đó trên thực tế.
- Đúc rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng ủy CATW lãnh đạo
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND những năm
1998-2008.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái quát về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực
lượng CAND những năm 1986-1997.
- Phân tích hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng ủy CATW trong
đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở lực lượng CAND qua hai giai đoạn:
1998-2003; 2003-2008.
- Trình bày một cách hệ thống, khách quan quá trình Đảng ủy CATW chỉ
đạo thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND qua
hai giai đoạn: 1998-2003; 2003-2008.
- Đưa ra những đánh giá, nhận xét có căn cứ khoa học về thành tựu,
những vấn đề tồn tại, bất cập của quá trình Đảng ủy CATW lãnh đạo thực hiện
phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND những năm 1998-2008, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm quan trọng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chủ trương, biện pháp mà Đảng

ủy CATW đề ra trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở lực lượng

5


CAND; quá trình chỉ đạo của Đảng ủy CATW trong việc hiện thực hóa những chủ
trương đó.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung khoa học: Luận văn tập trung nghiên cứu những chủ trương,
biện pháp cơ bản, các sự kiện chính, những mốc lớn của quá trình Đảng ủy
CATW lãnh đạo đấu tranh chống tham nhũng trong lực lượng CAND;
Về phạm vi thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2008;
Về mặt không gian: Trên phạm vi cả nước, nhưng tập trung vào một số
địa bàn trọng điểm.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả sử dụng
các phương pháp cơ bản, chung nhất của khoa học lịch sử như: Phương pháp
lịch sử, phương pháp logíc, phân tích, nhằm làm sáng tỏ những quan điểm, chủ
trương cơ bản của Đảng ủy CATW đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng CAND ở chương 1 và 2.
Các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê được sử dụng
để xử lý các sự kiện, con số, với mục đích dựng lại quá trình Đảng ủy CATW
chỉ đạo thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND ở
chương 1 và chương 2.
Phương pháp so sánh và hệ thống hoá được sử dụng chủ yếu trong
chương 3, để đưa ra những nhận xét, đánh giá về thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân hạn chế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng những năm 1998-2008,
làm cơ sở đúc rút những kinh nghiệm chủ yếu.
Phương pháp lịch sử, logic, khái quát hóa được tích cực sử dụng, nhằm

phân tích, luận giải cho những kinh nghiệm được đúc kết ở chương 3.
5.2. Nguồn tài liệu và hướng sử dụng
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh về
chống tham nhũng là cơ sở lý luận cho luận văn.

6


- Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, thông tư... của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về phòng, chống tham nhũng nói chung và phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng CAND nói riêng; các báo cáo của Bộ Công an... là những
tài liệu gốc của luận văn.
- Các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, sách có liên quan do
các cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện Lịch sử Công an nhân dân,
Viện Khoa học Công an, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Thanh tra... là
nguồn tư liệu quan trọng.
- Các tư liệu, sách báo về phòng, chống tham nhũng nói chung và trong
lực lượng CAND nói riêng, về phòng, chống tham nhũng một số nước trên thế
giới... là nguồn tài liệu bổ trợ dùng để làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của
vấn đề nghiên cứu.
- Tài liệu thống kê của Bộ Công an được sử dụng để làm rõ một số nội
dung có liên quan.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tập hợp, xử lý nguồn tư liệu một cách khoa học, luận văn có
những đóng góp sau:
- Làm sáng tỏ quan điểm, sự chỉ đạo của Đảng ủy CATW trong quá trình
lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng từ năm 1998 đến năm 2008.
- Rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn về
sự lãnh đạo của Đảng ủy CATW đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lực lượng CAND phục vụ hiện tại.

- Hệ thống hoá và bổ sung thêm một số tư liệu mới về quá trình Đảng ủy
CATW lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng CAND
những năm 1998-2008.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, hoặc công tác
giảng dạy cho những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu lớn của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3
chương và 6 tiết:
7


Chương 1. Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo đấu tranh phòng,
chống tham nhũng trong lực lượng từ năm 1998 đến năm 2003.
Chương 2. Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng trong lực lượng từ năm 2003 đến năm 2008.
Chương 3. Nhận xét và kinh nghiệm.

8


Chương 1
ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LỰC LƯỢNG
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2003
1.1. Khái quát về tình hình đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong lực lượng Công an nhân dân trước năm 1998
1.1.1. Công cuộc đổi mới đất nước và chủ trương xây dựng lực lượng
công an nhân dân trong sạch, vững mạnh
Bước sang năm 1986, tình hình quốc tế và trong nước có những chuyển
biến với thuận lợi cơ bản, nhưng cũng nảy sinh nhiều phức tạp, đòi hỏi Đảng

CSVN phải điều chỉnh và bổ sung đường lối lãnh đạo đất nước cho phù hợp với
tình hình mới. Để quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, từ ngày 15
đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành
tại Hà Nội.
Đại hội đã nghiêm khắc kiểm điểm, đánh giá tình hình và thực trạng kinh
tế - xã hội của đất nước, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong những năm
1975-1985. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện; đồng thời, phân tích
nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó là bệnh chủ quan, duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ
quan của Đảng. Đại hội xác định đường lối đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”, chỉ rõ: “Đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp
cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn” [24, tr.897].
Quán triệt Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 42
(2-1987) đã họp, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ công tác của lực
lượng công an trong 5 năm (1986 - 1990). Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ những
nhiệm vụ cấp thiết: 1). Đổi mới toàn diện các mặt công tác công an, đặc biệt là
đổi mới tổ chức, cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo chỉ huy và phong cách
làm việc; 2). Tăng cường củng cố tổ chức cán bộ; 3). Xây dựng tổ chức công an
9


thực sự tinh gọn, bớt trung gian, giảm đầu mối, hoạt động có hiệu quả [4, tr.45].
Bổ sung cho Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 42, Nghị quyết
Hội nghị công an toàn quốc lần thứ 43 (2-1988) nêu thêm: “Phải khẩn trương
đổi mới tổ chức cán bộ và phong cách làm việc của lực lượng Công an nhân
dân” [23, tr.62]. Hội nghị cũng khẳng định đây là công tác có vị trí đặc biệt
quan trọng, cần hết sức chú trọng và tập trung sức lực cho công tác mang tính
mấu chốt này.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các chủ trương
của Đảng ủy Bộ Nội vụ, lực lượng CAND tích cực triển khai các hoạt động trên
thực tế và sau bốn năm nỗ lực đã đạt được những kết quả quan trọng trên lĩnh
vực bảo vệ an ninh, trật tự, bước đầu đập tan âm mưu của chủ nghĩa đế quốc
câu kết với các lực lượng phản động, bất mãn, cơ hội chính trị, hoạt động lật đổ
chế độ bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, bằng con đường “đa nguyên”, “đa
đảng”, hòng xoá bỏ CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì đất nước vẫn chưa ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; đời sống của cán bộ, công nhân viên và
nhân dân lao động vẫn gặp rất nhiều khó khăn, nên tâm trạng lo lắng trong một
bộ phận nhân dân có chiều hướng tăng lên. CNĐQ và các thế lực thù địch vẫn
ra sức chống phá, hòng lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Nhằm đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới trong các lĩnh vực của
đất nước sau hơn 5 năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống và tiếp tục
đưa cách mạng Việt Nam tiến lên, từ ngày 24 đến 27-6-1991, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết
việc thực hiện đường lối đổi mới, hoàn chỉnh bổ sung và phát triển đường lối
đổi mới do Đại hội VI đề ra. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quyết định chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; xây dựng phương hướng, nhiệm vụ
cho năm 1991 - 1995; thông qua Điều lệ sửa đổi của Đảng và bầu Ban Chấp
hành mới.
Đại hội nhận định: Bên cạnh những thuận lợi, tình hình chính trị thế giới
có những mặt phức tạp mới tác động vào nước ta. Các thế lực thù địch thực hiện
10


âm mưu “diễn biến hoà bình”, kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa
đảng, nhẳm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng; truyền bá tư tưởng, văn hoá đồi trụy,
đồi bại, đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào phá hoại nước ta, câu kết với bọn
phản động và các phần tử xấu trong nước tăng cường hoạt động, hòng lật đổ chế

độ. Về an ninh, quốc phòng, Đại hội xác định nhiệm vụ trọng yếu trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn
định chính trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động phá
hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác; giữ vững trật tự an toàn
xã hội; bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng, phục vụ đắc lực công
cuộc đổi mới; đồng thời, xác định nhiệm vụ “xây dựng lực lượng công an nhân
dân trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một lực lượng vũ trang xung kích trên
mặt trận bảo vệ an ninh, trật tự” [24, tr.117].
Sau Đại hội VII của Đảng, các Đảng bộ lực lượng CAND đã tổ chức Đại
hội vòng II, nhằm quán triệt những quan điểm, đường lối, nhiệm vụ cách mạng
do Đại hội VII đề ra. Sau Đại hội Đảng bộ các cấp, lực lượng CAND đã có
chuyển biến về mọi mặt, tăng thêm sự nhất trí trong toàn lực lượng. Từ Bộ đến
các địa phương, đơn vị, đã bố trí lại đội ngũ cán bộ chủ chốt, từng bước thực
hiện trẻ hóa cán bộ lãnh đạo chỉ huy các cấp Công an, từng bước ổn định cơ bản
tổ chức và bố trí cán bộ chủ chốt theo mô hình tổ chức mới, khắc phục tình
trạng hụt hẫng cán bộ lãnh đạo các Tổng cục, Bộ tư lệnh, Vụ, Cục, Viện,
Trường và Công an các địa phương. Đã tiến hành tăng cường biên chế cho các
lực lượng chiến đấu, giảm biên chế cán bộ ở Bộ để tăng cường cho các địa
phương, đơn vị, giảm đến mức tối đa biên chế đối với các bộ phận hành chính.
Tất cả những biện pháp trên là nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng
CAND trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một lực lượng vũ trang xung kích
trên mặt trận bảo vệ an ninh, trật tự.
Bước sang năm 1996, tình hình tiếp tục có những chuyển biến nhanh
chóng. Đất nước ta đã vượt qua được một giai đoạn thử thách khó khăn và gay
go, thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định chính trị - xã
hội được giữ vững, quốc phòng, an ninh được củng cố. Quan hệ đối ngoại phát
triển mạnh mẽ, phá được thế bao vây, cấm vận, mở rộng hợp tác quốc tế và khu
11



vực, đặt Việt Nam trước nhiều vận hội. Trong những hoàn cảnh hết sức phức
tạp, CNXH ở Việt Nam đã đứng vững, vươn lên đạt những thành tựu nổi bật.
Phân tích toàn cảnh diễn biến mọi mặt của công cuộc đổi mới, Đại hội
VIII của Đảng (1996) đánh giá: Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện
đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng
XHCN. Những kết quả đạt được trong 10 năm đổi mới có ý nghĩa quan trọng,
đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho CNH và đặt nền móng để nước ta bước vào thời kỳ phát
triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Về an ninh, quốc phòng, Đại hội
phân tích: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” [24, tr.87]; từ đó, Đại
hội xác định nhiệm vụ: Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để
tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân đội và
công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây
dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân
dân” [24, tr.87].
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách
mở cửa, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường. Mặt trái của kinh tế thị trường, của
mở cửa đã tạo ra những điều kiện cho sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, tạo ra những mảnh đất mầu mỡ cho những loại tội phạm hình sự,
các tệ nạn xã hội (cờ bạc, mại dâm, nghiện hút, mê tín dị đoan…) phát triển. Mở
cửa đất nước cũng đồng thời làm xuất hiện những khả năng cho âm mưu “diễn
biến hòa bình” có điều kiện xâm nhập vào đất nước ta.
Như vậy, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, những vận hội mới do đổi
mới, mở cửa, hội nhập mang lại, thì đất nước cũng đứng trước không ít khó
khăn, thách thức trên nhiều phương diện, lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong
lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Cũng do đó mà nhiệm vụ trên mặt trận an ninh
quốc phòng hết sức nặng nề: Một mặt, phải đảm bảo giữ vững ổn định xã hội từ
phía bên trong; mặt khác, bảo vệ đất nước trước những âm mưu chống phá từ
bên ngoài. Hai nhiệm vụ này đều khó khăn ngang nhau, đòi hỏi các lực lượng

12


an ninh, quốc phòng phải không ngừng được xây dựng, củng cố, phát triển, thật
sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một lực lượng vũ trang xung kích trên
mặt trận bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, cùng với hội
nhập, mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, thì vấn nạn tham nhũng cũng phát
triển theo, trở thành nguy cơ trầm trọng, trực tiếp đối với an ninh quốc gia và
trật tự xã hội. Và tham nhũng sẽ càng trở nên nguy hiểm, nếu nó trở thành căn
bệnh trong lực lượng CAND, làm suy yếu lực lượng CAND từ bên trong.
Những luận giải trên đây cho thấy, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức
tạp, trong điều kiện Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thì nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND trở thành một nhiệm vụ quan trọng,
song cũng hết sức nặng nề. Do đó, bên cạnh việc xây dựng lực lượng vững
mạnh về tổ chức, chính trị - tư tưởng, thì vấn đề phòng, chống tham nhũng trong
lực lượng phải được tiến hành mạnh mẽ, triệt để, làm trong sạch lực lượng, để
lực lượng đủ năng lực, tăng cường sức chiến đấu, thực hiện thành công nhiệm
vụ do Đại hội VIII đề ra là “củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia”.
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra, những năm 1986-1997, Đảng ủy Bộ
Nội vụ luôn chú trọng công tác tiến hành đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong lực lượng.
1.1.2. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực lượng Công
an nhân dân trước năm 1998
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực mang tính lịch sử - xã hội, gắn
liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Về
tham nhũng, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, nhất là trên bình diện quốc tế.
Do sự khác biệt về văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp lý…
nên hầu như mỗi quốc gia đều có những cách tiếp cận riêng trong việc nhận
diện tham nhũng. Các nước phát triển còn có xu hướng mở rộng khái niệm tham
nhũng đến cả khu vực tư nhân. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, thì “tham

nhũng là sự lợi dụng quyền lực Nhà nước để trục lợi riêng”. Còn theo Tổ chức
Minh bạch quốc tế, “tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền
hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân” [67, tr.14]. Ở
13


Việt Nam, tại Điều 1, Khoản 2, Luật Phòng, chống tham nhũng đã định nghĩa
tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [57, tr.14].
Nhìn chung, tuy có những khác biệt nhất định, song các quan niệm về
tham nhũng đều có điểm chung là xác định tham nhũng dựa trên ba yếu tố
chính: 1). Người có chức vụ, quyền hạn; 2). Sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó;
3). Có mục đích vụ lợi (cho cá nhân người có chức vụ, quyền hạn hoặc cho ai
đó có quan hệ với người này). Như vậy, tham nhũng là hành vi của con người
có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ, hoặc cố ý
làm trái pháp luật vì động cơ lợi nhuận, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập
thể, cá nhân.
Tại Điều 3, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định rõ 12 hành vi
tham nhũng1, tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm riêng của ngành Công an,
nhìn chung, tham nhũng trong lực lượng CAND thường xuất hiện từ quyền lực
đặc biệt trong hoạt động tư pháp và trong quản lý hành chính Nhà nước về an
ninh trật tự. Cùng với việc được đào tạo nghiệp vụ công an cơ bản, trải qua thực
tiễn đấu tranh chống tội phạm, nên những kẻ tham nhũng trong lực lượng có
nhiều kinh nghiệm, thủ đoạn che dấu hành vi vi phạm. Do đó, chứng minh được
hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật của cán bộ, chiến sỹ Công an là rất khó khăn,
làm rõ được động cơ vụ lợi lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, đấu tranh chống tham
nhũng trong CAND rất phức tạp, thậm trí quyết liệt.
Nhằm đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, ngày 129-1987, BCT đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW Về cuộc vận động làm
sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm
lành mạnh các quan hệ xã hội. Ngày 16-6-1990, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết

định số 240 Về chống tham nhũng. Quán triệt tinh thần các văn kiện nêu trên,
ngày 26-7-1990, Bộ Nội vụ đã có Chỉ thị số 31/CT, chỉ đạo toàn lực lượng thi
hành, thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong lực lượng, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh đến công tác giáo dục chính trị - tư tưởng đối với cán bộ,
1

Xem thêm Phụ lục số 2

14


chiến sỹ. Chỉ thị số 31/CT cũng nhấn mạnh việc chú ý xây dựng tác phong làm
việc cán bộ, chiến sĩ Công an - một tác phong sâu sát, gần gũi với quần chúng;
gắn nhiệm vụ đó với nhiệm vụ củng cố nội bộ, làm trong sạch nội bộ thông qua
công tác đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, gây phiền
hà đối với nhân dân. Cùng với việc tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng, các đơn vị cũng cần tập trung vào việc bố trí lại đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, thực hiện
giảm biên chế, nhằm tạo ra chất lượng mới trong việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị. Bộ Nội vụ cũng phát động nhiều cuộc vận động xây dựng lực lượng CAND
trong sạch, vững mạnh như Phong trào học tập 6 điều Bác Hồ dạy, chống quan
liêu, cửa quyền, tham nhũng trong Công an với mục đích củng cố sự đoàn kết,
thống nhất trong lực lượng, tăng cường mối liên hệ giữa công an và quần chúng,
củng cố, lòng tin của quần chúng đối với lực lượng.
Để giữ nghiêm kỷ luật, Đảng ủy CATW chỉ đạo lãnh đạo Bộ tăng cường
công tác thanh tra trong lực lượng CAND. Lực lượng thanh tra tập trung vào
việc tiếp tục thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh thanh tra năm 1990, Pháp lệnh
khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991. Sau khi có Pháp lệnh thanh tra, ngày
12-10-1990, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Chỉ thị số 17-CT/BNV Về việc tăng cường
công tác thanh tra trong tình hình mới. Chỉ thị nhận định rằng, “trong lực lượng

Công an nhân dân có tình trạng cán bộ, chiến sỹ lợi dụng chức quyền làm trái
chính sách, pháp luật và các quy định của Bộ trong việc bắt giam, tha, thu giữ
tài sản, thiếu tinh thần trách nhiệm, giảm sút đạo đức cách mạng, tha hóa biến
chất, tham ô tiền, tài sản, hách dịch cậy quyền, sách nhiễu nhân dân” [12, tr.3].
Tình trạng đó thực sự nguy hiểm, đáng báo động, vì “đã làm hư hỏng nhiều cán
bộ chiến sỹ, làm suy yếu lực lượng, làm giảm lòng tin với nhân dân” [12, tr.3];
vì thế, biện pháp cấp bách lúc này được Chỉ thị xác định là tăng cường và tiếp
tục đổi mới công tác thanh tra, đặc biệt là thanh tra chống tiêu cực trong Công
an.
Để ngăn ngừa tham nhũng do điều kiện thiếu thốn kinh tế, Bộ Nội vụ cũng
chú trọng công tác hậu cần. Nhờ tinh thần chủ động, cố gắng, nỗ lực của cán bộ,
chiến sỹ làm công tác hậu cần, nên việc chăm lo đời sống và mua sắm thêm trang
15


bị, phương tiện phục vụ công tác và chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ được tăng
thêm một bước. Đặc biệt, việc từng bước giải quyết nhà ở cho cán bộ chiến sỹ,
giảm dần và xóa tình trạng ngủ đêm tại bàn làm việc; công tác y tế chăm lo điều
trị bệnh cho các cán bộ, chiến sỹ được giải quyết trở thành yếu tố tích cực, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác phòng, chống tham nhũng.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chống tham nhũng, ngày 13-21993, Chính phủ đề ra Kế hoạch số 493/NC Về những biện pháp cấp bách nhằm
ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng, buôn lậu. Ngay lập tức, nắm bắt tinh thần
của Kế hoạch, ngày 6-3-1993, Bộ Nội vụ đã ban hành Kế hoạch số 110/BNV
(V24) Về đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong lực lượng Công an nhân
dân, với ba nội dung cơ bản: Thứ nhất, “tất cả các hành vi tiêu cực, tham nhũng
trong công an phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo phương châm nghiêm
trị kẻ ngoan cố, độ lượng với người hối cải; chống phải gắn liền với xây, chống
và xây phải làm giảm được tiêu cực, tham nhũng, góp phần làm trong sạch nội
bộ, sắp xếp lại tổ chức, bố trí lại cán bộ, lập lại kỷ cương trong việc thực hiện
chủ trương, chính sách, pháp luật [13, tr.2]; thứ hai, “đấu tranh chống tiêu cực,

tham nhũng phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết nhưng không gây ra căng
thẳng, không để kẻ địch và bọn xấu lợi dụng kích động, xuyên tạc” [13, tr.2];
thứ ba, “phải tạo được động lực thúc đẩy các hoạt động đúng pháp luật trong
toàn lực lượng để thực hiện kết quả nhiệm vụ chính trị, lấy lại lòng tin của nhân
dân” [13, tr.2].
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo trên, ngày 24-7-1993, Bộ Nội vụ đã ban hành
Quyết định số 328/QĐ-BNV Về Thành lập Ban thường trực chống tham nhũng
trong Công an nhân dân trực thuộc Bộ trưởng, nhằm chủ động phòng ngừa, kịp
thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các vi phạm trong lực lượng CAND.
Để tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 14/NQ/TW, ngày 15-5-1996 của
BCT Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng và Chỉ thị số 10 CT/TW,
ngày 4-1-1997 của BCT (khóa VIII) Về tăng cường việc tổ chức thực hiện Nghị
quyết 14 của Bộ Chính trị khóa VII, ngày 16-1-1997, Bộ Nội vụ ban hành Chỉ
thị số 03/BNV (V24), Về việc tăng cường đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng
16


trong lực lượng Công an nhân dân với nội dung chính: 1). Đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực trong CAND là trách nhiệm của toàn thể cán bộ, đảng
viên, chiến sỹ, bằng các biện pháp đồng bộ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng
ủy Bộ Nội vụ; 2). Phải gắn việc chống quan liêu, cửa quyền, chống xa hoa, lãng
phí, gắn thực hành tiết kiệm với việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng; 3).
Đấu tranh phải kiên quyết, triệt để, nhưng rất thận trọng; 4). Trong đấu tranh
phải lấy xây làm chính, gắn đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng với yêu cầu
đổi mới tổ chức và công tác Công an; 5). Tập trung đấu tranh mạnh với các
hành vi tiêu cực, tham nhũng ở các “địa danh”, “địa chỉ” đã được xác định [14,
tr.2-3].
Có thể thấy rằng, nhiều quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng ủy Bộ
Nội vụ và lãnh đạo Bộ Nội vụ về đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong
nội bộ được hình thành ngay từ năm 1990. Các hoạt động tích cực trong đấu

tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ủy Bộ Nội vụ, lãnh đạo Bộ Nội được
thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua các biện pháp đồng bộ, có sự phối
kết hợp giữa Đảng ủy Bộ Nội vụ và lãnh đạo Bộ Nội vụ, của cấp ủy và thủ
trưởng Công an các cấp. Sự chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Nội vụ đối với cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng luôn tính đến và chú trọng đảm bảo tăng cường
đoàn kết nội bộ, bảo vệ được cán bộ tốt, dám thẳng thắn, dũng cảm đấu tranh,
không để kẻ địch, phần tử xấu lợi dụng, kích động gây chia rẽ, làm giảm uy tín
của lực lượng CAND; đồng thời, hoạt động phòng, chống tham nhũng cũng
được đẩy mạnh ở các cơ quan điều tra, ở lực lượng bảo vệ nội bộ, lực lượng
trực tiếp quản lý hành chính về an ninh, trật tự, các bộ phận công tác có liên
quan đến việc mua sắm, quản lý, sử dụng các vật tư, tài sản, trang thiết bị.
Nhờ những quan điểm chỉ đạo trên, nhận thức, tinh thần và ý thức trách
nhiệm của cán bộ, chiến sỹ Công an về đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng
trong CAND nói riêng và đấu tranh với những hành vi tham nhũng trong xã hội
nói chung đã được nâng lên. Nhiều cấp ủy và lãnh đạo đơn vị đã nhận thức sâu
sắc tác hại của hành vi tham nhũng trong lực lượng và có thái độ kiên quyết đấu
tranh với những việc làm sai trái đó. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn thấp
so với yêu cầu đặt ra, tệ tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ còn nghiêm trọng,
17


công tác đấu tranh ở một số đơn vị còn chưa kiên quyết, có nơi còn buông lỏng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này do thủ trưởng các đơn vị chưa chấp
hành nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước và của Bộ, các cơ quan
chuyên trách chưa đủ mạnh, chưa phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, việc xử lý các
trường hợp sai phạm còn chưa nghiêm, cơ chế, chính sách, pháp luật và các quy
chế của Nhà nước, của ngành chưa hoàn chỉnh và còn nhiều thiếu sót, sơ hở.
Bên cạnh đó, do tác động tiêu cực cơ chế thị trường ngày càng mạnh mẽ, các
loại tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là tội phạm có tổ
chức, dùng mọi thủ đoạn kể cả vật chất lẫn tinh thần để lôi kéo, mua chuộc cán

bộ, chiến sỹ, cùng với việc không chịu rèn luyện về phẩm chất, đạo đức của một
số cán bộ, chiến sỹ, do bất cập về chế độ chính sách và do công tác quản lý cán
bộ còn yếu, nên một số cán bộ, chiến sỹ đã bị sa ngã, thoái hóa, biến chất, đặc
biệt là các lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm, lĩnh vực quản lý
hành chính về an ninh trật tự, lĩnh vực công tác hậu cần, kỹ thuật và quản lý tài
chính, tài sản; lĩnh vực xây dựng lực lượng. Do vậy, những tồn tại này tiếp tục
đặt ra đòi hỏi về việc đẩy mạnh, tăng cường cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong thời gian tiếp theo.
1.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đấu tranh phòng,
chống tham nhũng trong lực lượng của Đảng ủy Công an Trung ương từ
năm 1998 đến năm 2003
1.2.1. Chủ trương đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lực
lượng của Đảng ủy Công an Trung ương
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 (XX), CNXH tạm thời lâm vào
thoái trào sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, “nhưng điều đó không làm
thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” [26, tr.640 ]. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc
tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy
ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình
độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất; đồng thời, thúc đẩy quá trình
18


chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.
Bối cảnh quốc tế nói trên có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam.
Đến năm 1998, công cuộc đổi mới đã tiến hành được hơn 10 năm và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội; đời sống vật chất của đông đảo nhân dân được cải thiện một

bước; giữ vững ổn định chính trị; quốc phòng, an ninh được củng cố. Thành tựu
10 năm đổi mới đã tạo được những tiền đề cần thiết cho công cuộc CNH, HĐH
đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được, Việt Nam cũng phải đối đầu với
nhiều thách thức như “tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
"diễn biến hòa bình" do các thế lực thù địch gây ra” [26, tr.15]. Những thách thức,
nguy cơ đó “vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau, không
thể xem nhẹ nguy cơ nào" [26, tr.15]. Trong điều kiện đó, Đảng và nhân dân ta
tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ được xác định tại Đại hội lần thứ VIII của
Đảng (1996), đặc biệt là công tác xây dựng Đảng, bởi trong công tác này vẫn
còn nổi lên một số vấn đề nổi cộm: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém
ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống, một số thoái hoá biến chất về
chính trị” [24, tr.641 ]; trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt
chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tiếp tục tinh thần Đại hội lần thứ
VIII, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2), BCHTW ĐCSVN (khoá VIII, 2-1999) tiếp tục
đặt ra những vấn đề quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trên tinh thần
"nói đi đôi với làm", nêu gương tốt, ngǎn chặn và đẩy lùi các tiêu cực, trước hết
là tệ quan liêu, tham nhũng. Trên cơ sở phân tích sâu sắc công tác xây dựng
Đảng thời gian qua, nhằm bảo đảm "Đảng phải mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới" [43], Hội nghị nhấn mạnh
nhiệm vụ “tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu có hiệu quả”. Mang tính chuyên sâu, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) thể
hiện quyết tâm và trách nhiệm cao trước toàn Đảng, toàn dân trong vấn đề
chống tham nhũng, đem lại luồng gió mới cho cuộc đấu tranh phòng, chống
19


tham nhũng. Đó cũng chính là cơ sở, là nền tảng, dựa trên đó, các cấp, các
ngành triển khai những biện pháp cụ thể chống tham nhũng.

Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội mới, song
cũng phải đương đầu với những thách thức to lớn. Để đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu lần thứ IX (2001) của Đảng
được tổ chức. Khẳng định mục tiêu tổng quát trong những năm tới là “đưa đất
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
văn hoá, tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá” [24, tr.24], Đại hội
xác định mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là “đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống
chính trị, ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở” [24, tr.32]. Đại hội
đồng thời chỉ rõ đây là nhiệm vụ hết sức bức thiết, nêu lên định hướng chống
tham nhũng: “Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu,
đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính” [24,
tr.34]. Các giải pháp thực hiện là: 1). Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế - tài chính,
quản lý tài sản công, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng; 2). Tiếp tục xóa bỏ
các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra
tham nhũng, sách nhiễu; 3). Thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát bảo đảm
tính minh bạch trong việc sử dụng vốn nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp
và do nước ngoài tài trợ; 4). Các đảng viên và chi bộ đảng, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội có trách
nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ
tham nhũng; 5). Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người
hưởng lương, chống đặc quyền đặc lợi; 6). Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc
có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở
nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhận thức tác hại, sự nghiêm
trọng của “căn bệnh” tham nhũng, coi đó như một căn bệnh nguy hiểm, một thứ
vi trùng độc hại len lỏi vào cơ thể xã hội, làm cho cơ thể đó mang bệnh, suy
20



×