ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------♦-------
NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH (1996 - 2006)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------♦--------
NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH (1996 - 2006)
Chuyên ngành:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. ĐINH XUÂN LÝ
Hà Nội - 2009
BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- Cải cách hành chính:
CCHC
- Cán bộ công chức:
CBCC
- Chủ nghĩa xã hội:
CNXH
- Hội đồng nhân dân:
HĐND
- Ủy ban nhân dân:
UBND
- Xã hội chủ nghĩa:
XHCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................... 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài........................................................................ 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 8
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................................ 9
Chƣơng 1 ..................................................................................................... 10
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CỦA ĐẢNG BỘ ............... 10
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH ..................... 10
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 ................................................................. 10
1.1. Chủ trƣơng của Đảng về cải cách hành chính (1996 - 2000) .................. 10
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu về cải cách nền hành chính nhà nƣớc ... 10
1.1.2. Chủ trƣơng của Đảng về cải cách hành chính (1996 - 2000) ............... 13
1.2. Đảng bộ Thành phố Hải Phòng vận dụng chủ trƣơng của Đảng về cải
cách hành chính ............................................................................................ 18
1.2.1. Đặc điểm địa lý - hành chính, kinh tế - xã hội Thành phố Hải
Phòng .......................................................................................................... 18
1.2.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
về cải cách hành chính.................................................................................. 22
- Chủ trƣơng của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng ..................................................... 22
Chương 2 CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HẢI PHÒNG DƢỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006 .... 33
2.1. Chủ trƣơng của Đảng về cải cách hành chính (2001 - 2006) .................. 33
2.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng về cải cách
hành chính ở địa phƣơng .............................................................................. 40
2.2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng ................................. 40
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ................................................................. 49
Chương 3 Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ QUÁ TRÌNH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH ................................................................................. 68
3.1. Ý nghĩa .................................................................................................. 68
3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 87
Phụ lục 1 ...................................................................................................... 95
Phụ lục 2 .................................................................................................... 101
Phụ lục 3 .................................................................................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cải cách hành chính (CCHC) ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra
trong điều kiện có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Vì vậy,
việc xây dựng các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc CCHC và đề ra
những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng
giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng trong tiến trình đổi
mới đất nước.
Thực tiễn cho thấy rằng, CCHC là yêu cầu bức xúc của nhân dân
và là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Cải cách
hành chính là một quá trình thay đổi cơ bản cơ cấu quyền lực của bộ máy Nhà
nước nhằm đạt được sự phối hợp giữa các bộ phận vì mục đích chung, phối
hợp các quyền lực để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý, phục vụ nhân dân.
Hiểu theo nghĩa này, CCHC là những thay đổi các khâu trong hoạt động quản
lý nhà nước như: lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài
chính...
Những năm qua, CCHC được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm
do các nguyên nhân như: những thành tựu về khoa học và công nghệ đã tác
động mạnh mẽ tới quy trình quản lý; kinh tế thị trường ngày càng được mở
rộng, đòi hỏi phải thay đổi truyền thống cũ của nền hành chính; nước ta hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải xoá bỏ dần sự ngăn cách
của mô hình hành chính không phù hợp với yêu cầu phát triển; nền hành
chính cũ mang tính quan liêu và ngày càng tỏ ra không phù hợp với xu thế
phát triển dân trí ngày càng cao, đòi hỏi dân chủ ngày càng cấp bách.
Hải Phòng là một thành phố cảng biển, là trung tâm kinh tế, công
nghiệp, thương mại, dịch vụ vùng duyên hải Bắc Bộ, là đầu mối giao thông
quan trọng của miền Bắc. Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính
1
được Đảng bộ Thành phố Hải Phòng xác định là khâu đột phá, giải phóng các
rào cản cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc đẩy mạnh CCHC ở Hải Phòng đã
tăng cường hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, tạo môi trường đầu tư
thông thoáng hơn, đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu rộng, làm minh bạch hóa và góp phần phòng, chống tham nhũng... Tuy
nhiên, trong quá trình lãnh đạo, tổ chức và thực hiện của Đảng bộ Thành phố
Hải Phòng, có nhiều nội dung thuộc về biện pháp thực hiện cần phải được
điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò lãnh
đạo của Đảng bộ Hải Phòng, làm rõ những thành tựu, hạn chế, rút ra những
kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo để thực hiện tốt hơn chương trình tổng thể
CCHC của Nhà nước, là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực.
Xuất phát từ những yêu cầu, mục đích khoa học và thực tiễn trên, tôi
chọn vấn đề “Đảng bộ Thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện cải cách
hành chính 1996 - 2006" làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hành chính nhà nước nói chung và CCHC nói riêng đã có nhiều
cá nhân và tập thể tác giả quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Duy Gia, “Cải
cách nền hành chính Quốc gia ở nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995; Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn, “Một số vấn đề về cải cách thủ tục
hành chính”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Đào Trọng Tuyến, “Một
số vấn đề về xây dựng và cải cách nền hành chính nhà nước Việt Nam”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Bùi Tiến Quý, Dương Canh Mư, “Một số
vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; Vũ Huy Từ (chủ
biên), Nguyễn Khắc Hùng, “Hành chính học và cải cách hành chính”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; “So sánh hành chính các nước ASEAN”,
2
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; “Lý luận chung về hành chính nhà
nước”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; Thang Văn Phúc, “Cải cách hành chính
nhà nước - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001; “Một số văn bản pháp luật về chương trình cải cách hành
chính, tinh giản biên chế trong bộ máy nhà nước”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002; Nguyễn Đình Tấn, Lê Ngọc Hùng, “Xã hội học hành chính:
nghiên cứu giao tiếp và dư luận xã hội trong cải cách hành chính”, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội, 2004; Đỗ Quang Trung, Phạm Ngọc Quang, “Đảng
với công tác cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2006; Hoàng Lan Anh, Hoàng Trà My, “Đẩy
mạnh cải cách hành chính - xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006; Diệp Đình Sơn, “Cải cách
hành chính - những vấn đề cần biết”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2006; Đoàn
Trọng Tuyến, “Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN”, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006... Các công trình nêu trên chủ yếu
đề cập những vấn đề lý luận chung về hành chính nhà nước và CCHC; những
chủ trương, giải pháp trong CCHC; xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với
cơ chế mới, cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật; sắp
xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương.
Ngoài ra, còn có các bài viết về CCHC đăng tải trên các tạp chí, báo
như: “Trên đường hội nhập - nhiều cải cách đáng kể được thực hiện” của
Nguyễn Linh, Báo Bưu điện, số 18 (692), tháng 3/2006; “Cải cách hành
chính nhà nước - giải pháp hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội” của
Thang Văn Phúc, báo Nhân dân, ngày 08/3/2006; “Tiếp tục cải cách chính
sách lao động, tiền lương tạo động lực cho kinh tế phát triển nhanh” của
Nguyễn Thị Hằng, Báo Lao động và xã hội, ngày 30/4/2006; “Năm năm thực
hiện chương trình cải cách hành chính nhà nước: tồn tại và những giải pháp
khắc phục” của Hồng Hà, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số
3
141, tháng 12/2006; “Chương trình cải cách hành chính, thực trạng và vấn đề
đặt ra” của Đỗ Quốc Sam, Tạp chí Cộng sản, số 772, tháng 2/2007; “Đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước”
của Đinh Duy Hoà, Tạp chí Cộng sản, số 774, tháng 4/2007; “Bàn về lãnh
đạo và quản lý trong công cuộc cải cách hành chính” của Đỗ Quốc Sam, Tạp
chí Cộng sản, số 776, tháng 6/2007; “Tổng điều tra, khảo sát, đánh giá công
chức - một nội dung thực hiện chủ trương cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001 - 2010” của Đàm Hoàng Thụ, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số
3/2008; “Cải cách hành chính và tăng trưởng kinh tế” của Nguyễn Sinh Doãn Huề, Tạp chí Cộng sản, số 788, tháng 6/2008; “Cải cách tài chính công
ở Việt Nam” của Trần Văn Giao, Tạp chí Cộng sản, số 788, tháng 6/2008;
“Quá trình thực hiện cải cách hành chính nhà nước qua hơn hai mươi năm
đổi mới” của Thang Văn Phúc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8, năm 2008; “Đẩy
mạnh hơn nữa cải cách hành chính để hội nhập và phát triển” của Trần Văn
Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 790, tháng 8/2008; “Cải cách thể chế ở Việt Nam
trước thách thức toàn cầu hoá” của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Cộng sản, số
791, tháng 9/2008; “Đảng lãnh đạo cải cách tổ chức và hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước giai đoạn 1986 - 2006” của Trần Đình Thắng, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 10/2008. Các công trình trên đã đề cập những nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo CCHC; thành tựu, hạn chế của công cuộc CCHC; mối quan
hệ giữa CCHC với phát triển kinh tế - xã hội; phương hướng, giải pháp thực
hiện CCHC...
Cải cách hành chính nhà nước còn được đề cập ở một số luận văn thạc
sĩ như: “Công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1996)” của Lê Văn In, Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998;
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước từ
năm 1996 đến năm 2006” của Lê Đình Lung, Luận văn Thạc sĩ, Trung tâm
4
Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006. Các công trình nghiên cứu trên đã khái quát nền hành chính Việt Nam
trước năm 1986; những yêu cầu khách quan cải cách nền hành chính; các
phương hướng, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện cải cách nền hành chính nhà
nước theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng; kết quả về CCHC trong từng
giai đoạn; những kinh nghiệm được rút ra và các kiến nghị, giải pháp CCHC
trong những năm tiếp theo. Thực tế cho thấy, đến nay chưa có công trình nào
đã được công bố nghiên cứu một cách hệ thống về quá trình Đảng bộ Thành
phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện CCHC.
Các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị, gợi mở cho
chúng tôi nhiều vấn đề thuộc về lý luận và thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích:
- Góp phần làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
trong thực hiện CCHC;
- Rút ra một số kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo thực hiện CCHC
của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm 2006.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:
- Làm rõ đặc điểm địa lý - hành chính, kinh tế - xã hội và những yêu
cầu đặt ra đối với CCHC nhà nước ở Hải Phòng;
- Phân tích hệ thống các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ Thành
phố Hải Phòng về CCHC từ năm 1996 đến năm 2006;
- Trình bày sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
về CCHC;
- Làm rõ kết quả và ý nghĩa của quá trình CCHC ở Hải Phòng;
5
- Rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho việc tiếp tục
CCHC ở Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ trương, giải pháp của Đảng
bộ Thành phố Hải Phòng trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện CCHC.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quá trình Đảng bộ Hải
Phòng vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
CCHC trên địa bàn Thành phố từ năm 1996 đến năm 2006.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu chính để thực hiện luận văn gồm các nhóm:
- Các văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam có
liên quan đến CCHC.
- Các Báo cáo, Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ và các
cấp chính quyền ở Thành phố Hải Phòng về CCHC.
- Các ấn phẩm, sách, bài tạp chí và các bài báo về CCHC.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng
phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc. Ngoài ra, có kết hợp với các phương
pháp khác như phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh. Các phương
pháp trên được vận dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp hệ thống tư liệu về quá trình Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
lãnh đạo thực hiện CCHC giai đoạn 1996 - 2006, đóng góp vào việc biên soạn
lịch sử Đảng bộ địa phương.
- Luận văn cung cấp một số kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho quá
trình tiếp tục thực hiện CCHC ở Thành phố Hải Phòng.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho giảng dạy và nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến CCHC.
6
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Thành phố
Hải Phòng về cải cách hành chính từ năm 1996 đến năm 2000.
Chương 2. Cải cách hành chính ở Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố từ năm 2001 đến năm 2006.
Chương 3. Ý nghĩa và một số kinh nghiệm về quá trình Đảng bộ Thành
phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính.
7
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Chủ trương của Đảng về cải cách hành chính (1996 - 2000)
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu về cải cách nền hành chính nhà
nước
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, cả nước độc
lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Bước vào thời kỳ này, công cuộc xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng gặp không
ít khó khăn, phức tạp. Nhiều vấn đề không lường trước đã xảy ra ở cả trong
nước và trên phạm vi toàn thế giới, ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình đi lên của
cách mạng nước ta.
Về thuận lợi cơ bản là: Khí thế cách mạng của nhân dân, của dân tộc
vừa chiến thắng hăng hái bước vào công cuộc xây dựng CNXH với một niềm
tin mãnh liệt trên tinh thần tự lập, tự cường, quan hệ quốc tế bước đầu mở
rộng, tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến trên
thế giới.
Về khó khăn: Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc
hậu, năng suất lao động thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nguồn viện
trợ giảm đi rõ rệt. Các thế lực thù địch cấm vận, bao vây kinh tế cản trở công
cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta. Thêm vào đó, chúng ta vừa ra khỏi
chiến tranh, lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh diễn ra ở biên giới
phía Bắc và phía Tây Nam. Trong quan hệ quốc tế, đây là thời kỳ chúng ta
gặp nhiều khó khăn phức tạp, không có lợi cho cách mạng, các nước XHCN
8
anh em lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện. Các thế lực thù địch tập
trung chống phá các nước CNXH, trong đó có Việt Nam.
Nền hành chính nhà nước trong thời gian trước đổi mới theo đánh giá
của Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) thì bộ máy nhà nước còn quá cồng
kềnh và kém hiệu quả. Các cơ quan nhà nước ở trung ương có tới 34 bộ, cơ
quan ngang bộ và 40 cơ quan thuộc Chính phủ. Cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng,
nhiều nấc [18, tr.133]. Nhược điểm lớn nhất của Nhà nước giai đoạn này là
chậm đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức lãnh đạo rập khuôn như thời
chiến tranh, hạn chế khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Lý luận của
Đảng về xây dựng nhà nước lạc hậu, chưa theo kịp đà chuyển biến của thực
tiễn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, lấy trọng tâm là đổi mới kinh tế. Để
thực hiện tốt công cuộc đổi mới này, về mặt nhà nước, Nghị quyết Đại hội chỉ
rõ, cần phải “tiến hành một cuộc cải cách lớn các cơ quan của bộ máy Nhà
nước” theo phương hướng “Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà
nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp.
Tăng cường bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cơ sở thành
một thể thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt chức năng quản
lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo
ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế, xã hội” [18, tr.138].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được
sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn
chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nặng nề.
9
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã thể hiện bước tiến nhận
thức của Đảng về nền hành chính nhà nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh theo con đường XHCN, Cương lĩnh khẳng định phải xây dựng
Nhà nước “có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà
nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực
hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước” [18, tr.152]. Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 nêu trọng tâm cải cách là
“nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống
hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng
lực, hiệu quả” [18, tr.173].
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991), Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương 8, Khoá VII (tháng 1/1995) đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng
và phát triển nền hành chính nhà nước. Lần đầu tiên thuật ngữ cải cách nền
hành chính được sử dụng chính thức trong văn kiện của Đảng và cũng lần
đầu tiên cả 3 nội dung chủ yếu của CCHC đã được trình bày có hệ thống
trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, đó là cải cách thể chế hành chính,
chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ CBCC.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về CCHC qua Đại hội lần thứ VI
và lần thứ VII đã góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Dân chủ về
kinh tế được tăng cường. Dân chủ về chính trị được mở rộng. Tổ chức bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở đã được đổi mới, hoàn thiện theo
hướng tinh gọn, hiệu quả hơn và gần dân hơn… Nhờ đó, tạo sự ổn định chính trị
- xã hội, tiền đề quan trọng để nước ta bước sang thời kỳ mới của sự phát triển,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, nền hành chính nhà nước do
được xây dựng và phát triển trong điều kiện nước ta vốn là một nước nông
10
nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng sâu đậm hàng trăm năm đô hộ của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới sau đó là hàng chục năm vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp, nên nền hành chính đó đã tồn tại nhiều yếu
kém, ảnh hưởng đến bản chất dân chủ XHCN của Nhà nước ta, làm giảm hiệu
quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và việc phát huy bản chất của một nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta
khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng
bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc CCHC
trong thời gian qua. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng,
kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh có hiệu lực và hiệu quả,
bài trừ quan liêu, giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
1.1.2. Chủ trương của Đảng về cải cách hành chính (1996 - 2000)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã nghiêm
túc nhận định về thực trạng yếu kém, bất cập làm cản trở sự phát triển của đất
nước. Đó là chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý nền kinh tế khi chuyển
đổi sang cơ chế thị trường; tổ chức bộ máy Nhà nước vẫn còn bất hợp lý; nền
hành chính ở nhiều khâu vẫn chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường; năng
lực CBCC chưa thực sự tương xứng với yêu cầu của xã hội, của tiến trình hội
nhập… Vì thế, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định “tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Trong đó, “Cải
cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện nhà
nước trong những năm trước mắt, công cuộc CCHC phải dựa trên cơ sở pháp
luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức
bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ CBCC hành chính” [12, tr.512].
11
- Về cải cách thể chế hành chính: Thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục
hành chính, cả về thể chế và tổ chức thực hiện; loại bỏ những khâu bất hợp lý,
phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.
- Về tổ chức bộ máy: Chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt
động của bộ máy hành chính các cấp. Làm cho bộ máy tinh gọn, đảm bảo sự
điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt, có hiệu lực từ Chính phủ đến
chính quyền địa phương, cơ sở, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động
của địa phương, cơ sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương. Kiện toàn bộ máy chính quyền
cấp huyện và cơ sở để đủ sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền
những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân đòi hỏi.
- Về đội ngũ CBCC hành chính: Xây dựng và ban hành văn bản pháp
quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm
quyền, quyền lợi và kỷ luật công chức hành chính. Quy định các chế độ đào
tạo, tuyển dụng, sử dụng công chức. Xây dựng đội ngũ CBCC nhà nước vừa
có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính
trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thừa hành công vụ.
Đại hội VIII xác định mục tiêu của CCHC là nhằm xây dựng một nền
hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước
hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc
đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân
dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ
thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban
hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa
12
phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở
xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành.
Theo đó, 4 điểm bổ sung quan trọng trong định hướng cải cách được Nghị
quyết Đại hội đề ra là:
- Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính;
- Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các
cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi
tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ CBCC, kiên quyết xử lý và
sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp
lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong
bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước);
- Thành lập Toà án hành chính.
Cụ thể hóa chủ trương trên, tháng 6/1997, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, khoá VIII ra Nghị quyết về phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện CCHC là một trong những chủ trương và giải pháp lớn
được nhấn mạnh trong Nghị quyết, nhằm mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là
giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, ngăn chặn và đẩy lùi
tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân
dân diễn ra nghiêm trọng trong bộ máy Nhà nước. Đồng thời, Nghị quyết cụ
thể hoá các chủ trương quan trọng của Đại hội Đảng lần thứ VIII với các nội
dung cơ bản như:
- Mở rộng dân chủ và tính công khai trong hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Mở rộng mạnh mẽ quyền dân chủ của dân đối với tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nhấn mạnh nhu cầu thể chế hoá, đảm
bảo môi trường công khai để nhân dân kiểm soát hoạt động của bộ máy
13
Nhà nước, trước hết là công khai hoá về sử dụng ngân sách của các cơ quan
nhà nước.
- Thực hiện phân cấp mạnh mẽ trách nhiệm và thẩm quyền hành chính
cho các cấp chính quyền địa phương, nhất là cấp Trung ương với cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, chính quyền địa phương có thẩm
quyền lớn hơn trong 3 lĩnh vực: quy hoạch, kế hoạch địa phương; tài chính
ngân sách; tổ chức bộ máy hành chính địa phương.
- Trên cơ sở xác định rõ chức năng quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị
trường và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh hợp lý tổ chức bộ máy của
các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy chính quyền địa phương.
Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3
(khoá VIII) chỉ rõ phương hướng, mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCC từ Trung
ương đến cơ sở, đặc biệt đối với người đứng đầu, với các yêu cầu về phẩm
chất, năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh CBCC ngày 26/02/1998, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng
đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, trình độ cho cả hệ thống chính trị,
theo các yêu cầu phát triển mới của đất nước. Pháp lệnh quy định chế độ
tuyển dụng qua thi tuyển công khai, dân chủ được áp dụng thay thế cho chế
độ xét tuyển trước đó, nhằm chọn được người có đủ phẩm chất, tài năng vào
bộ máy Nhà nước; những việc CBCC không được làm; chế độ ngạch bậc, xử
lý vi phạm đối với CBCC.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Nghị quyết Trung ương 7 khoá
VIII của Đảng (8/1999) thể hiện quyết tâm chính trị lớn về tiếp tục tiến hành
CCHC, đặt CCHC trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc
kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta khẳng định, trong
14
điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ
thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc CCHC thời gian qua. Không thể
tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và
phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể CCHC một cách biệt lập mà
không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập
pháp, cơ quan tư pháp.
Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đã đề ra chủ
trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức, bộ máy Đảng và các tổ chức trong hệ
thống chính trị gắn liền với CCHC theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Đồng thời với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ
chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giản biên chế, cải cách chính
sách tiền lương.
Tóm lại, lúc đầu, CCHC chỉ là những biện pháp tình thế xử lý những
bất hợp lý của bộ máy hành chính, sau đó trở thành chủ trương, giải pháp để
thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước nhằm tạo động lực cho đổi mới kinh tế.
Quá trình hình thành các quan điểm, nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc
CCHC, cũng như các bước đi, nhịp độ tiến hành cải cách ở Việt Nam trước
tiên và chủ yếu xuất phát từ các yêu cầu đổi mới kinh tế. Nền hành chính
được định hướng mạnh mẽ trước hết vào việc phục vụ nhân dân và doanh
nghiệp để phát triển kinh tế. Điều này xuất phát từ thực tế cho thấy yếu tố kìm
hãm lớn nhất đối với quá trình đổi mới kinh tế chính là từ những khuyết tật
của nền hành chính còn mang nặng dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp. Từ nền tảng đường lối của Đại hội VIII đề ra, công cuộc
CCHC đã tiếp tục được triển khai trong giai đoạn tiếp theo, đồng thời đây là
những định hướng lớn về CCHC để các địa phương vận dụng.
15
1.2. Đảng bộ Thành phố Hải Phòng vận dụng chủ trương của Đảng
về cải cách hành chính
1.2.1. Đặc điểm địa lý - hành chính, kinh tế - xã hội Thành phố
Hải Phòng
- Đặc điểm địa lý - hành chính
Hải Phòng là một đơn vị hành chính, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh,
phía Nam giáp Thái Bình, phía Tây giáp Hải Dương và phía Đông giáp biển.
Thành phố Hải Phòng nằm trên bờ biển vịnh Bắc Bộ, “trong hệ tọa độ
địa lý từ 20o30’39” - 21o01’15” vĩ độ Bắc và 106o23’39” - 107o08’39” kinh độ
Đông” [51, tr.18]. Với các điểm cực Bắc qua thôn Phi Liệt, xã Lại Xuân,
huyện Thủy Nguyên; điểm cực Nam qua thôn Oai Nỗ, xã Hiệp Hòa, huyện
Vĩnh Bảo; điểm cực Đông là ranh giới trên biển giữa Hải Phòng - Quảng
Ninh đi qua vịnh Lan Hạ và phía đông Cát Bà.
Hải Phòng có diện tích 1.519,2km2, bao gồm cả đất liền và hải đảo
(huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ). Địa hình khá đa dạng: có đất liền
(chiếm phần lớn diện tích), vùng hải đảo, vùng đồng bằng ven biển (độ cao từ
0,7 - 1,7m so với mực nước biển) và địa hình đồi sát núi.
Hải Phòng có bờ biển dài 125 km. Tài nguyên biển và tài nguyên du
lịch của Hải Phòng được xem như một thế mạnh mà thiên nhiên ban tặng, với
nhiều thắng cảnh đẹp như Đồ Sơn, Bạch Long Vĩ, khu vực núi Đèo (Thủy
Nguyên), Đa Độ, Núi Voi, Phù Liễu (Tiên Lãng). Vùng biển có đảo Cát Bà
được ví như hòn ngọc, một đảo đẹp và lớn nhất trong quần thể 360 đảo lớn
nhỏ quây quần bên nó, nối tiếp với vùng đảo Vịnh Hạ Long.
Hải Phòng có một mạng lưới sông ngòi, gồm 16 con sông với tổng
chiều dài 341 km trong đó có 5 sông chính là Bạch Đằng, Cấm, Lạch Tray,
Văn Úc, Thái Bình. Những con sông trên tạo thành mạng lưới đường thủy rất
thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ Hải Phòng tới các miền khác nhau
của đất nước.
16
Năm 2003, Hải Phòng được Chính phủ công nhận là đô thị loại I trung
tâm cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam sau Thành phố Hồ
Chí Minh và Thủ đô Hà Nội. Đến năm 2007, Hải Phòng gồm 15 quận huyện,
được chia thành 143 xã, 70 phường, 10 thị trấn.
Bảng 1.2.1. Tổ chức hành chính của Thành phố Hải Phòng từ năm 2007
TT
Tên đơn vị hành chính
1 Quận Hồng Bàng
2 Quận Lê Chân
3 Quận Ngô Quyền
4 Quận Kiến An
5 Quận Đồ Sơn
6 Quận Hải An
7 Quận Dương Kinh
8 Huyện An Dương
Thị trấn An Dương
9 Huyện An Lão
Thị trấn An Lão
Thị trấn Trường Sơn
10 Huyện Kiến Thụy
Thị trấn Núi Đối
11 Huyện Thủy Nguyên
Thị Trấn Núi Đèo
Thị Trấn Minh Đức
12 Huyện Tiên Lãng
Thị trấn Tiên Lãng
13 Huyện Vĩnh Bảo
Thị trấn Vĩnh Bảo
14 Huyện Cát Hải
Thị trấn Cát Bà
Thị trấn Cát Hải
15 Huyện Bạch Long Vĩ
Số phường, thị trấn
11
15
13
10
7
8
6
1
Số xã
2
15
1
17
2
35
1
22
1
29
2
10
15
(Nguồn: [49, tr.28])
17
- Đặc điểm kinh tế - xã hội
Tính đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên đã tạo cho Hải Phòng
trở thành một trong những thành phố có nền kinh tế phát triển năng động.
Cảng Hải Phòng giữ vai trò quan trọng đối với xuất nhập khẩu, góp
phần đưa hàng hóa của phía Bắc đi các vùng trong cả nước, cũng như tham
gia vào việc vận tải hàng hóa đến các nước trên thế giới. Một học giả nước
ngoài nhận xét: “Thủ đô hành chính đặt tại Hà Nội… thủ đô kinh tế ở Sài Gòn
- Chợ Lớn và Hải Phòng, bến cảng thứ hai ở Đông Dương. Hầu như hàng hóa
xuất nhập đều phải chuyển qua những nơi đây” [29, tr.124].
Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có truyền thống về công nghiệp xi
măng, cơ khí, đóng tàu biển, sản xuất thủy tinh, chế biến hải sản. Các nguồn
năng lượng từ thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, bể than Quảng Ninh
đáp ứng đủ nhu cầu về điện và than cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thành phố.
Khoáng sản của Hải Phòng chủ yếu là đá vôi tập trung ở Tràng Kênh,
trữ lượng (A + B + C1 + C2) đạt trên 185 triệu tấn, Puzolan ở Pháp Cổ có trữ
lượng trên 70 triệu tấn nên rất có điều kiện phát triển công nghiệp sản xuất xi
măng với công suất 4 - 5 triệu tấn/năm, có đất phèn và các sản phẩm hóa chất
từ gốc cácbonat.
Hải Phòng có diện tích đất nông nghiệp 67,8 nghìn ha, trong đó đất
trồng cây hàng năm là 55,7 nghìn ha. Đất đai Hải Phòng thích hợp cho việc
gieo nhiều loại cây có giá trị kinh tế cao, như vùng trồng lúa nước, vùng
chuyên rau, hoa, cây cảnh, cây công nghiệp, cây ăn trái… Cấu trúc địa hình
và vùng biển cũng đã tạo ra những lợi thế đặc biệt cho sự phát triển toàn diện
ngành hải sản và du lịch Hải Phòng
Khoa học, công nghệ, môi trường gắn kết phục vụ sản xuất và đời sống.
Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đạt bình quân 17 máy điện
18
thoại/100 dân vào năm 2005. Số người khai thác, sử dụng dịch vụ Internet
ngày càng tăng, đến năm 2005 đã có hơn 4.000 thuê bao, trang web của thành
phố đã đưa vào sử dụng.
Giáo dục và đào tạo Hải Phòng: Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi,
đạt chuẩn quốc gia về phổ cập phổ cập trung học cơ sở, đang tiến hành phổ
cập trung học phổ thông. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề
được đầu tư, nâng cấp bước đầu đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Về
chất lượng nguồn lực, theo kết quả điều tra năm 2005, tổng số lao động đang
làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn thành phố là 850.756
người, trong đó có 216 tiến sĩ, 817 thạc sĩ, 33.174 đại học và 12.320 cao đẳng,
38.529 trung cấp, 75.012 công nhân kỹ thuật. Tính bình quân, đạt 2,6 người
có trình độ đại học, cao đẳng/1.000 dân; 22 người có trình độ trung học
nghề/1.000 dân; 19 công nhân kỹ thuật/1.000 dân [84, tr.6].
Các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, gia đình, thể dục thể
thao tiếp tục phá triển, chất lượng được nâng lên. Giải quyết các vấn đề xã hội
bức xúc có chuyển biến tích cực, thực hiện tốt chính sách với người có công,
người bị ảnh hưởng chất độc da cam. Việc phòng chống các tệ nạn xã hội
được triển khai sâu rộng, bằng những giải pháp kiên quyết, đồng bộ.
Về dân số và thành phần dân cư, đến năm 2006, dân số sống ở nông
thôn là 1.107.700 người, ở thành thị là 646.400 người. Từ số liệu thống kê
cho thấy số đơn vị cơ sở địa bàn nông thôn là (161/218) chiếm 73,8% tổng số
địa bàn cơ sở, dân số (1.107.700/1.754.100 người) chiếm 63,1% dân số sinh
sống trên địa bàn, một tỉ lệ lớn trong tổng số đơn vị cơ sở và dân số Hải
Phòng.
Là cửa ngõ của đất nước, Hải Phòng có nhiều lợi thế so với các tỉnh
khác của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là nơi hội tụ nhiều yếu tố quan trọng của
quá trình tăng tốc; là điều kiện thuận lợi để xây dựng các khu công nghiệp,
19
thương mại và du lịch gắn liền với cảng biển tầm cỡ quốc gia; vị trí địa lý có
sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Thành phố
Hải Phòng về cải cách hành chính
- Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1996), bên cạnh
những thành tựu đạt được, Hải Phòng không tránh khỏi những khó khăn, trì
trệ. Bộ máy hành chính nhà nước ở Hải Phòng cồng kềnh và kém hiệu quả.
Năm 1995, Thành phố Hải Phòng có 37 sở, ngành cấp quận, huyện thường có
từ 22 - 23 phòng ban, bộ máy hành chính nặng nề, nhiều tầng, nấc. Chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng tiêu chuẩn của cán bộ chưa được
xác định rõ ràng. Một số ngành ở Hải Phòng có xu hướng tách ra thành nhiều
cơ quan, đơn vị chuyên môn hoá theo lối khép kín. Nhiều tổ chức có chức
năng, nhiệm vụ trùng lắp, chồng chéo; nhiều trường hợp bố trí cán bộ nhân
viên không tương xứng với nhiệm vụ. Chế độ trách nhiệm không rõ ràng,
phong cách làm việc nặng về hình thức giấy tờ, hội họp nhiều mà quyết định
thì chậm, thiếu cơ sở khoa học, việc tổ chức thực hiện trì trệ.
Thực trạng trên của Hải Phòng đặt ra yêu cầu khách quan là phải cải
cách nền hành chính nhà nước, trong đó tập trung vào hai điểm sau:
Một là, phải tăng cường hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước ở
Hải Phòng, coi đây là công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu đảm bảo huy
động lực lượng quần chúng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu
cầu và nguyện vọng của nhân dân. Muốn tăng cường hiệu lực quản lý của các
cơ quan nhà nước trước hết phải đổi mới phương thức điều hành, có nghĩa là
đổi mới chức năng quản lý, chức năng tổ chức, chức năng điều phối, liên kết,
hợp đồng, giám sát đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng hành
chính thay đổi đòi hỏi phải cải cách bộ máy hoạt động của các cơ quan hành
20