Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Tìm hiểu các quy định của Luật đầu tư năm 2005 về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.71 KB, 54 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) là vấn đề mang tính chất toàn cầu
và xu thế tất yếu của mỗi quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị
trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên
liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, tăng cường khoa học kỹ thuật,
nâng cao năng lực quản lý. Điều này đa cho thấy được tầm quan trọng của hoạt
động ĐTTTRNN ngoài đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đi lên từ
một nền kinh tế kém phát triển, hoạt động ĐTTTRNN chậm hơn so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Mặc dù vậy hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam đa có
những bước phát triển vượt bậc. Có được thành quả đó bên cạnh sự nỗ lực của các
nhà đầu tư Việt Nam thì không thể không kể đến hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt
động ĐTTTRNN. Từ khi văn bản pháp luật đầu tiên được ban hành là Nghị định số
22/1999/NĐ – CP đến nay hệ thống văn bản pháp luật ĐTTTRNN của Việt Nam
ngày càng hoàn thiện là cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam tiếp
tục phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn
một số hạn chế và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam
trước mắt cũng như trong tương lai. Chính vì vậy việc Tìm hiểu các quy định của
Luật đầu tư năm 2005 về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là yêu cầu bức thiết để
tìm ra những hạn chế và hoàn thiện các quy định của pháp luật qua đó thúc đẩy hơn
nữa hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận làm sáng tỏ các quy định của Luật đầu tư
năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành về ĐTTTRNN qua đó thấy được các
ưu điểm và những hạn chế của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động này để từ


2


đó đưa một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ĐTTTRNN
của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy
định của pháp luật đầu tư Việt Nam về ĐTTTRNN và tình hình đầu tư ra nước
ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam trong giai đoạn từ 1989 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung chủ yếu vào các quy định của pháp
Luật đầu tư Việt Nam về ĐTTTRNN còn các vấn đề ĐTTTRNN của Việt Nam chịu
sự điều chỉnh của pháp luật đầu tư quốc gia tiếp nhận đầu tư cũng như các quy định
của luật quốc tế sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của khóa luận này.
3. Những đóng góp mới của khóa luận
Về mặt lí luận khóa luận đa làm rõ hơn các vấn đề sau: Khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa của hoạt động ĐTTTRNN; khái niệm, nội dung cơ bản của pháp luật
ĐTTTRNN.
Về mặt thực tiễn: Khóa luận nêu được những điểm đa đạt được và những điểm
hạn chế cơ bản của hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam, những tồn của pháp luật
đầu tư hiện hành điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN. Từ đó đưa ra một số kiến nghị
mới nhằm hiệu quả thực thi pháp luật về ĐTTTRNN của Việt Nam.
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và pháp luật về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.
Chương 2: Những quy định cơ bản của pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam


3

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Định nghĩa ĐTTTRNN nói chung được hiểu là :
“Đầu tư ra nước ngoài hay còn gọi là đầu tư quốc tế là quá trình dịch chuyển
vốn, tài sản từ quốc gia này sang quốc gia khác để các nhà đầu tư tiến hành các hoạt
động đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện các mục tiêu kinh tế xa hội”
[6, tr 259].
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu, theo đó nhà đầu tư
nước ngoài bỏ vốn, tài sản vào nước tiếp nhận đầu tư và thiết lập các dự án đầu tư
tại đó, đồng thời họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn” [6,
tr259].
Từ định nghĩa ĐTTTRNN nói chung pháp luật Việt Nam đa đưa ra định nghĩa
đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam định nghĩa ĐTTTRNN được quy định
lần đầu tiên tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 22/1999/NĐ – CP ngày 14 tháng 4
năm 1999 về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam:
“ Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp Việt
Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài
theo quy định của Nghị định này”.
Định nghĩa này có phạm vi khá hẹp chủ thể đầu tư ra nước ngoài chỉ bao gồm
các nhà đầu tư là các doanh nghiệp Việt Nam, hình thức đầu tư trực tiếp chỉ gồm
các hình thức đầu tư trực tiếp theo quy định tại Nghị định này.
Tiếp đến định nghĩa ĐTTTRNN được ghi nhận tại khoản 14 Điều 3 Luật đầu
tư năm 2005 có sự hoàn thiện hơn theo hướng mở rộng về chủ thể nhưng Luật đầu


4


tư năm 2005 cũng chỉ đưa ra định nghĩa đầu tư ra nước ngoài nói chung mà không
trực tiếp đưa ra định nghĩa ĐTTTRNN:
“ Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng tiền và các loại tài sản
hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư”.
Đến khi Nghị định số 78/2006/ NĐ – CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định
về ĐTTTRNN được ban hành thì định nghĩa ĐTTTNN được quy định tại khoản 1
Điều 3 Nghị định 78/2006/NĐ – CP đa thể hiện một cách khá hoàn thiện, đầy đủ:
“ĐTTTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt
động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài”.
1.1.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ĐTTTRNN là một hoạt động đầu tư nên mang những đặc điểm của hoạt động
đầu tư nói chung đó là hoạt động thương mại đặc thù so với các hoạt động thương
mại khác ở chỗ là hoạt động có tính tạo lập (bỏ vốn, tài sản) nhằm hình thành cơ sở
vật chất kĩ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi
nhuận [6, tr 8]. Tuy nhiên ĐTTTRNN là một hoạt động đầu tư đặc thù nên có
những đặc điểm riêng thể hiện ở những điểm sau:
- Tính chất của ĐTTTRNN: Là có sự chuyển dịch vốn đầu tư từ trong nước ra
nước ngoài và vốn đầu tư đó được sử dụng để tiến hành các hoạt động đầu tư trực
tiếp ở nước ngoài.
- Chủ thể tiến hành ĐTTTRNN: Chủ yếu nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức kinh
tế bằng nguồn vốn của mình thực hiện hoạt động đầu tư, có toàn quyền quyết định
đầu tư và tự gánh chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư.
- Hình thức ĐTTTRNN: Là các hình thức đầu tư trực tiếp trong đó nhà đầu tư
bỏ vốn, tài sản vào nước nhận đầu tư thiết lập các dự án đầu tư và trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư nhà đầu tư có thể tự mình điều hành toàn bộ dự án đầu tư
hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư. Đặc điểm này giúp phân biệt với hình thức


5


đầu tư gián tiếp ra nước ngoài ở hình thức đầu tư này nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư mà họ đa bỏ vốn, tài sản đầu tư.
- Mục đích ĐTTTRNN: Là nhằm mở rộng, chiếm lĩnh thị trường của nước
nhận đầu tư qua đó giúp nhà đầu tư thu được lợi nhuận cao hơn ở trong nước. Như
vậy mục tiêu cao nhất mà nhà đầu tư hướng tới khi ĐTTTRNN chính là lợi nhuận.
Điều này giúp phân biệt với hình thức đầu tư ra nước ngoài của chính phủ, các tổ
chức quốc tế dưới dạng phát triển hỗ trợ chính thức ( ODA) và tín dụng thương mại
chủ yếu mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ nước tiếp nhận đầu tư mà không nhấn mạnh
đến yếu tố lợi nhuận.
- Về Pháp luật điều chỉnh: ĐTTTRNN chịu sự điều chỉnh chủ yếu của hai hệ
thống pháp luật là pháp luật nước đầu tư và pháp luật của nước nhận đầu tư ngoài ra
các phải tuân thủ các cam kết quốc tế có liên quan.
- Mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nước nhận đầu tư: Đối với ĐTTTRNN thì
quan hệ giữa nhà đầu tư và nước nhận đầu tư là quan hệ đối tác bình đẳng, hai bên
cùng có lợi nhà đầu tư thì có được lợi nhuận… còn nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội
tiếp thu được công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý… của nhà đầu tư.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ĐTTTRNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đặc biệt là đối với nhà đầu tư, đối
với quốc gia có nhà đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư.
a. Đối với nhà đầu tư
- ĐTTTRNN giúp nhà đầu tư sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực trong
nước, tận dụng lợi thế của mình trên trường quốc tế để thu được lợi nhuận cao nhất.
- ĐTTTRNN giúp nhà đầu tư khắc phục những khó khăn khi thực hiện đầu tư
trong nước như thiếu hụt tài nguyên, thiên nhiên, nguyên vật liệu, nhân công, máy
móc, công nghệ ….đồng thời khai thác được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư
như chi phí sản xuất, giá nhân công, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, giảm


6


được chi phí vận chuyển…để sản xuất ra những sản phẩm có giá thành hạ hơn so
với sản phẩm sản xuất trong nước.
- ĐTTTRNN giúp các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khi
chưa có ĐTTTRNN thì sản phẩm được tiêu thụ ở nước ngoài thông qua hoạt động
xuất khẩu. Nhưng xuất khẩu hàng hóa thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn do
hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan của nước nhập khẩu. Vì vậy, giá của
sản phẩm sẽ bị đẩy lên cao làm mất khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường
tiêu thụ sản phẩm trong khi đó ĐTTTRNN thì sản phẩm sẽ không vướng bất cứ rào
cản nào nên có tính cạnh tranh cao hơn nhà đầu tư dễ dàng mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm ở nước ngoài.
- ĐTTTRNN giúp kéo dài chu kì sống của sản phẩm mới được tạo ra trong
nước. Trên cơ sở lý thuyết về chu kì sống của sản phẩm khi sản phẩm đến giai đoạn
bao hòa thì ĐTTTRNN sẽ giúp cho sản phẩm có được thị trường mới với sức sống
mới và đem về lợi nhuận cho nhà đầu tư
- ĐTTTRNN giúp nhà đầu tư hoàn thiện mình cả về mặt cơ cấu sản phẩm,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Ở môi trường đầu tư mới, nhà đầu tư muốn đứng
vững phải tìm cách thích ứng với thị trường, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường
thì mới có thể tồn tại đặc biệt trong trường hợp nhà đầu tư của quốc gia đang phát
triển đầu tư vào các quốc gia phát triển.
b. Đối với quốc gia có nhà đầu tư
- Quốc gia có nhà đầu tư sẽ nhận thêm một lượng ngoại tệ từ việc nhà đầu tư
đóng thuế hoặc gửi về nước tái đầu tư qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thông qua ĐTTTNN quốc gia có nhà đầu tư sẽ giải quyết được một số khó
khăn như sự dư thừa lao động, sự thiếu hụt nguồn tài nguyên thiên nhiên…
- Thông qua ĐTTTRNN sản phẩm của các nhà đầu tư nói riêng, sản phẩm
mang thương hiệu đặc trưng của quốc gia nói chung sẽ xuất hiện tại quốc gia nhận
đầu tư. Qua đó giới thiệu và nâng cao tên tuổi của quốc gia trên trường quốc tế.


7


- Thông qua hoạt động ĐTTTRNN quốc gia có nhà đầu tư sẽ có điều kiện
thuận lợi hơn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
c. Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư
- Được bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế: Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với các quốc gia đang phát triển ở các nước này có nhiều tiềm năng về tài nguyên,
lao động nhưng cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu vốn để phát triển đầu tư
chính vì vậy khi các nước này tiếp nhận nguồn vốn ĐTTTRNN của nhà đầu tư quốc
gia khác thì có thể tận dụng nguồn vốn này để đầu tư phát triển.
- Được tiếp cận công nghệ mới, nâng cao chất lượng nguồn lao động: Khi tiến
hành ĐTTTRNN nhà đầu tư không chỉ chuyển vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn
hiện vật như máy móc, thiết bị… vốn vô hình như tri thức khoa học, kinh nghiệm
quản lý…do đó thông qua quá trình tiếp nhận và thực hiện dự án đầu tư nước nhận
đầu tư có thể sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh đồng thời hoạt động ĐTTTRNN cũng sử
dụng một lượng lao động không nhỏ của nước nhận đầu tư qua đó giúp cho nước
nhận đầu tư đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kĩ thuật cao.
- Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế phát triển: ĐTTTRNN đóng
góp một phần không nhỏ vào ngân sách nước tiếp nhận đầu tư thông qua việc nộp
thuế, phí tiền thuê đất…. Mặt khác nước tiếp nhận đầu tư hoàn toàn có thể tranh thủ
các nhân tố bên ngoài (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư ) đồng
thời với việc phát huy các nhân tố bên trong (nguồn lao động, tài nguyên) thì sẽ tạo
ra được tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2. Khái quát về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
a. Khái niệm về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài


8


ĐTTTRNN về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật chính là
pháp luật của quốc gia có nhà đầu tư và pháp luật của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Pháp luật của quốc gia có nhà đầu tư điều chỉnh chủ yếu vấn đề điều kiện, thủ tục ;
pháp luật của quốc gia tiếp nhận đầu tư giữa vai trò chi phối, quyết định toàn bộ
hoạt động đầu tư. Ngoài ra ĐTTTRNN còn chịu sự điều chỉnh của các cam kết quốc
tế về đầu tư như các hiệp định bảo hộ đầu tư song phương và đa phương, hiệp định
tránh đánh thuế hai lần kí kết giữa các quốc gia với nhau.
Đối với Việt Nam pháp luật ĐTTTRNN cũng không nằm ngoài quy luật trên
ĐTTTRNN của Việt Nam trước hết chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như
Hiến pháp, Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đầu tư, các đạo luật
khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xa, Luật thương mại…. sau
đó pháp luật của quốc tiếp nhận đầu tư sẽ điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước của các nhà đầu tư Việt Nam. Ngoài ra các nhà đầu tư Viêt Nam phải tuân thủ
các cam kết mà Việt Nam đa kí kết hoặc tham gia như công ước về “ Tổ chức đảm
bảo đầu tư Đa biên”, các Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN, Các hiệp định về
đầu tư kí kết giữa Việt Nam với các nước như Hiệp định Việt Nam - Chilê ngày 16
tháng 9 năm 1999 về khuyến khích và bảo hộ đầu tư lẫn nhau, Hiệp định Việt Nam
- Liên Bang Nga ngày 3 tháng 4 năm 1993 về khuyến khích và bảo hộ đầu tư lẫn
nhau, Hiệp định Việt Nam – Lào ngày 14 tháng 1 năm 1996…
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm pháp luật đầu ĐTTTRNN như
sau: “ Pháp luật ĐTTTRNN là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức, thực hiện và quản lý hoạt động ĐTTTRNN”.
b. Nội dung cơ bản về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Pháp luật về ĐTTTRNN bao gồm những nội dung cơ bản sau:


9


- Chủ thể ĐTTTRNN: Là các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động đầu tư thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật ĐTTTRNN. Việc quy định đúng và đầy đủ về chủ
thể sẽ giúp khai thác tối đa khả năng đầu tư của đất nước.
- Điều kiện ĐTTTRNN: Để được phép tiến hành ĐTTTRNN nhà đầu tư phải
đáp ứng một số điều kiện nhất định nhằm đảm bảo tính khả thi cho hoạt động đầu
tư, đảm bảo lợi ích quốc gia cũng như đảm bảo cho nhà nước thực hiện tốt chức
năng quản lý của mình. Hiện nay xu hướng của hầu hết các quốc gia trên thế giới là
ngày càng nới lỏng điều kiện đầu tư để nâng cao sức hút đối với hoạt động đầu tư
này.
- Thủ tục ĐTTTRNN: Quy định về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng đối
với sự vận động phát triển của ĐTTTRNN. Nếu thủ tục đơn giản sẽ khuyến khích
nhà đầu tư thực hiện việc đầu tư còn nếu thủ tục rườm rà, phức tạp sẽ tạo ra tâm lý
khiến nhà đầu tư nản lòng, thậm chí từ bỏ ý định đầu tư.
- Hình thức ĐTTTRNN: Khá đa dạng pháp luật của nước nhận đầu tư sẽ quy
định cụ thể các hình thức đầu tư và nội dung của các hình thức đó. Nhìn chung pháp
luật các nước đều quy định các hình thức đầu tư trực tiếp cơ bản như liên doanh,
hợp doanh, hình thức độc doanh, hình thức mua bán, sáp nhập… các nhà đầu tư có
thể lựa chọn một trong các hình thức trên.
- Lĩnh vực ĐTTTRNN: Phụ thuộc vào quy định của nước tiếp nhận đầu tư.
Tuy nhiên nhà đầu tư còn phải tuân thủ pháp luật của quốc gia mình đó là các quy
định về lĩnh vực khuyến khích, hạn chế hay cấm đầu tư.
- Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư : Khi ĐTTTRNN nhà đầu tư có quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Theo xu hướng hiện nay là khuyến khích
ĐTTTRNN nên các quy định về quyền có chiều hướng tăng lên, các quy định về
nghĩa vụ có xu hướng giảm đi.
1.2.2. Một vài nét về pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số
nước Châu Á


10


Trước đây ĐTTTRNN tập trung chủ yếu ở các nước tư bản phát triển như
Châu Âu, Mỹ , Nhật Bản… do có lợi thế về nguồn vốn, công nghệ, năng lực cạnh
tranh… Trong những năm gần đây ĐTTTRNN của các nước đang phát triển cũng
đang tăng lên một cách nhanh chóng. Như vậy cùng với quá trình hội nhập và toàn
cầu hóa nền kinh tế các nước đang phát triển đa biết tận dụng những cơ hội cùng
với việc thay đổi chính sách, pháp luật để để mở rộng quy mô ĐTTTRNN. So với
các nước trong khu vực và trên thế giới Việt Nam tham gia vào quá trình
ĐTTTRNN khá muộn vì vậy việc nghiên cứu một vài nét về pháp luật về
ĐTTTRNN của một số nước Châu Á sẽ giúp Việt Nam học hỏi một số kinh nghiệm
để hoàn thiện pháp luật về ĐTTTRNN.
Hàn Quốc
Từ năm 1968 Hàn Quốc đa có điều lệ ĐTTTRNN có thể nói Hàn Quốc là nước
chú trọng đầu tư ra nước ngoài từ rất sớm. Tuy nhiên cho đến trước năm 1975 số
vốn đầu tư của nước này ra nước ngoài còn thấp chỉ đạt xấp xỉ 6 triệu USD/ năm.
Nhận thức được hạn chế đó Hàn Quốc đa tiến hành sửa đổi các thể chế, chính sách,
pháp luật liên quan đến ĐTTTRNN như thành lập một cơ quan chuyên môn về
ĐTTTRNN; thực hiện chính sách mở rộng ĐTTTRNN đối với các nước chưa có
quan hệ ngoại giao; bai bỏ các điều luật, điều lệ gây hạn chế ĐTTTRNN; đề ra các
biện pháp khuyến khích ĐTTTRNN cùng với chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa
phương hóa đa tạo động lực to lớn thúc đẩy nguồn vốn ĐTTTRNN. Số vốn đầu tư
ra nước ngoài của Hàn Quốc đa tăng lên 1,2 tỷ USD vào năm 1988 và xấp xỉ 2,9 tỷ
USD vào năm 1995 và tiếp tục tăng cao trong những năm gần đây năm 2007 đạt
6,88 tỷ USD, 8 tháng đầu năm 2008 đạt 9,68 tỷ USD…Như vậy với việc nhận thức
vai trò quan trọng của ĐTTTRNN, cùng với chính sách, pháp luật thông thoáng là
động lực to lớn cho ĐTTTRNN của Hàn Quốc [4, tr 22 ].
Trung Quốc


11


Tính đến năm 2004 Trung Quốc đa ký hiệp định song phương về bảo hộ đầu tư
với 112 quốc gia và khu vực.
Trong những năm qua Trung Quốc xây dựng và ban hành nhiều chính sách
khuyến khích ĐTTTRNN như:
Nghị quyết của Đại hội Đảng đa nêu rõ đầu tư ra nước ngoài là một trong hai
vấn đề quan trọng: “ Thu hút vào” và “ đi ra ngoài” một cách hợp lý; Quyết định
của Quốc Vụ Viện về cải cách thể chế đầu tư đa quy định về thẩm quyền thẩm tra,
phê chuẩn đối với các hạng mục đầu tư ra nước ngoài; Thông tư của Ngân hàng
xuất nhập khẩu Trung Quốc, Ủy ban cải cách và phát triển nhà nước về chính sách
khuyến khích các khoản vay ưu đai đối với công trình đầu tư ra nước ngoài có trọng
điểm; văn bản của cục quản lý ngoại hối quy định các biện pháp quản lý ngoại hối
trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thi hành; các văn
bản của Bộ thương mại Trung Quốc : “ Biện pháp đánh giá tổng hợp thành tích
ĐTTTRNN năm 2002”, “ Thông tư về vấn đề hoàn lại tiền bảo đảm cho hoạt động
chuyển lợi nhuận về nước trong hoạt động ĐTTTRNN năm 2003” , “ Thông tư về
việc thành lập trung tâm thông tin cho các doanh nghiệp ĐTTTRNN năm 2003”, “
Chế độ báo cáo trở ngại kinh doanh đối với hoạt động đầu tư các nước năm 2004”, “
Chế độ báo cáo tình hình trước khi đầu tư ra nước ngoài bằng hình thức mua lại
doanh nghiệp năm 2005”, “Quy định đối với việc thẩm tra, phê chuẩn, thành lập
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài năm 2006”…
Có thể nói pháp luật ĐTTTRNN của Trung Quốc hết sức dồi dào, tương đối
đầy đủ không chỉ đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước mà còn tạo điều kiện cho
ĐTTTRNN không ngừng phát triển tính đến năm 2005 tổng số vốn ĐTTTRNN đạt
tới con số xấp xỉ 44 tỷ 777 triệu USD, vùng lanh thổ đầu tư mở rộng ra hơn 100
quốc gia và khu vực [4, tr 23].
Trong thời gian gần đây cùng với thực hiện “Kế hoạch 5 năm lần thứ 11”,
Trung Quốc đa thi hành chiến lược “Bước ra ngoài” với chiều sâu cùng với việc



12

hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đầu tư ra nước ngoài đa có bước phát
triển vượt bậc lĩnh vực không ngừng được mở rộng, phương thức dần dần đa dạng,
trình độ không ngừng được nâng cao. Từ năm 2006 – 2009, ĐTTTRNN của Trung
Quốc từ 21,16 tỷ USD tăng lên 56,53 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt
38,8%, tổng vốn ĐTTTRNN trong 4 năm đạt 160,11 tỷ USD, tính đến cuối năm
2009 tổng vốn đầu tư đạt 245,75 tỷ USD, xếp vị trí thứ 15 trên toàn cầu và vị trí thứ
3 các nước, các khu vực đang phát triển, địa bàn đầu tư phát triển rộng khắp trên
177 quốc gia và khu vực. Đầu tư ra nước ngoài từ chỗ chỉ xây dựng hạng mục đơn
nhất dần chuyển sang phát triển với hình thức khu vực hóa, tập trung hóa, một loạt
khu hợp tác kinh tế thương mại tại ngoài nước dần được hình thành…[25]
Singapo
Pháp luật ĐTTTRNN của Sigapo cũng được coi là điểm sáng trong việc thúc
đẩy ĐTTTRNN ở nước này phát triển như chính sách miễn thuế đối với tất cả các
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có lợi nhuận, hỗ trợ về mặt tài chính đối với các
dự án đầu tư ra nước ngoài thông qua quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài... Nhờ đó
ĐTTTRNN của Singapo không ngừng mở rộng trong khu vực và trên thế giới [4, tr
23].


13

Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Việt Nam
Trong một thời gian dài cơ sở pháp lý của hoạt động ĐTTTRNN chưa được
quy định trong luật. Tuy nhiên trước thực trạng doanh nghiệp Việt Nam muốn mở

rộng thị phần sang thị trường nước ngoài nên họ gửi đơn xin phép đầu tư ra nước
ngoài, buộc chính phủ phải ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn. Tuy
nhiên phải sau mười năm kể từ khi dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam được
cấp phép, Chính phủ mới ban hành được một nghị định chính thức điều chỉnh vấn
đề này, đó là Nghị định số 22/ 1999/ NĐ – CP ngày 14/4/1999 quy định về đầu tư
nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Nghị định số 22/1999/NĐ - CP cùng với
đó là một số văn bản hướng dẫn thi hành của các bộ, ngành liên quan như: Thông tư
số 05/2001/ TT – BKH ngày 30/8/2001 hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam; Quyết định 116/2001/ QD –TTg ngày 2/8/2001 về một
số ưu đai, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí; Thông tư số
01/2001/ TT – NHNN ngày 19/1/2001 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt
động ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. Đây là khuôn khổ pháp lý của doanh
nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài cho đến trước thời điểm Luật đầu tư có
hiệu lực.
Tuy nhiên sau hơn 6 năm thực hiện các nội dung pháp lý được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật kể trên bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, có những điểm không
phù hợp với tình hình mở cửa hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế của đất nước
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ĐTTTRNN của các nhà đầu tư như:


14

- Nhiều quy định trong Nghị định số 22/1999/ NĐ – CP còn thiếu cụ thể,
không đồng bộ và nhất quán; nhiều điều khoản không phù hợp; không bao quát
được hết sư đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước ngoài;
- Thủ tục đầu tư còn phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư
chưa rõ ràng; không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp;
- Thiếu các quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư ra nước ngoài;
- Các quy định về chế độ báo cáo thông tin không phù hợp khiến cho thông tin

về tình hình đầu tư ra nước ngoài hầu như không được cập nhật
- Các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn
chế, chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, thẩm
định, cấp phép và triển khai dự án đầu tư ví dụ trong một dự án thuộc diện đăng kí
cấp phép đầu tư nhưng trong quá trình xử lý vẫn chậm do gửi giấy lấy ý kiến của
các bộ, ngành có liên quan làm kéo dài thời gian cấp phép;
- Các văn bản liên quan đến đầu tư ra nước ngoài chưa có một cơ chế phối hợp
nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động
đầu tư ra nước ngoài như Bộ kế hoạch, Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính và các bộ
ngành có liên quan với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong việc quản lý các dự
án đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là khâu triển khai dự án đầu tư…
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tại
Việt Nam ĐTTTRNN góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo lập môi
trường pháp lý ổn định thì việc hoàn thiện chính sách đầu tư ra nước ngoài là một
đòi hỏi tất yếu nhằm khắc phục sự thiếu thống nhất, tạo lập tính cụ thể, rõ ràng
trong các văn bản pháp luật; đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước; khuyến khích và tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiến hành
ĐTTTRNN đặc biệt trong những lĩnh vực ngành nghề mà Việt Nam có kinh nghiệm


15

và thế mạnh đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam kí kết và gia
nhập [6, tr 267 - 270]
Do vậy việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định số 22/1999/NĐ – CP
và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng cách pháp điển hóa vào Luật đầu tư năm
2005 là một yêu cầu bức thiết. Trên cơ sở đó năm 2005 Quốc hội đa thông qua Luật
đầu tư năm 2005 và có hiệu lực thi hành vào ngày 1 tháng 07 năm 2006 trong đó
dành hẳn một chương (Chương VIII) quy định về đầu tư ra nước ngoài. Những quy
định tại Luật đầu tư năm 2005 là những vấn đề mang tính nguyên tắc làm cơ sở

pháp lý để Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành hoạt động ĐTTTRNN phù hợp với thực tiễn của đất nước trong từng
giai đoạn cụ thể. Ngày 09/08/2006 quy định về ĐTTTRNN Chính phủ đa ban hành
Nghị định số 78/2006/ NĐ – CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hệ
thống các văn bản dưới luật của các bộ ngành được ban hành điều chỉnh những vấn
đề có liên quan đến hoạt động ĐTTTRNN như Thông tư số 11/2010/ TT – BTC
hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài và được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 104/2011/TT – BTC; Thông Tư số
10/ 2006/ TT – NHNN ngày 21 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn việc tổ chức tín dụng
cho khách hàng vay để ĐTTTRNN; Thông tư số 25/2011/TT – NHNN về việc thực
hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động ngoại hối theo các Nghị quyết
của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý
của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong đó quy định rõ thủ tục xác nhận đăng kí
tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài; Quyết định số 1175/
2007/ QĐ – BKH ban hành kèm theo Quyết định này mẫu các văn bản thực hiện thủ
tục ĐTTTRNN...


16

Với việc kế thừa và phát huy có chọn lọc những mặt tích cực cũng như khắc
phục những hạn chế của hệ thống các văn bản pháp luật trước đó Luật đầu tư 2005;
Nghị định 78/2006/ NĐ – CP và các văn bản hướng dẫn thi hành đa có sự hoàn
thiện hơn về mặt khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung
và ĐTTTRNN nói riêng như phạm vi điều chỉnh đa có sự mở rộng mọi nhà đầu tư
theo quy định của pháp luật Việt Nam đều được ĐTTTRNN, điều kiện ĐTTTRNN
được nới lỏng, thủ tục ĐTTTRNN được đơn giản hóa theo cơ chế “một cửa”, các
quyền của nhà đầu tư được tăng cường, quy định rõ trách nhiệm, mối quan hệ giữa
cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư, các chế tài khi có hành vi vi phạm đối với
hai bên nhà đầu tư, cán bộ, công chức nhà nước… không chỉ giúp cho công tác

quản lý nhà nước được thuận tiện mà còn thúc đẩy ĐTTTRNN của Việt Nam.
Xu hướng hiện nay ĐTTTRNN không ngừng mở rộng việc tích cực khuyến
khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài là yêu cầu bức thiết trên cơ sở đó Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đa ra quyết định số 236/ QĐ – TTg phê duyệt đề án thúc đẩy đầu
tư của Việt Nam ra nước ngoài đề án tập trung vào việc thúc đẩy đầu tư của doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài nhất là trong các lĩnh vực có thế mạnh và cần thiết
như: khai thác dầu mỏ, làm thuỷ điện, trồng cây nguyên liệu công nghiệp, khai
khoáng… đây là một tín hiệu tích cực khi Việt Nam gia nhập WTO doanh nghiệp
trong nước có thể cạnh tranh bình đẳng với các đối tác trên thị trường thế giới.
2.2. Những quy định cơ bản của pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp ra
nước của Việt Nam
2.2.1. Chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trước khi có luật đầu tư năm 2005, ĐTTTRNN được điều chỉnh bởi Nghị định
số 22/1999/ NĐ – CP ngày 14/4/1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành chủ thể
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chỉ là doanh nghiệp tất nhiên không phải mọi doanh
nghiệp đều được phép đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị


17

định số 22/1999/NĐ – CP và Điều 1 Thông tư số 05/2001/TT – BKH chủ thể
ĐTTTRNN là doanh nghiệp Việt Nam bao gồm:
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước;
- Hợp tác xa được thành lập theo luật hợp tác xa;
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp.
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham
gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định riêng của chính phủ. Tuy nhiên thực
tế từ khi Nghị định 22/1999/NĐ – CP có hiệu lực thi hành đến trước thời điểm luật
đầu tư năm 2005 có hiệu lực vẫn chưa có văn bản nào điều chỉnh ĐTTTRNN của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp tác kinh doanh.

Quy định này không những đa hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn đầu
tư ra nước ngoài mà còn tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư , giữa các
loại hình doanh nghiệp đang cùng tồn tại. Chính vì vậy hiện nay, theo Luật đầu tư
năm 2005 và Nghị định số 78/2006/ NĐ – CP ngày 09/8/2006 quy định về
ĐTTTRNN chủ thể của quan hệ ĐTTTRNN được mở rộng thể cho tất cả các nhà
đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt nhà đầu tư là
doanh nghiệp hay nhà đầu tư không phải doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư
có nguồn gốc vốn đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước
ngoài đều có quyền đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra
nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư [6, tr 270 – 271]. Theo Điều 2 Nghị định
số 78/2006/ NĐ – CP các nhà đầu tư tại Việt Nam được phép tiến hành đầu tư trực
tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp tư nhân được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh theo luật doanh
nghiệp;
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước chưa đăng kí
lại theo luật doanh nghiệp;


18

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đăng kí lại theo Luật doanh
nghiệp và Luật đầu tư;
- Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xa hội chưa đăng
kí lại theo luật doanh nghiệp;
- Hợp tác xa, liên hiệp hợp tác xa được thành lập theo Luật hợp tác xa;
- Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch vụ
khác có hoạt động sinh lợi;
- Hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam.
2.2.2. Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Về nguyên tắc hình thức ĐTTTRNN tuân theo quy định của nước nhận đầu tư
do đó pháp luật Việt Nam không có quy định trực tiếp điều chỉnh về hình thức
ĐTTTRNN. Chính vì vậy khi tiến hành ĐTTTRNN nhà đầu tư phải tìm hiểu kĩ quy
định pháp luật của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Các hình thức ĐTTTRNN được quy
định ở đa số các nước hiện nay như:
- Đầu tư thành lập một tổ chức kinh tế mới dưới dạng độc doanh hoặc thành
liên doanh.
- Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hợp đồng dự án với các
đối tác của nước nhận đầu tư.
- Mua cổ phần, góp vốn để trực tiếp tham gia quan lý điều hành các doanh
nghiệp tại nước nhận đầu tư.
- Thực hiện các hoạt động sáp nhập, mua lại các doanh nghiệp của nước sở
tại…[6, tr 272]
Việc lựa chọn hình thức đầu tư nào phụ thuộc mục đích, chiến lược đầu tư
cũng như pháp luật của nước nhận đầu tư.
2.2.3. Lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Lĩnh vực ĐTTTRNN cũng tương tự với hình thức ĐTTTRNN trước hết phải
tuân theo pháp luật quốc gia tiếp nhận đầu tư. Bởi vì, hoạt động đầu tư được thực


19

hiện trên lanh thổ của quốc gia tiếp nhận đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình
kinh tế, chính trị, văn hóa, xa hội của quốc gia này. Theo thông lệ quốc tế, Luật đầu
tư của các quốc gia đều quy định các lĩnh vực mà họ cấp phép đầu tư nước ngoài
(bao gồm các lĩnh vực đầu tư tự do, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, các lĩnh vực
khuyến khích đầu tư hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư), các lĩnh vực không cấp
phép đầu tư( lĩnh vực cấm đầu tư). Vì vậy trước khi tiến hành đầu tư vào quốc gia
nào để việc đầu tư được nhanh chóng thì nhà đầu tư phải tìm hiểu và nghiên cứu
vấn đề này tại luật đầu tư của nước đó [6, tr 273].

Tuy nhiên khi đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài nhà đầu tư còn phải
tuân thủ pháp luật Việt Nam về lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Việc đầu tư ra nước ngoài vào các lĩnh
vực đầu tư đặc thù và địa bàn đặc thù ngoài quy định tại Luật đầu tư năm 2005 và
Nghị định số 78/2006/NĐ – CP thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
Lĩnh vực khuyến khích đầu tư, hạn chế đầu tư, cấm đầu tư ra nước ngoài theo
quy định tại Điều 75 Luật đầu tư năm 2005 nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài
trong tất cả lĩnh vực, các ngành, nghề của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên để thúc
đẩy sự phát triển cân đối trong các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân,
thực hiện có hiệu quả mục đích của Luật đầu tư, nhà nước khuyến khích đầu tư ra
nước ngoài trong các lĩnh vực sau:
- Xuất khẩu nhiều lao động, pháp huy có hiệu quả các ngành nghề truyền thống
của Việt Nam;
- Mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư,
tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ.
Đồng thời để đảm bảo lợi ích quốc gia, các lợi ích khác luật đầu tư cũng quy
định những lĩnh vực hạn chế đầu tư hoặc cấm đầu tư. Nhà nước không cho phép đầu
tư đối với các dự án gây phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch
sử, văn hóa, thuần phong mĩ tục của Việt Nam.


20

Các quy định về lĩnh vực đầu tư theo pháp luật hiện hành có một số điểm hạn
chế ở chỗ theo Nghị định số 78/2006/ NĐ – CP thì ĐTTTRNN trong một số lĩnh
vực đặc thù và địa bàn đặc thù thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ tuy
nhiên cho đến nay chưa có một văn bản nào quy định về vấn đề này trừ ĐTTTRNN
trong lĩnh vực dầu khí. Hơn nữa việc xác định thế nào là lĩnh vực đặc thù, địa bàn
đặc thù vẫn chưa được giải thích rõ.
Về lĩnh vực khuyến khích, hạn chế, cấm đầu tư mới chỉ dừng lại ở những quy

định theo Điều 75 luật đầu tư năm 2005 và Điều 5 Nghị định 78/2006/NĐ – CP:
“Căn cứ các quy định tại Điều 75 của Luật Đầu tư và tình hình kinh tế - xa hội
trong từng thời kỳ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các lĩnh vực khuyến
khích, cấm, hạn chế đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”. Hiện nay việc ban hành danh
mục các lĩnh vực khuyến khích, hạn chế và cấm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn
chưa được thực hiện.
2.2.4. Điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích
ĐTTTRNN của quốc gia.
- Trước khi có luật đầu tư theo Điều 3 Nghị định số 22/1999/NĐ – CP thì một
nhà đầu tư muốn tiến hành đầu tư ra nước ngoài thì phải đáp ứng ba điều kiện sau:
+ Có dự án đầu tư ra nước ngoài có tính khả thi.
+ Có năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu đầu tư ra nước ngoài.
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước
Những điều kiện này khá chung chung vì không có một văn bản pháp luật nào
làm rõ khái niệm “ tính khả thi” hay “ năng lực tài chính”. Theo đánh giá các điều
kiện này tương đối khắt khe, gò bó và kém tính khả thi theo hướng can thiệt sâu vào
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
- Khắc phục những hạn chế đó Luật đầu tư đa có những quy định thông thoáng
và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư khi ĐTTTRNN. Các điều kiện về “ tính


21

khả thi của dự án” đầu tư ra nước ngoài và “ năng lực tài chính” của nhà đầu tư đa
được gỡ bỏ các nhà đầu tư chỉ cần đáp ứng một số điều kiện mang tính nghiệp vụ
dưới góc độ quản lý nhà nước và để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiệu quả
[ 6, tr 275].
Theo quy định tại Điều 76 Luật đầu tư năm 2005 và Điều 4 Nghị định
78/2006/ NĐ - CP quy định ĐTTTRNN nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện sau:

+ Có dự án ĐTTTRNN.
+ Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam.
+ Trường hợp sử dụng vốn nhà nước để ĐTTTRNN thì ngoài việc phải đáp
ứng hai điều kiện chung trên, nhà đầu tư còn phải tuân thủ các quy định của pháp
luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước.
+ Được Bộ kế hoạch và đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư.
2.2.5. Thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
a. Thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trước khi có luật đầu tư
năm 2005
Theo quy định tại Điều 6, 7, 8, 9, 10 Nghị định số 22/1999/ NĐ – CP và Điều
2, 3, 4 Thông tư số 05/2001/TT – BKH gồm hai thủ tục đăng kí cấp giấy phép đầu
tư và thẩm định cấp giấy phép đầu tư việc thực hiện thủ tục nào tùy thuộc vào loại
hình doanh nghiệp (là doanh nghiệp nhà nước hay không phải doanh nghiệp nhà
nước) và quy mô của dự án.
- Thủ tục đăng kí cấp giấy phép đầu tư áp dụng đối với dự án đầu tư ra nước
ngoài mà chủ đầu tư không thuộc thành phần kinh tế nhà nước và có vốn đầu tư
dưới 1.000.000 USD nếu thuộc diện này thì doanh nghiệp phải lập hồ sơ dự án theo
quy trình đăng kí cấp giấy phép đầu tư nước ngoài gửi cho Bộ kế hoạch và đầu tư
gồm các tài liệu sau đây:
+ Đơn đăng kí đầu tư ra nước ngoài;


22

+ Bản sao giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp (có công
chứng).
+ Văn bản chấp nhận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu
tư cấp (nếu có), hợp đồng, bản thỏa thuận với bên ngoài về dự án đầu tư (đối với
trường hợp liên doanh hoặc các loại hình đầu tư khác có bên nước ngoài tham gia).
+ Báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong 01 năm gần nhất (có

kiểm toán).
Hồ sơ đăng kí cấp giấy phép đầu tư được lập thành 5 bộ, trong đó có 1 bộ gốc.
Bộ kế hoạch và đầu tư thực hiện thủ tục đăng kí cấp giấy phép trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
- Thủ tục thẩm định cấp giấy phép đầu tư áp dụng đối với dự án đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp nhà nước không phân biệt quy mô và mục đích đầu tư
và dự án đầu tư của thành phần kinh tế khác có vốn đầu tư từ 1.000.000 USD trở
lên. Nếu thuộc diện này thì doanh nghiệp Việt Nam phải lập hồ sơ dự án theo quy
trình thẩm định cấp phép đầu tư ra nước ngoài gửi Bộ kế hoạch và đầu tư gồm các
tài liệu sau đây:
+ Đơn xin đầu tư ra nước ngoài.
+ Bản sao giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp (có công
chứng).
+ Giải trình về dự án đầu tư.
+ Văn bản chấp nhận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu
tư cấp (nếu có), hợp đồng, bản thỏa thuận với bên ngoài về dự án đầu tư (đối với
trường hợp liên doanh hoặc các loại hình đầu tư khác có bên nước ngoài tham gia).
+ Báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong 01 năm gần nhất (có
kiểm toán).
+ Văn bản chấp nhận đầu tư ra nước ngoài của cơ quan ra quyết định thành lập
doanh nghiệp (nếu là doanh nghiệp nhà nước) Ủy bản nhân dân tỉnh, thành phố trực


23

thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đăng kí kinh doanh (nếu doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế khác).
Hồ sơ thẩm định cấp giấy phép đầu tư được lập thành 08 bộ, trong đó có ít nhất
01 bộ gốc. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ kế hoạch
và đầu tư gửi hồ sơ dự án lấy ý kiến của các bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương có liên quan, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ
sơ các cơ quan nêu trên gửi ý kiến bằng văn bản đến Bộ kế hoạch và đầu tư về
những vấn đề của dự án thuộc phạm vi quản lý của mình.
Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Bộ kế hoạch và đầu tư
trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định kèm theo hồ sơ dự án và ý kiến của các
bộ, ngành và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan đề
Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận
được quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ kế hoạch và đầu tư thông báo quyết
định cho doanh nghiệp.
Đối với những dự án còn lại, sau khi nhận được ý kiến bằng văn bản của các
bộ, ngành và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan;
Bộ kế hoạch và đầu tư thông báo quyết định cho doanh nghiệp. Trong trường hợp
có ý kiến khác nhau. Bộ kế hoạch và đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét
quyết định.
Trường hợp đơn xin đầu tư được chấp thuận. Bộ kế hoạch và đầu tư cấp giấy
phép đầu tư cho doanh nghiệp và gửi bản sao đến các bộ, ngành và ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan; Trường hợp đơn xin đầu tư
không được chấp thuận. Bộ kế hoạch và đầu tư thông báo quyết định của mình cho
doanh nghiệp và nêu rõ lí do.
Thời hạn thẩm định cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài là 30 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ hợp lệ.


24

Theo đánh giá của giới chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp thì thủ tục đầu
tư nói trên còn “trói chân doanh nghiệp”, còn rờm rà và phức tạp, can thiệp sâu vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có dự án thuộc diện đăng kí cấp
giấy phép đầu tư nhưng trong quá trình xử lý vẫn gửi lấy ý kiến của các bộ, ngành

làm kéo dài thời gian cấp phép, các dự án thuộc diện thẩm định cấp giấy phép đầu
tư thì nhiều trường hợp các bộ, ngành liên quan cứ phải chờ đợi ý kiến của nhau,
sau đó phải họp vài lần mới đi đến thống nhất [6, tr 279].
b. Thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam theo quy định của luật đầu
tư năm 2005
Trên cơ sở kế thừa đồng thời khắc phục những thủ tục hành chính còn rờm rà,
phức tạp và vướng mắc trước đó, Luật đầu tư đa có những quy định mới, theo đó
tùy thuộc vào quy mô đầu tư của dự án mà thủ tục ĐTTTRNN được thực hiện theo
quy trình là đăng kí cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc thẩm định cấp giấy chứng
nhận đầu tư.
- Thủ tục đăng kí cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định tại Điều 79 Luật
đầu tư năm 2005 và Điều 11, Điều 13 Nghị định 78/2006/NĐ – CP : Áp dụng đối
với dự án có quy mô dưới 15 tỷ đồng Việt Nam. Đối với quy trình này nhà đầu tư
nộp cho Bộ kế hoạch và đầu tư hồ sơ dự án đầu tư gồm:
+ Văn bản đăng ký dự án đầu tư.
+ Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
hoặc quyết định thành lập hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương đối với nhà
đầu tư là tổ chức; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu đối với nhà
đầu tư là cá nhân Việt Nam; hoặc Giấy phép đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép đầu tư trước ngày 01 tháng 7
năm 2006 nhưng không đăng ký lại theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.


25

+ Hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ
phần hoặc hợp tác đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
+ Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội
đồng cổ đông hoặc đại hội xa viên về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với

trường hợp nhà đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty hợp danh hoặc
Công ty cổ phần hoặc hợp tác xa trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp
luật về doanh nghiệp, hợp tác xa.
Nhà đầu tư nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư 03 bộ hồ sơ dự án đầu tư, trong đó
có 01 bộ hồ sơ gốc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ dự án đầu
tư quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp có nội dung cần phải được làm rõ
liên quan đến hồ sơ dự án đầu tư, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được hồ sơ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản đề nghị nhà đầu tư giải trình về nội
dung cần phải được làm rõ.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời sao gửi Bộ Tài chính, Bộ Thương mại,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, Bộ Ngoại giao và
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh) nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
Trường hợp hồ sơ dự án đầu tư không được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư có văn bản thông báo và nêu rõ lý do gửi nhà đầu tư.
- Thủ tục thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định tại Điều 79 Luật
đầu tư năm 2005 và Điều 11, Điều 14 Nghị định 78/2006/NĐ - CP : Áp dụng đối
với dự án có quy mô từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên. Với quy trình này nhà đầu tư
phải nộp cho Bộ kế hoạch và đầu tư hồ sơ dự án đầu tư gồm:
+ Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư.
+ Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoặc Giấy đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành


×