Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tac dong cua viec gia nhap wto doi voi nong nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.5 KB, 21 trang )

Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

CHƯƠNG 1
NHỮNG QUI ĐỊNH CƠ BẢN CỦA WTO
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
1. Các luật chơi cơ bản của WTO trong lĩnh vực nông nghiệp và nông sản
Khi ra đời, GATT 1947 vốn dĩ được áp dụng cho cả các sản phẩm nông nghiệp,
nhưng Hiệp định này cũng có những kẽ hở. Chẳng hạn, nó cho phép các nước được áp
dụng một số biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu và trợ cấp. Hoạt động
thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp do đó đã bị bóp méo, đặc biệt là do trợ cấp xuất
khẩu. Vòng đàm phán Urugoay đã cho ra đời một hiệp định đa biên đầu tiên về lĩnh vực
này- Hiệp định về nông nghiệp. Hiệp định này đánh dấu một bước phát triển đáng kể,
hướng tới lập lại trật tự và cạnh tranh lành mạnh trong một lĩnh vực. Hiệp định đã được
thực hiện trong vòng sáu năm (và được các nước đang phát triển triển khai với thời hạn
10 năm) kể từ năm 1995. Hiệp định còn bao gồm các cam kết tiếp tục cải tổ trên cơ sở
tiến hành các cuộc đàm phán mới. Hiệp định nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay
tập trung vào 3 nội dung chủ yếu: (1) Mở cửa thị trường nhập khẩu; (2) Giảm trợ cấp
xuất khẩu nông sản; (3) Cắt giảm hỗ trợ sản xuất trong nước cho nông nghiệp. Mục tiêu
chính của Hiệp định nông nghiệp là cải cách các nguyên tắc, luật lệ, chính sách trong
nông nghiệp cũng như giảm bớt những bóp méo thương mại nông sản do việc bảo hộ
nông nghiệp và hỗ trợ sản xuất trong nước tạo nên. Các điều khoản và cam kết về mở cửa
thị trường bao gồm các nội dung cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan.

1.1. Các quy định cơ bản của Hiệp định về nông nghiệp
Hiệp định về nông nghiệp có mục tiêu cải cách thương mại trong lĩnh vực nông
nghiệp và củng cố vai trò của thị trường nông sản quốc tế trong điều tiết định hướng
chính sách nông nghiệp quốc gia. Hiệp định còn giúp nâng cao khả năng dự báo các rủi
ro và mức độ an toàn cho các nước nhập khẩu cũng như các nước xuất khẩu nông sản.


Các quy định của Hiệp định và các cam kết của các nước tập trung vào các vấn đề
sau:
HV: Phan Mạnh Trà

Page 1


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

+ Tiếp cận thị trường ( Market Access) và các hạn chế nhập khẩu;
+ Hỗ trợ trong nước (Domestic Support), trợ cấp (Subsidies) và các chương trình
khác, kể cả những chương trình nhằm tăng hoặc bảo đảm giá cả sản xuất và thu nhập cho
người làm nông nghiệp;
+ Trợ cấp xuất khẩu ( Export Subsidies) và các phương pháp khác nhằm có được
một cách giả tạo khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Hiệp định về nông nghiệp
cho phép các chính phủ hỗ trợ khu vực nông thôn bằng những biện pháp tác động tối
thiểu đến thương mại. Hiệp định còn có một điều khoản “hoà hoãn” nhằm giảm thiểu
nguy cơ tranh chấp hoặc bất đồng về trợ cấp nông sản trong vòng chín năm, cho đến cuối
năm 2003.Hiệp định cũng tỏ ra mềm dẽo đối với việc triển khai các cam kết quốc gia.
Các nước đang phát triển không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế quan xuống ngang
bằng với mức các nước phát triển áp dụng. Hiệp định hơn thế nữa còn cho các nước đang
phát triển có thêm thời gian để thực hiện các cam kết của mình. Các nước kém phát triển
hoàn toàn không bị ràng buộc gì. Có một số điều khoản đặc biệt quy định về lợi ích của
các nước phải nhập khẩu lương thực thiết yếu và đề cập đến những mối quan tâm của các
nước kém phát triển.
Về một số quy định cụ thể, tại Vòng đàm phán Urugoay về việc thành lập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), các nước thoả thuận được nội dung cụ thể như sau:


Mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ đối với sản phẩm nông nghiệp là:
Các nước phát triển
6 năm (1995 - 2000)
Thuế quan
Mức giảm trung bình đối với tất cả các sản
phẩm nông nghiệp
Mức giảm tối thiểu với mỗi sản phẩm
Hỗ trợ trong nước
Giảm tổng mức hỗ trợ đối với toàn bộ lĩnh

Các nước đang phát triển
10 năm (1995 - 2005).

36%

24%

15%

10%

20%

13%

36%

24%

vực (giai đoạn được tính làm cơ sở:1986 1990)

Xuất khẩu
Giá trị trợ cấp
HV: Phan Mạnh Trà

Page 2


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

Khối lượng được trợ cấp (giai đoạn được

21%

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

14%

tính làm cơ sở: 1986-1990)

Các nước kém phát triển không phải đưa ra cam kết về giảm thuế quan hoặc giảm
trợ cấp. Cơ sở để tính mức độ giảm thuế là thuế suất trần trước ngày 01/01/1995, hoặc
đối với những mức thuế chưa được cam kế, thì thuế suất được áp dụng thực tế vào tháng
9/1986, khi bắt đầu Vòng đàm phán Urugoay.
Về mở cửa thị trường, nguyên tắc mới đối với mở cửa thị trường nông sản là “chỉ
áp dụng thuế quan mà thôi”. Trước Vòng đàm phán Urugoay, việc nhập khẩu một số
nông sản bị hạn chế bởi các hạn ngạch và các biện pháp phi thuế quan khác. Tuy nhiên,
các biện pháp này đã được thay thế bằng thuế quan. Thuế quan cho phép bảo đảm một
mức bảo hộ tương đương: nếu biện pháp trước đây sẽ làm tăng 75% giá hàng hoá trên thị
trường nội địa so với giá trên thị trường thế giới, thì thuế suất mới áp dụng có thể lên đến
75% (cách thức chuyển hạn ngạch và các biện pháp phi quan thuế khác sang thuế quan

còn được gọi là quá trình “thuế hoá”). Hiệp định cũng quy định những nông sản đã được
nhập khẩu trước khi Hiệp định có hiệu lực thì có thể vẫn tiếp tục được nhập khẩu nhờ vào
một Hệ thống “Hạn ngạch -Thuế quan”. Hiệp định bảo đảm sẽ không áp dụng mức thuế
quá cao đối với một lượng nông sản nhập khẩu bổ sung nào đó: đối với một lượng nông
sản nhập khẩu trong hạn ngạch thì thuế quan áp dụng sẽ thấp hơn, còn đối với lượng
nông sản nhập khẩu vượt quá hạn ngạch thì thuế quan áp dụng sẽ cao hơn (thậm chí đôi
khi còn cao hơn rất nhiều).

Biểu đồ minh hoạ Hạn ngạch -Thuế quan ( Tariff-Quota)

HV: Phan Mạnh Trà

Page 3


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

Theo Biểu đồ minh hoạ này, nông sản nhập khẩu trong giới hạn Hạn ngạch (cho
đến 1000 tấn) thì được hưởng thuế suất 10%. Lượng nông sản nhập khẩu ngoài Hạn
nghạch thì phải chịu thuế suất 80%. theo Hiệp định về nông nghiệp, giới hạn hạn ngạch ở
mức 1000 tấn được tính toán dựa trên lượng nông sản nhập khẩu trong giai đoạn cơ sở
hoặc trên mức độ mở cửa tối thiểu đã được thương lượng. Những cam kết mới về thuế
quan và hạn ngạch thuế quan được áp dụng cho tất cả các sản phẩm nông nghiệp và bắt
đầu có hiệu lực từ năm 1995. Các nước tham gia Vòng đàm phán Urugoay đã đạt được
thoả thuận theo đó các nước phát triển sẽ giảm thuế quan trung bình 36% (còn đối với
trường hợp sử dụng hạn ngạch thuế quan, thì phải giảm thuế suất thuế nhập khẩu cụ thể
đến mức cao nhất đối với khối lượng nông sản vượt quá hạn ngạch) chia đều trong sáu
năm. Các nước đang phát triển sẽ giảm thuế quan trung bình 24% trong 10 năm. Một số

nước đang phát triển cũng đã chọn phương án chào các mức thuế trần đối với những sản
phẩm mà thuế quan chưa được “ràng buộc” (tức mức thuế quan chưa được cam kết theo
các quy định của Hiệp định GATT hoặc WTO) trước Vòng đàm phán Urugoay. Các nước
kém phát triển không phải cam kết giảm thuế quan. Tuy vậy, các mức giảm thuế quan
này không thấy xuất hiện trong Hiệp định về nông nghiệp. Các nước tham gia đàm phán
đã sử dụng chúng làm cơ sở để xây dựng danh mục cam kết của mình. Đó là những cam
kết được nêu lại trong các Danh mục đính kèm các hiệp định của WTO có tính ràng buộc
về mặt pháp lý quốc tế. Đối với những nông sản trước kia bị hạn chế bằng hạn ngạch nay
bị áp thuế quan, thì các nước được phép áp dụng những biện pháp khẩn cấp đặc biệt (gọi
HV: Phan Mạnh Trà

Page 4


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

là “Tự vệ đặc biệt”- Special Safeguards) nhằm bảo vệ nông dân trước việc giá cả sụt
giảm đột ngột hay việc nông sản nhập khẩu tăng mạnh. Tuy nhiên, Hiệp định cũng nêu rõ
khi nào thì các biện pháp khẩn cấp này có thể được áp dụng và được áp dụng các biện
pháp khẩn cấp này như thế nào (chẳng hạn, các biện pháp này không được áp dụng đối
với nông sản nhập khẩu theo chế độ hạn ngạch-thuế quan). Đến nay đã có bốn nước sử
dụng các điều khoản về “đối xử đặc biệt” (Special Treatment) để hạn chế nhập khẩu các
nông sản đặc biệt nhạy cảm (chủ yếu là gạo) trong giai đoạn triển khai Hiệp định (tới
năm 2000 đối với các nước phát triển và 2004 đối với các nước đang phát triển), nhưng
phải thoả mãn một số điều kiện rất nghiêm ngặt, đặc biệt là việc phải bảo đảm mức độ
mở cửa tối thiếu đối với các nhà cung ứng nước ngoài. Các nước đó là Nhật Bản, Hàn
Quốc và Philippin (đối với nhập khẩu gạo), và Ixraen (đối với nhập khẩu thịt cừu, sữa bột
nguyên chất và một số loại phomát). Đến nay, Nhật Bản và Ixraen đã bỏ đặc quyền này.

Nhưng một thành viên mới của WTO là Đài Loan thì vẫn đang được hưởng quyền ưu đãi
đặc biệt này trong nhập khẩu gạo, giống như Hàn Quốc và Philippin.
Về hỗ trợ trong nước (Domestic Support), các biện pháp hỗ trợ giá trong nước hoặc
hỗ trợ sản xuất thường bị chỉ trích là khuyến khích sản xuất dư thừa, dẫn tới đẩy lùi các
nông sản nhập khẩu ra khỏi thị trường nội địa, kéo theo trợ cấp xuất khẩu và bán phá giá
trên thị trường thế giới. Hiệp định về nông nghiệp phân biệt rõ các chương trình hỗ trợ có
tác dụng kích thích trực tiếp sản xuất với các chương trình bị coi là không có tác động
trực tiếp. Các nước buộc phải giảm bớt những biện pháp có tác động trực tiếp tới sản xuất
và trao đổi hàng hoá. Các nước thành viên WTO ước tính mức hỗ trợ mỗi năm cho nông
nghiệp dưới dạng này (bằng việc sử dụng cái gọi là tính toán theo “biện pháp hỗ trợ cộng
dồn tổng thể”- Total AMS) trong giai đoạn cơ sở 1986-1988. Các nước phát triển đã chấp
nhận giảm 20% trong vòng sáu năm kể từ năm 1995. Các nước đang phát triển thì cam
kết giảm 13% trong vòng mười năm kể từ năm 1995. Các nước kém phát triển không bị
bắt buộc phải giảm. (Hình thức hỗ trợ trong nước này đôi khi còn được gọi là hỗ trợ “hộp
vàng”, liên tưởng đến hình ảnh đèn giao thông màu vàng báo hiệu cần phải đi “chậm
lại”). Các biện pháp hỗ trợ ít gây ảnh hưởng tới trao đổi nông sản có thể được tự do thông
qua và được xếp vào loại hỗ trợ “hộp xanh” (giống như tín hiệu đèn xanh cho phép tiếp
HV: Phan Mạnh Trà

Page 5


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

tục lưu thông). Các biện pháp này bao gồm những dịch vụ của chính phủ về nghiên cứu,
kiểm soát dịch bệnh, giám định, phân cấp những sản phẩm riêng biệt trong nông nghiệp,
dịch vụ tiếp thị và xúc tiến; xây dựng cơ sở hạ tầng và an ninh lương thực; đóng góp của
chính phủ trong chương trình bảo hiểm thu nhập và chế độ bảo đảm thu nhập; các khoản

trợ cấp về thiên tai; những khoản trợ giúp nông dân điều chỉnh cơ cấu, tái cơ cấu sản xuất
nông nghiệp; những khoản chi trả trực tiếp theo chương trình bảo vệ môi trường và
chương trình hỗ trợ phát triển các vùng, khu vực kém phát triển; Các biện pháp hỗ trợ sau
cũng được phép áp dụng: một số khoản chi trả trực tiếp cho nông dân khi họ bị buộc phải
hạn chế sản xuất nông sản (có lúc được gọi là các biện pháp hỗ trợ “hộp xanh lam/ hổ
phách”), một số chương trình trợ giúp của chính phủ nhằm khuyến khích phát triển nông
nghiệp và nông thôn tại các nước đang phát triển và các biện pháp hỗ trợ khác có quy mô
nhỏ (nguyên tắc “minimis”) không đáng kể so với tổng giá trị một loại sản phẩm hoặc tất
cả các sản phẩm được trợ cấp (dưới 5% đối với các nước phát triển và dưới 10% đối với
các nước đang phát triển).
Về trợ cấp xuất khẩu ( Export Subsidies): Hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ
cấp cho xuất khẩu nông sản, trừ phi chúng được nêu rõ trong các danh mục cam kết của
các nước thành viên. Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải giảm đồng thời mức
trợ cấp và khối lượng nông sản xuất khẩu được trợ cấp. Với cơ sở là mức trợ cấp trung
bình của giai đoạn 1986-1990, các nước phát triển chấp nhận giảm 36% giá trị các khoản
trợ cấp nông sản xuất khẩu trong vòng sáu năm kể từ năm 1995 (24% trong vòng 10 năm
đối với các nước đang phát triển). Các nước phát triển cũng thoả thuận giảm 21% khối
lượng nông sản xuất khẩu được trợ cấp trong vòng sáu năm (14% trong vòng 10 năm đối
với các nước đang phát triển). Các nước kém phát triển không cần phải có bất cứ cam kết
gì về vấn đề này. Trong quá trình thực hiện, các nước đang phát triển vẫn được phép sử
dụng trợ cấp nhất định nhằm mục đích giảm chi phí bán và vận chuyển các nông sản xuất
khẩu, nhưng phải tuân thủ một số điều kiện nhất định.

1.2. Quy định về các nước kém phát triển và các nước phải lệ thuộc vào lương
thực nhập khẩu
HV: Phan Mạnh Trà

Page 6



Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

Hiệp định về nông nghiệp quy định các thành viên của WTO phải giảm dần lượng
nông sản xuất khẩu được trợ cấp. Tuy vậy, một số nước nhập khẩu vẫn đang bị lệ thuộc
vào lương thực nhập khẩu giá rẻ và được trợ cấp của các nước công nghiệp chủ chốt.
Trong số đó có một vài nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới. Tuy giá cả tăng, nhờ cắt
giảm trợ cấp xuất khẩu, có thể có tác động tốt tới ngành sản xuất nông nghiệp của họ,
nhưng các nước này có thể vẫn cần được giúp đỡ tạm thời để có thể tiến hành những điều
chỉnh cần thiết giúp họ thanh toán hàng hoá nhập khẩu đắt đỏ và nếu được thì tiến tới
xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của mình. Quyết định này cũng nêu khả năng Quỹ
Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới hỗ trợ thanh toán lương thực nhập khẩu.
Các nước đang phát triển thành viên WTO (bao gồm các nước đang phát triển và
chậm phát triển) hầu hết là những nước phụ thuộc khá nhiều vào sản xuất nông nghiệp.
Đây được xem là nhóm chủ thể dễ bị tổn thương khi các nguyên tắc mở cửa thị trường
trong nông nghiệp được thực thi. Vì vậy, Hiệp định Nông nghiệp đã ghi nhận những quy
định về biện pháp đối xử đặc biệt, mang tính ưu tiên cho các nhóm các nước thành viên
này.
Cụ thể, Hiệp định Nông nghiệp cho phép các thành viên là nước đang phát triển được
hưởng những “ưu tiên” sau đối với hàng nông sản:
- Mức độ buộc phải giảm thuế nhập khẩu và giảm các biện pháp trợ cấp ít hơn (chỉ bằng
khoảng 2/3 mức độ giảm áp dụng cho nước thành viên phát triển - thậm chí nhóm nước
kém phát triển nhất còn được miễn nghĩa vụ giảm thuế và giảm trợ cấp này);
- Thời hạn (lộ trình) thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế và trợ cấp dài hơn. Là nước đang
phát triển, Việt Nam cũng được hưởng các ưu tiên này. Điều này đồng nghĩa với thị
trường nông sản trong nước sẽ được mở cửa theo cam kết trong WTO nhưng là mở dần
dần. Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này sẽ có thời gian để điều chỉnh
dần khả năng cạnh tranh của mình. Một quyết định đặc biệt cấp bộ trưởng đã nêu ra
những mục tiêu và một số biện pháp liên quan đến việc trợ giúp lương thực và trợ giúp

phát triển nông nghiệp.
HV: Phan Mạnh Trà

Page 7


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ CAM KẾT
CỦA VIỆT NAM VỚI WTO TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
2. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam và Cam kết của Việt Nam với WTO trong
nông nghiệp
2.1. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam
Theo nghiên cứu của các chuyên gia khác nhau, thì trong quá trình đàm phán gia
nhập WTO và hiện nay, tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp Việt Nam luôn thấp hơn
tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp và GDP dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng GDP nông
nghiệp Việt Nam bình quân cả giai đoạn 1995-2007 khoảng 4% một năm. Sau khi vào
WTO được một năm, tốc độ này có giảm một chút so với trước, đạt 3,25% (năm 2006 đạt
3,4%). Cho đến năm 2015, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 4 lần. Nếu
như năm 2006, quy mô GDP chưa đến 1 triệu tỷ đồng, thì đến năm 2015, quy mô của nền
kinh tế đã lên tới gần 4,2 triệu tỷ đồng. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản,
ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với 7,69%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ
đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp mặc dù tăng thấp
ở mức 2,03% do ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, nhưng quy mô trong khu vực lớn nhất
(chiếm khoảng 75%) nên đóng góp 0,26 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%,
đóng góp 0,09 điểm phần trăm, là mức tăng trưởng thấp nhất của ngành này trong 5 năm
qua do đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh, giá cả và thị trường tiêu thụ

sản phẩm
Ngoài ra, người ta còn nhận thấy nông nghiệp từng bước nhường vị trí làm cơ sở
phát triển kinh tế cho các ngành khác. Nông nghiệp chuyển biến theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong tổng GDP của toàn nền kinh tế (từ 27% năm 1995 xuống còn
20% năm 2007). Trong bốn phân ngành nông nghiệp thì có hai phân ngành là Thuỷ sản
và Trồng trọt tăng trưởng khá ổn định, còn Chăn nuôi thì tăng trưởng không đồng đều
giữa các loại gia súc, gia cầm và đôi khi còn bị các dịch bệnh hoành hành gây tổn thất
HV: Phan Mạnh Trà

Page 8


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

lớn. Phân ngành Lâm nghiệp thì có nhiều cố gắng để tăng diện tích rừng nhưng về cơ bản
cũng không bảo đảm đủ cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ trong nước.
Chính sách thương mại nông sản Việt Nam có nhiều đổi mới trong những năm
gần đây, nhất là sau khi Việt Nam vào ASEAN, APEC, ký Hiệp định thương mại với Hoa
kỳ và gia nhập WTO. Trong chính sách nhập khẩu, cơ cấu Thuế quan có thay đổi lớn,
chẳng hạn, theo CEPT/AFTA trong ASEAN, số dòng thuế nông sản nhập khẩu là 1182
dòng, mức thuế quan bình quân là 3,85%; theo VN-USBTA, số dòng thuế nông sản nhập
khẩu là 448 dòng, mức thuế quan bình quân là 27,26 %; theo AC-FTA ( không thực hiện
Chương trình thu hoạch sớm), số dòng thuế nông sản nhập khẩu là 1162 dòng, mức thuế
quan bình quân là 15 %. Việt Nam bãi bỏ cơ chế cấm nhập khẩu nông sản mà thay vào
đó cơ chế thuế quan nhập khẩu nhưng mức thuế quan nhập khẩu nói chung là thấp. Việt
Nam đã loại bỏ việc áp dụng quy định về trị giá tối thiểu dùng để tính thuế nhập khẩu và
phụ thu nhập khẩu... Trong chính sách xuất khẩu, Việt Nam đẩy mạnh việc xuất khẩu
nông sản chính như gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, chè, rau quả, gỗ và sản phẩm

gỗ, sản phẩm mây tre; mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho mọi thành phần kinh tế;
loại bỏ hạn ngạch xuất khẩu nông sản; bỏ giấy phép của Bộ Thương mại về xuất khẩu
nông sản...Trong chính sách sản xuất nội địa, áp dụng cơ chế khuyến nông, hỗ trợ nông
nghiệp theo cam kết với WTO.

2.2. Cam kết của Việt Nam với WTO trong nông nghiệp
Các cam kết đa phương của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc
được quy định trong các hiệp định của WTO. Đây là những nguyên tắc mang tính ràng
buộc với mọi thành viên nhằm mục đích đưa hệ thống luật lệ và cơ chế điều hành thương
mại của các nước thành viên phù hợp chuẩn mực chung. Về cơ bản, chúng ta cam kết
thực hiện toàn bộ các hiệp định WTO ngay thời điểm gia nhập. Các cam kết đa phương
của Việt Nam thể hiện trong Báo cáo của Ban công tác liên quan đến nông nghiệp như
sau:
Các doanh nghiệp nhà nước về nông nghiệp sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí
thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DNNN
HV: Phan Mạnh Trà

Page 9


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

và không coi mua sắm của DNNN là mua sắm chính phủ. Nhà nước can thiệp vào hoạt
động của doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông bình đẳng với các cổ đông khác. Việt
Nam sẽ có báo cáo thường niên cho WTO về tiến độ cổ phần hóa chừng nào còn duy trì
chương trình này.
Về quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và nhập khẩu), kể từ khi gia nhập, ta cho
phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa

như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam, trừ đối với một số mặt hàng nhạy cảm mà ta chỉ
cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo).
Đối với chính sách giá, ta cam kết thực thi việc quản lý giá phù hợp các quy định
của WTO và sẽ bảo đảm tính minh bạch trong kiểm soát giá thông qua việc đăng tải danh
mục các mặt hàng chịu sự quản lý giá và các văn bản pháp luật liên quan trên Công báo.
Về thuế nhập khẩu, các loại thuế và các khoản thu khác: Ta cam kết sẽ áp dụng
thuế nhập khẩu theo nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các Thành viên WTO (trừ
những trường hợp ngoại lệ được WTO cho phép). Nếu tăng thuế nhập khẩu, ta sẽ thực
hiện theo quy định của WTO. Ta cũng cam kết không duy trì các loại thuế và khoản thu
áp dụng riêng cho hàng nhập khẩu (trên thực tế các phụ thu này đã được bãi bỏ). Mức
thuế nhập khẩu bình quân đối với hàng nông sản từ mức hiện hành là 23,5% giảm xuống
còn 20,9%, thời gian thực hiện trong vòng 5-7 năm. Trong khi đó mức thuế suất bình
quân chung của nền kinh tế giảm từ mức hiện hành là 17,4% xuống còn 13,4%, mức thuế
ngành công nghiệp giảm tương ứng từ 16,8% hiện hành xuống 12,6%. Như vậy, mức
thuế nhập khẩu hàng nông sản được cam kết cắt giảm ít hơn. Số dòng thuế năm trong
diện cam kết cắt giảm hơn 1/3 trong biểu thuế chung của cả nền kinh tế, chủ yếu là các
dòng thuế có thuế suất trên 20%. Các măt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế
trong đó có nông sản vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất đinh như các mặt hàng rau quả
tươi và chế biến, cà phê, chè, các loại thịt gia cầm, thịt lợn, thịt bò, v.v. .
Đối với hạn ngạch thuế quan (HNTQ), ta cam kết sẽ áp dụng, phân bổ và quản lý
HNTQ một cách minh bạch, không phân biệt đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định
HV: Phan Mạnh Trà

Page 10


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị


của WTO. Cụ thể ta bảo lưu quyền áp dụng HNTQ với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá
và muối.
Về trợ cấp, tương tự như các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cam kết sẽ không
áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, để hỗ trợ
cho nông nghiệp, nước ta vẫn được sử dụng các biện pháp không thuộc diện bị cấm (hộp
xanh lá cây và xanh lam) ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Với mức 10% giá trị
sản lượng, giá trị tuyệt đối tương ứng với 1,1 tỷ USD/ mỗi năm. Ngoài ra còn bảo lưư
thêm một khoản hỗ trợ khác nữa, hàng năm vào khoảng 4000 tỷ đồng. Đây là một khoản
không nhỏ so với khả năng chi ngân sách của nước ta.
Nước ta cam kết tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (TBT), Hiệp định kiểm dịch động, thực vật và vệ sinh an toàn thực
phẩm (SPS). Tuy nhiên trong nông nghiệp, đay sẽ là một thách thức lớn.
Về hệ thống phân phối hàng nông sản, cũng như cam kết đối với các ngành khác,
ta cho phép bên nước ngoài thành lập liên doanh với phần vốn góp tối đa là 49% kể từ
khi gia nhập. Hạn chế vốn góp này được từng bước nới lỏng và đến năm 2009, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài mới được phép thành lập. Ta không mở cửa thị trường
phân phối thuốc lá, gạo, đường cho nước ngoài. Bên cạnh đó, với nhiều sản phẩm nhạy
cảm như phân bón, ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế rất
chặt khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc hạn chế
khả năng mở điểm bán lẻ sẽ giữ được thị trường cho các nhà phân phối Việt Nam.
Đối với khuôn khổ xây dựng và thực thi chính sách, các quy định của WTO được
áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ; các luật, các quy định dưới luật và các biện pháp
khác bao gồm các quy định và biện pháp của chính quyền địa phương đều phải tuân thủ
các quy định của WTO. Ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ dành tối thiểu 60 ngày cho
việc đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực điều
chỉnh của WTO. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp
chí hoặc trang tin điện tử (websites) của các Bộ, ngành.
HV: Phan Mạnh Trà

Page 11



Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

Như vậy, từ khi gia nhập WTO ngành nông nghiệp và nông thôn sẽ phải tuân thủ
những điều khoản cam kết và thực hiện đúng lộ trình như báo cáo của Ban công tác cụ
thể như trên.

CHƯƠNG 3
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3. Bước đầu đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực nông
nghiệp Việt Nam
3.1. Nhận xét chung
Gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nước ta nói
chung, ngành nông nghiệp nói riêng cụ thể như: Sản xuất nông nghiệp 10 năm qua mặc
dù gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh và đảm bảo sản xuất ổn định. Năm 2015, sản
lượng lúa đã đạt ở mức cao, khoảng 44,75 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 44,5 triệu tấn.
Sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt 50,1 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 50 triệu tấn,
tăng gần 10 triệu tấn so với năm 2007. Mức lương thực bình quân đầu người năm 2015
đạt 546,4 kg và xuất khẩu các sản phẩm từ khu vực nông nghiệp đạt mức cao trên 20,6 tỷ
USD. Như vậy, bước đầu có thể thấy một số tác động tích cực và không tích cực của việc
gia nhập WTO đối với ngành nông nghiệp như sau:
a. Về tác động tích cực
- Tạo ra khuôn khổ pháp lý ốn định lâu dài, minh bạch công khai, có thể dự báo
được các rũi ro trong thương mại nông sản cho các nhà sản xuất, kinh doanh Việt Nam và
các nước;
- Tạo cơ hội tốt cho các nhà sản xuất, kinh doanh Việt Nam thâm nhập vào thị

trường nông sản rộng lớn của cộng đồng thương mại quốc tế. Tạo cơ hội cho các hộ nông
dân Việt Nam có cách suy nghĩ mới, cách làm ăn mới khi Việt Nam là thành viên của
WTO;

HV: Phan Mạnh Trà

Page 12


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

- Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn, lành mạnh hơn cho các nhà
sản xuất, kinh doanh Việt Nam và các nước tham gia vào thị trường nông sản trong nước
cũng như quốc tế;
- Góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, ốn định tình hình kinh tế-xã
hội trong nước, ổn định chính trị.
b. Về tác động không tích cực:
- Sản xuất của nông dân trong một số ngành bị đe dọa:
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và việc bảo hộ thị trường nông sản
nội địa bằng hàng rào thuế quan giảm đi, thách thức lớn nhất chính là khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm nông nghiệp. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy
sau khi gia nhập WTO, nông dân sản xuất các mặt hàng nông sản trước đó được bảo hộ,
hoặc nông dân cung cấp nguyên liệu thô cho các ngành công nghiệp chế biến được bảo
hộ và các ngành hàng thay thế nhập khẩu sẽ phải chịu tác động tiêu cực. Chẳng hạn, tại
vùng Nội Mông, Trung Quốc, sau khi nước này cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết gia
nhập WTO, hàng nghìn gia đình ở đây đã phải từ bỏ nghề bán các sản phẩm len có truyền
thống hàng trăm năm do không thể cạnh tranh với len của Ôxtrâylia và Niu Dilân. Nông
dân trồng mía của Trung Quốc cũng trong tình cảnh tương tự khi giá thu mua mía giảm

xuống do lượng đường ngoại nhập từ EU tăng vọt trong khi giá phân bón và thuốc trừ sâu
tăng lên do Nhà nước chấm dứt trợ giá. Ngoài ra, những doanh nghiệp chế biến nông sản
cũng sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với hàng ngoại nhập chất lượng cao hơn nhưng giá
thành lại thấp hơn.
Kinh nghiệm cho thấy, Trung Quốc đã chấp nhận mức thuế nông nghiệp thấp bởi họ
quyết định “hi sinh” ngành nông nghiệp để đổi lấy những cơ hội xuất khẩu lớn hơn từ
ngành công nghiệp chế tác. Quyết định này có thể phù hợp với Trung Quốc bởi vì họ
mạnh về công nghiệp chế tác, đặc biệt là dệt may, đồ chơi, hàng điện tử. Tuy nhiên,
hướng này không phù hợp với Việt Nam bởi gần 80% dân số Việt Nam làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp, trong khi ngành công nghiệp chế tác của Việt Nam chưa đủ mạnh
để cạnh tranh
HV: Phan Mạnh Trà

Page 13


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

- Trợ cấp nông sản gặp nhiều trở ngại:
Một trong những yêu cầu quan trọng của WTO đối với nông nghiệp là cắt bỏ trợ
cấp nông sản. Mặc dù về lý thuyết, các nước đang phát triển sẽ được hưởng ưu tiên (mức
trợ cấp trực tiếp tối thiểu bằng 10% đối với giá trị sản lượng nông nghiệp so với 5% đối
với các nước phát triển), nhưng do Việt Nam gia nhập WTO tương đối muộn nên Việt
Nam sẽ có khả năng phải chấp nhận nhiều yêu cầu ngặt nghèo hơn. Ở nhiều ngành nông
nghiệp, Việt Nam đã phải cam kết cắt bỏ trợ cấp, đồng thời, lại không có một thời hạn
chuyển tiếp nào sau khi gia nhập. Một số thành viên yêu cầu Việt Nam xoá bỏ trợ cấp
xuất khẩu từ thời điểm gia nhập. Trong bản chào gần đây nhất, Việt Nam đã phải cam kết
sẽ không trợ cấp xuất khẩu cho cà phê kể từ thời điểm gia nhập; cho gạo, thịt lợn và rau

sau 3 năm. Ngoài ra, Việt Nam có thể không được áp dụng trợ cấp xuất khẩu cho mặt
hàng nào khác ngoài 4 mặt hàng trên.
Mặc dù Việt Nam chấp nhận những nhượng bộ về mở cửa thị trường nông nghiệp,
nhưng sẽ khó có thể đòi hỏi những nước giàu, là thị trường tiêu thụ nông sản chủ yếu,
cũng dành cho Việt Nam những ưu đãi tương tự. Trong khi những nước giàu gây sức ép
đối với các nước nghèo mở cửa thị trường thì họ vẫn tiếp tục trợ cấp và duy trì nhiều rào
cản đối với việc xâm nhập thị trường nông sản của họ. Hàng năm, nông dân trồng ngô
của Mỹ nhận được trợ cấp trị giá 10 tỷ USD, nông dân sản xuất đường của EU nhận được
trợ cấp trị giá gần 840 triệu euro. Trong khi đó, Việt Nam khó có thể sử dụng các biện
pháp tự vệ đặc biệt đối những mặt hàng nông sản nhập khẩu. Do đó, cần có những cơ chế
hiệu quả để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp phù hợp với quy định của WTO.
Kinh nghiệm của Trung Quốc và các nước đang phát triển khác là chuyển trợ cấp
Chính phủ sang những hỗ trợ không vi phạm quy định của WTO. Đầu tư cho giáo dục,
chăm sóc y tế và các dịch vụ công cộng khác là cần thiết để tăng cường khả năng tiếp cận
của khu vực nông thôn với cơ hội có được từ hội nhập. Tăng cường phổ biến thông tin
khoa học kỹ thuật canh tác, tích cực triển khai quy hoạch vùng nguyên liệu phục vụ cho
chế biến nông sản là những hỗ trợ đáng kể cho sản xuất nông nghiệp mà không trái

với quy định của WTO
HV: Phan Mạnh Trà

Page 14


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

3.2. Tác động của việc gia nhập WTO đến pháp luật về nông nghiệp
Việc gia nhập WTO có tác động lớn đến hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có

pháp luật về nông nghiệp. Quá trình rà soát các văn bản pháp luật cho thấy có một số quy
định pháp luật chưa phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. Chẳng hạn như, pháp
luật hiện hành chỉ cho phép những nhà nhập khẩu bán hàng nhập khẩu cho một thương
nhân có đăng ký kinh doanh mua bán hoặc có quyền phân phối nhóm hàng đó; thực hiện
cấp phép nhập khẩu theo nhu cầu sử dụng muối trong sản xuất theo quy định của Bộ quản
lý chuyên ngành; thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng nông nghiệp chưa phù hợp
theo lộ trình cam kết. Việc gia nhập WTO đã đặt ra khả năng phải tiếp tục nghiên cứu để
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
nông nghiệp, đặc biệt là:
- Ban hành Thông tư số 08/2013/TT-BCT ngày 22/04/2013 thay thế Thông tư
09/2007/TT-BTM ngày 17/07/2007 của Bộ Thương mại hướng dẫn thi hành Nghị định số
23/2007/NĐ-CP. Việc thay thế Thông tư này phải theo hướng cho phép các nhà nhập
khẩu, kể cả cá nhân hoặc doanh nghiệp nước ngoài đã đăng ký tiến hành các hoạt động
nhập khẩu sẽ được tự do lựa chọn các nhà phân phối để tiến hành phân phối các sản
phẩm nhập khẩu liên quan trong phạm vi lãnh thổ hải quan của Việt Nam, mở rộng phạm
vi quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...;
- Ban hành Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 hướng dẫn thủ tục đăng
ký thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có
hiện diện thương mại tại Việt Nam theo Nghị định số 90/2007/NĐ-CP ngày 31/05/2007
của Chính phủ quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước
ngoài không có hiện diện tại Việt Nam.
- Ban hành Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 thay thế Nghị định số
12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua,
bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài, theo đó ban hành Thông tư số
04/2014/TT-BCT ngày 27 tháng 01 năm 2014 thay thế Thông tư số 04/2006/TT-BTM
ngày 6 tháng 4 năm 2006 của Bộ Thương mại. Việt ban hành các Thông tư mới này
HV: Phan Mạnh Trà

Page 15



Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

phải theo hướng bỏ quy định yêu cầu phải có xác nhận của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ
Công thương) về nhu cầu sử dụng thuốc lá nguyên liệu cho sản xuất thuốc lá điếu theo
một tỷ lệ nhất định; Thay thế cơ chế thực hiện cấp phép nhập khẩu muối theo nhu cầu sử
dụng muối trong sản xuất phù hợp với quy định của Bộ quản lý chuyên ngành bằng cơ
chế quản lý hạn ngạch dựa trên cơ sở kết quả nhập khẩu đã thực hiện trong quá khứ;
- Ban hành Quyết định mới của Bộ Công Thương về lượng hạn ngạch thuế quan đối
với hàng hóa nhập khẩu từ năm 2008 đến nay theo hướng tăng mức hạn ngạch thuế quan
(đối với hai mặt hàng trứng gia cầm; đường tinh luyện, đường thô, muối) phù hợp với
cam kết gia nhập WTO bảo đảm cam kết mức tăng trưởng lượng hạn ngạch hàng năm là
5% kể từ khi gia nhập.
- Ban hành Quyết định mới của Bộ Tài chính về sửa đổi mức thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi của một số mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi phù hợp với cam kết
WTO.
- Ban hành văn bản để đẩy mạnh thực hiện các dạng hỗ trợ chính của chính sách
"hộp xanh", như hỗ trợ bảo hiểm rủi ro thiên tai cho nông nghiệp; chương trình tổng thể
hỗ trợ vùng núi, vùng sâu, vùng xa phát triển nông nghiệp và nông thôn, chương trình
quốc gia hỗ trợ đầu tư cho trồng cây lâu năm, xây dựng nhà máy bảo quản, chế biến nông
– lâm sản phù hợp với quy định của WTO.
- Ban hành Nghị định của Chính phủ quy định tổng thể về kiểm dịch động, thực
vật, bao gồm cả kiểm dịch thuỷ sản nhằm đảm bảo thống nhất về các biện pháp áp dụng
và xử lý khi tiến hành kiểm dịch động, thực vật;
- Ban hành mới Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật số 41/2013/QH13 được Quốc
Hội thông qua ngày 25/11/2013 và bắt đầu có hiệu lực kề từ ngày 01/01/2015; Nghị định
số 116/2014/NĐ-CP ngày 04/12/2014 qui định chi tiết môt số điều của Luật Bảo vệ và

kiểm dịch thực vật và các Thông tư hướng dẫn theo hướng quy định cụ thể hơn việc lấy
các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế làm cơ sở cho việc áp dụng các biện
pháp kiểm dịch động, thực vật và chấp nhận biện pháp kiểm dịch tương đương, trong đó
có quy định về về việc có thể áp dụng các biện pháp kiểm dịch động, thực vật khi nhập
khẩu vào Việt Nam cao hơn nhưng phải dựa trên cơ sở khoa học và mức độ cần thiết bảo
HV: Phan Mạnh Trà

Page 16


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

vệ cuộc sống, sức khoẻ con người, môi trường ,ví dụ như: Thông tư số 33/2014/TTBNNPTNT ngày 30/10/2014 về việc trình tự, thủ tục kiểm dịch thực vật nhập khẩu, xuất
khẩu, quá cảnh và sau nhập khẩu; Thông tư số 30/2014/TT-BNNPTNT ngày 5/09/2014
về việc danh mục vật thể phải kiểm dịch thực vật ; tiếp tục tham gia các tổ chức quốc tế
liên quan đến kiểm dịch động, thực vật, vệ sinh thú y..., tham gia hoặc ký kết các hiệp
định, thoả thuận quốc tế về công nhận và thừa nhận lẫn nhau về kiểm dịch động, thực vật.
- Sửa đổi, bổ sung Quyết định số 15/2006/QĐ-BNN vì hiện nay quy định về động
vật, sản phẩm động vật nhập khẩu đã có Giấy chứng nhận kiểm dịch của nước xuất khẩu
còn ở mức chặt hơn so với cam kết theo hướng chấp nhận Giấy chứng nhận kiểm dịch
của nước xuất khẩu nếu nước xuất khẩu áp dụng các biện pháp kiểm dịch động vật phù
hợp với tiêu chuẩn và khuyến nghị quốc tế.
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005, số 98/2005/NĐCP ngày 11/7/2005 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về Chống bán phá giá số 20/2004/PLUBTVQH11 ngày 29/4/2004 và Pháp lệnh Chống trợ cấp số 2 2/2004/PL-UBTVQH11
ngày 20/8/2004 hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam theo hướng quy định chi tiết việc
thực hiện điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá/chống trợ cấp đối với hàng
hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam; xây dựng các Bảng câu hỏi điều tra mẫu, các
Bản hướng dẫn về thủ tục hành chính cụ thể áp dụng cho cơ quan có thẩm quyền điều tra
và các chủ thể liên quan.

- Ban hành quy định có hiệu lực pháp lý cao (ví dụ Luật) ghi nhận và đưa ra đảm
bảo đối với nguyên tắc bãi bỏ, không duy trì, không ban hành mới không thực thi và
không tổ chức thực hiện các chính sách hay quy định pháp luật về trợ cấp diện bị WTO
cấm (nếu cần); Ban hành quy định về cơ chế kiểm soát các văn bản pháp luật ban hành
mới để đảm bảo các văn bản này không chứa các quy định về trợ cấp bị WTO cấm (có
thể dưới hình thức một tiêu chí về nội dung để thẩm định các văn bản pháp luật trong quá
trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung).

3.3. Một số giải pháp, kiến nghị với nhà nước để lĩnh vực nông nghiệp ngày
càng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
HV: Phan Mạnh Trà

Page 17


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

Về hệ thống chính sách pháp luật
Gia nhập WTO sẽ đòi hỏi hiện đại hóa hệ thống hành chính và pháp luật của Việt
Nam nhằm phù hợp với các tiêu chuẩn quôc tế, khuyến khích các hoạt động kinh doanh
trong và ngoài nước, cự thể như: Luật thương mại. Luật đầu tư, Luật bảo vệ và kiểm dịch
thực vật. Ngoài ra ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn kịp thời, tránh chồng
chéo, theo hướng thông thoáng khuyến khích đầu tư, xuất khẩu sản phẩm.
Về hỗ trợ, ưu đãi các dự án FDI trong nông nghiệp.
- Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ hiện hành đối với các dự án đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí về khuyến khích xuất khẩu và
ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước.
- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ như: cho nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư phát

triển nguồn nguyên liệu nông sản phục vụ công nghiệp chế biến; hỗ trợ các hoạt động
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông
sản…
- Tiếp tục áp dụng biện pháp ưu đãi thuế thu nhập đối với các dự án đầu tư ứng
dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Hướng dẫn kênh hỗ trợ vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án FDI trong lĩnh vực
nông nghiệp từ Ngân hàng phát triển để tạo nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp
FDI đang triển khai một số dự án đầu tư tạo giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu…
- Áp dụng cơ chế bảo lãnh, thế chấp để doanh nghiệp FDI có dự án đầu tư vào lĩnh
vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được tiếp cận thuận lợi.
- Có chính sách trợ cấp cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn
thất vì thiên tai, bị rủi ro về biến động giá thị trường nông sản.
Về công tác quy hoạch

HV: Phan Mạnh Trà

Page 18


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

- Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng
ngành, từng sản phẩm theo hướng gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển
đặt ra trong Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2015-2020 định hướng
2030 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như định hướng thu hút, sử dụng
vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Căn cứ các quy hoạch nói trên, các ngành, địa phương
cần xây dựng các Danh mục dự án ưu tiên gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục

tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương
trình vận động đầu tư.
- Chính quyền địa phương chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu nông sản cho nhà
đầu tư gắn với các hình thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ nông dân sang nhà đầu
tư. Bố trí vốn ngân sách hoặc các nguồn vay ODA của Việt Nam để đầu tư giải phóng
mặt bằng tại các vùng dự án triển khai.
Về đất đai, mặt nước.
- Mở rộng và đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong việc chuyển giao quyền
sử dụng đất cho nhà đầu tư, đi đôi với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định theo quy
hoạch của nhà đầu tư. Áp dụng hình thức kết hợp giữa nhà đầu tư và nông dân để đầu tư
triển khai dự án: người nông dân góp đất đai và sức lao động, nhà đầu tư bỏ vốn và công
nghệ.
- Từng địa phương tiến hành quy hoạch lại việc sử dụng các loại đất của các dự án
FDI trong nông nghiệp và xác định kế hoạch sử dụng đất lâu dài cho từng dự án.
Về phát triển vùng nguyên liệu.
- Ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn dưới hình thức cho nhà đầu tư FDI vay để xây
dựng các hạng kết cấu hạ tầng cứng và mềm cần thiết và sử dụng lâu dài tại vùng nguyên
liệu.
- Cung cấp tín dụng ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp vào
cây trồng để tạo vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu kinh doanh có hiệu quả.

HV: Phan Mạnh Trà

Page 19


Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị


- Chính quyền tỉnh và các huyện có vùng nguyên liệu của dự án FDI có trách nhiệm
bảo vệ và duy trì các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho dự án FDI để đảm bảo cung cấp
đầy đủ nguyên liệu tập trung cho nhà đầu tư.
- Xác định quyền và trách nhiệm cho nhà đầu tư trong việc đưa ra các biện pháp bảo
vệ vùng nguyên liệu của họ.
Về phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
- Nhà nước cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động
làm việc cho các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, chuyển giao
kỹ thuật, kiến thức kinh tế và kiến thức về thị trường cho người lao động tại chỗ, trong đó
có lao động làm việc cho FDI.
- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc hỗ trợ các nhà đầu
tư FDI tiếp cận người dân, gia đình những người làm việc cho FDI để tạo sự hiểu biết,
chia sẻ và hiểu biết lẫn nhau, qua đó phát triển nguồn nhân lực địa phương nói chung và
nguồn nhân lực làm việc cho FDI.
Về công tác Xúc tiến đầu tư
- Tăng cường, nâng cao hiệu quả vận động, xúc tiến FDI. Ngành nông nghiệp cần
phát triển một hệ thống quản lý và xúc tiến FDI đối với các doanh nghiệp nước ngoài
đang hoạt động ở Việt Nam cũng như các nước vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào
nông nghiệp, quảng bá hình ảnh nông nghiệp Việt trong mắt bạn bè thế giới.
- Cần coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án
ĐTNN đã được cấp Giấy phép đầu tư (xúc tiến đầu tư tại chỗ) là một biện pháp tốt nhất
để để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn
và cạnh tranh của ĐTNN trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam. Các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần chủ động nâng cao năng
lực hoạt động của mình, tích cực tham gia chương trình xúc tiến đầu tư của ngành, chú
HV: Phan Mạnh Trà

Page 20



Tác động của việc gia nhập WTO trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam

GHVD:T.S Trần Huỳnh Thanh Nghị

trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu. Những giải pháp này cần được thực hiện
thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn nói chung.

HV: Phan Mạnh Trà

Page 21



×