Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

chính sách khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội nhật bản từ năm 1973 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.28 KB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
−−−−

BÁO CÁO KHOA HỌC SINH VIÊN

CHÍNH SÁCH KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRONG VIỆC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NHẬT BẢN TỪ NĂM
1973 ĐẾN NĂM 1991

Sinh viên thực hiện: Đỗ Gia Hùng
Lớp: K58_Lịch sử CLC
GV hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Dũng

HÀ NỘI - 2015


Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy TS.
Nguyễn Mạnh Dũng, người đã hướng dẫn, quan tâm, giúp đỡ rất tận tình để em có
thể hoàn thành bài nghiên cứu khoa học cấp độ sinh viên này.
Em cũng xin bày tỏ lời cám ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt là các thầy, cô Bộ môn Lịch sử Thế giới - Khoa
Lịch sử đã giảng dạy cho em những kiến thức, kỹ năng để có thể vận dụng trong
quá trình thực hiện.
Em xin được gửi lời cám ơn các thầy, cô giáo, cán bộ thư viện Đại học Quốc
gia Hà Nội, Phòng tư liệu Khoa Lịch Sử, Thư viện Quốc Gia đã giúp đỡ để em có
nguồn tư liệu khai thác, hoàn thành bài báo cáo khoa học của mình.
Do lượng kiến thức và quá trình tìm hiểu tư liệu còn hạn chế nên bài viết
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo, rút


kinh nghiệm của các thầy, cô!
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 18 tháng 3 năm 2015
Sinh viên
Đỗ Gia Hùng


Mục lục


Phần mở đầu
1. Mục tiêu và lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, xã hội loài người đã trải qua ba làn sóng văn minh lớn, đó là
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp (hay
văn minh thông tin). Để đánh giá trình độ văn minh của một quốc gia hay một khu
vưc, người ta có thể dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, song yếu tố quan trọng nhất
để phân biệt giữa các trình độ văn minh chính là vai trò của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ. Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đã có lịch sử hàng nghìn năm, từ
phương Đông tới phương Tây, từ những sáng chế kỹ thuật của văn minh Trung
Hoa tới những lý thuyết khoa học của người Hy Lạp thời cổ đại. Ngày nay, nhờ có
những bước tiến lớn trong khoa học và công nghệ hiện đại, nhân loại đang bước
sang một trình độ văn minh mới, thường được gọi với nhiều cái tên như nền “văn
minh thông tin”, văn minh “hậu công nghiệp”, văn minh “trí tuệ”…
Thế kỷ XX, đặc biệt là từ những năm 70 trở về sau, thế giới đã chứng kiến
những thay đổi vô cùng mau lẹ của công nghệ mới. Nó đi vào mọi ngóc ngách của
đời sống kinh tế - xã hội và chi phối sức mạnh, vị thế của mỗi quốc gia. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc ưu tiên phát triển kinh tế, áp dụng những thành
tựu mới nhất của khoa học, công nghệ hiện đại là nhu cầu tất yếu khách quan của
mọi quốc gia trên thế giới. Các cường quốc về khoa học – công nghệ hiện đại ngày

nay như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh… cũng đều là các cường quốc lớn trên thế
giới về kinh tế, tài chính và quân sự.
Trong số đó, Nhật Bản là lá cờ đầu của châu Á đi tiên phong trong lĩnh vực
khoa học – công nghệ hiện đại có thể sánh vai với các cường quốc phương Tây.
Ngày nay, Nhật Bản vẫn thường được gọi với những cái tên hoa mỹ như “đất nước
4


của robot”, “đất nước của công nghệ”. Nhưng để đạt tới trình độ phát triển cao như
ngày hôm nay, Nhật Bản đã phải trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử. Người
Nhật đã xây dựng lại đất nước của mình từ một đống tro tàn của chiến tranh thành
một siêu cường hàng đầu thế giới về kinh tế và công nghệ. Lý giải sự thành công
của Nhật Bản đến từ nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố quyết định hàng đầu là
chính phủ đã chú trọng, đề ra chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho áp dụng
những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, đem lại thành công cho
nền kinh tế và giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Trong những năm 1973 –
1991, dù gặp phải những yếu tố bất lợi của tình hình quốc tế và khu vực, song với
những đối sách phát triển hợp lý trong và ngoài nước, Nhật Bản tiếp tục vươn lên
trở thành một trong ba trung tâm kinh tế và khoa học – công nghệ của thế giới.
Nhận thức được điều đó, tác giả lựa chọn: “Chính sách khoa học - công nghệ
trong việc phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991” làm đề
tài nghiên cứu khoa học cấp sinh viên.
Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản ngày càng trở nên mật thiết và toàn diện.
Nhu cầu tìm hiểu về đất nước, con người Nhật Bản ngày một lớn hơn trong những
người dân Việt Nam nói chung và các nhà nghiên cứu, các học sinh sinh viên nói
riêng. Các ngành khoa học đều có đối tượng mà mục tiêu nghiên cứu khác nhau.
Khoa học lịch sử, trong đó Khoa lịch sử của trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (Trường Đại học Tổng hợp cũ) là một trung tâm nghiên cứu học
thuật hàng đầu cả nước. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cụ thể,
trước kia các nhà khoa học lịch sử Việt Nam mới tập trung nghiên cứu về lịch sử

chính trị, lịch sử chiến tranh mà các vấn đề khác của sử học chưa được quan tâm
đúng mức, trong đó lịch sử khoa học, kỹ thuật vẫn còn là một “khoảng trống” trong
nhận thức của nhiều người dân Việt Nam.

5


Trong xu thế mới đi lên của đất nước, tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa của Việt Nam đang đứng trước nhiều, khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, là nước
“đi sau”, Việt nam có thể học hỏi từ các quốc gia đi trước để có thể đúc rút những
bài học kinh nghiệm, “đi tắt đón đầu”, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia. Ở châu Á, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi những kinh nghiệm phát
triển của Nhật Bản, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong việc đề ra chính sách và
các biện pháp thực hiện, áp dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ vào
phát triển đất nước.
Với những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, báo cáo khoa học với đề tài
“Chính sách khoa học - công nghệ trong việc phát triển kinh tế - xã hội Nhật
Bản từ năm 1973 đến năm 1991”, tác giả hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ
vào xu hướng nghiên cứu mới trong sử học Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chủ đề về khoa học – công nghệ đã được nhiều học giả, các tổ chức chuyên
môn quan tâm và nhiều công trình khoa học đã được công bố. Tùy theo từng lĩnh
vực cụ thể mà các nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề theo các góc độ khác nhau.
Khi nghiên cứu các chính sách khoa học và công nghệ của Nhật Bản, sẽ là
thiếu sót rất lớn nếu chúng ta bỏ qua công trình “Lịch sử chính sách khoa học và
công nghệ Nhật Bản” được biên soạn bởi Ủy ban Lịch sử Chính sách Khoa học và
Công nghệ Nhật Bản dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Keijiro Inoue. Đây là cuốn sách
đã mô tả lại và phân tích các chính sách khoa học, công nghệ mà Nhật Bản đã thực
hiện, đặc biệt là thời kỳ từ sau thế chiến thứ hai đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
trước. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian xuất bản (năm 1991 ra bản tiếng

Anh) nên công trình này không liên hệ được hiệu quả của những chính sách đó

6


(nhất là thập kỷ 70 - 80) đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội Nhật Bản
hiện nay.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đề cập tới chủ đề này qua nhiều lăng kính
khác nhau như ở góc độ kinh tế, xã hội, môi trường, quan hệ quốc tế…. Đặc biệt,
quá trình cất cánh của nền kinh tế Nhật Bản thường được các nhà khoa học giải
thích gắn với vai trò của khoa học kỹ thuật như một nhân tố hàng đầu. Đó là các
tác phẩm: “Nhật Bản, đường đi tới một siêu cường kinh tế” của hai tác giả Lê
Văn Sang và Lưu Ngọc Trịnh xuất bản năm 1998, hay như cuốn sách rất nổi tiếng:
“Tại sao Nhật Bản thành công? Kỹ thuật phương Tây và tính cách Nhật Bản”
của ngài Michio Morishima công bố năm 1995.
Kinh nghiệm thành công của Nhật Bản cũng được khai thác nhiều, chẳng
hạn như “Kinh nghiệm công nghiệp hóa của Nhật Bản và sự thích dụng của nó
đối với các nền kinh tế đang phát triển” của cặp tác giả Kazushi Okawa và
Hirohisa Kohama, “Kinh nghiệm cải cách kinh tế của Nhật Bản” do Juro
Teranishi và Yutaka Kosai (đồng chủ biên) cũng đề cập đến kinh nghiệm nhập
khẩu công nghệ của Nhật Bản chủ yếu thời kỳ phát triển nhanh thập kỷ 60.
Đây chỉ là một số ít ỏi trong số rất nhiều công trình đề cập tới chủ đề khoa
học công nghệ của Nhật Bản. Tuy nhiên, nhìn chung thì mỗi tác phẩm thường chỉ
đề cập tới một lĩnh vực nội dung trong một khoảng thời gian nhất định, nên không
thể đáp ứng được các vấn đề mới mà khoa học hiện nay đặt ra. Kế thừa từ những
giá trị khoa học của các học giả đi trước và đối sánh với tình hình thực tế hiện nay,
tác giả lựa chọn đề tài “Chính sách khoa học - công nghệ trong việc phát triển
kinh tế - xã hội Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991” với mong muốn tìm hiểu,
nghiên cứu sự chuyển biến của đường lối chính sách khoa học – công nghệ trong
thập kỷ 60 sang những năm đầu thập niên 90, những đóng góp của nó đối với nền

kinh tế - xã hội Nhật Bản và rút ra một vài kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.
7


3. Nguồn tài liệu
Trong bài viết, tác giả sử dụng các tài liệu nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản
bằng tiếng Việt của các nhà khoa học trong nước. Tài liệu của các học giả nước
ngoài đã được dịch ra tiếng Việt. Do trình độ ngoại ngữ chưa cho phép nên tác giả
không khai thác được tài liệu tiếng Nhật. Các học liệu khác bằng tiếng Anh được
tham khảo chủ yếu để lấy số liệu.
Ngoài ra, nguồn thông tin trên mạng Internet cũng được sử dụng để tham
khảo, bổ sung kiến thức không tìm thấy được trong những tài liệu mà tác giả hiện
có và lấy hình ảnh minh họa.
4. Phương pháp nghiên cứu
-Trong bài viết, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương
pháp logic. Trong đó, phương pháp lịch sử là chủ yếu.
-Ngoài ra, báo cáo còn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, đối chiếu, so
sánh…các số liệu, các nội dung lịch sử.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về chính sách khoa học
và công nghệ ở Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991.
-Phạm vi nghiên cứu: tác giả lựa chọn phạm vi thời gian từ năm 1973 đến
năm 1991. Năm 1973 mở đầu cuộc khủng hoảng “dầu lửa”, đánh dấu sự đi xuống
của nền kinh tế thế giới nói chung và Nhật Bản nói riêng, nhu cầu mới giải quyết
các vấn đề về kinh tế - xã hội kéo theo sự thay đổi trong đường lối chính sách phát
triển khoa học – công nghệ. Năm 1991 là sự kiện quan trọng trong quan hệ quốc tế,
riêng Nhật Bản thập niên 90 rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng nên các chính
sách khoa học – công nghệ cũng sẽ có sự thay đổi lớn. Xen giữa hai mốc thời gian
8



này là thời kỳ công nghệ Nhật Bản có nhiều bước tiến lớn vượt bậc. Việc nghiên
cứu môi trường chính sách được xem là cần thiết.
Phạm vi không gian: xét trong trường hợp Nhật Bản
6. Bố cục báo cáo
Kết cấu của bài báo cáo khoa học gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1973.
Trong chương này tác giả trình bày khái quát về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Nhật Bản dẫn tới sự thay đổi chính sách khoa học công nghệ trong những năm 70.
80 của thế kỷ XX.
Chương 2: Chính sách phát triển khoa học - công nghệ từ năm 1973 đến năm
1991.
Trong chương này, tác giả sẽ đi mô tả chi tiết những chính sách cụ thể của Chính
phủ, Hội đồng Khoa học Công nghệ Nhật Bản trong việc phát triển khoa học –
công nghệ từ năm 1973-1991.
Chương 3: Đóng góp của chính sách khoa học – công nghệ đến sự phát triển
kinh tế và xã hội.
Những đóng góp của khoa học – công nghệ đối với sự phát triển kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội Nhật Bản sẽ là nội dung chính tác giả trình bày trong
chương này.
Cuối cùng là rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm cho Việt Nam.

9


Chương 1: Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1973
Nhật Bản là một quốc đảo hình vòng cung nằm ở phía Đông của châu Á.
Người Nhật gọi đất nước mình là “Nihon” hay “Nippon”, tức là xứ mặt trời mọc 1.
Tổng diện tích của nước Nhật là 379.954 km 2 với dân số thống kê tháng 7 năm
2010 vào khoảng 127 triệu người, xếp hàng thứ 10 thế giới.

Vị trí địa lý và địa hình là hai yếu tố căn bản quyết định đến các thành phần
tự nhiên khác của nước Nhật. Quốc đảo này nằm trong vùng hoạt động của vành
đai lửa Thái Bình Dương. Nhật Bản chiếm tới 1/10 tổng số núi lửa còn đang hoạt
động trên thế giới. Động đất xảy ra thường xuyên vầ những trận động đất lớn còn
kèm theo cả sóng thần rất nguy hiểm. Địa hình ở Nhật Bản chủ yếu là đồi núi và bị
cắt xẻ. Chỉ có khoảng 15% diện tích đất đồng bằng, là nơi mà những cư dân của
buổi bình minh lịch sử Nhật Bản định cư và sản xuất nông nghiệp. Đổi lại, đất
nước “xứ Phù Tang” có những dòng suối nước nóng và nhiều cảnh đẹp của một địa
hình đa dạng là những nơi hấp dẫn khách du lịch.
Lịch sử Nhật Bản thời kỳ cổ trung đại kéo dài hàng ngàn năm đã khép lại với
sự chấm dứt của kỷ nguyên Tokugawa 2 (1600-1867). Thiên Hoàng Meiji lên ngôi
mở ra một thời kỳ mới, đó là công cuộc Minh Trị Duy Tân (1868-1912) nổi tiếng
đã làm xoay chuyển nước Nhật từ một quốc gia bị đe dọa mất quyền độc lập sang
vị thế ngang hàng với phương Tây, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đóng cửa với
thế giới thì nay đã đứng trong hàng ngũ các nước đế quốc hùng mạnh. Lúc bấy giờ,
sự thành công của Nhât Bản là niềm mơ ước của nhiều dân tộc khác, trong đó có
1 Tên “Nhật Bản” được Marco Polo (nhà du lịch người Italia thế kỷ XIII) phiên âm là Cipango (Xipango). Do người
Nhật bản đọc chệch âm Quảng Đông “Nhật Bản quốc” thành “Gipen quốc” nên chuyển sang tiếng Anh và Đức là
Japan và tiếng Pháp là Japon. Lưu Ngọc Trịnh: Kinh tế Nhật Bản: Những bước thăng trầm lịch sử. NXB Thống kê,
Hà Nội, 1998, tr.6.
2 Còn gọi là thời Edo. Ngoài cách phân kỳ theo văn hóa, ví dụ: Văn hóa Jomon, văn hóa Yayoi, Asuka…các nhà
nghiên cứu còn gọi tên các thời kỳ lịch sử Nhật Bản ứng với tên thành phố làm trung tâm quyền lực quốc gia như
thời Nara (710-794), thời Heian (794-1185), thời Kamakura (1185-1333), thời Muromachi (1336-1573) và thời Edo.

10


Việt Nam. Chiến thắng trước một tên đế quốc phương Tây sừng sỏ là nước Nga
khiến cho tiếng vang của người Nhật càng thêm dậy sóng, thế giới nhìn vào sự
thành công của “chú lùn châu Á” này với con mắt cả sự ngưỡng mộ lẫn đố kị.

Đã có rất nhiều nghiên cứu về công cuộc cải cách Minh Trị và giải thích sự
thành công của nó, xét trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và
khoa học - kỹ thuật. Trong đó, một trong những nhân tố khiến Nhật Bản bứt phá
lên được khỏi vòng xoáy của chủ nghĩa thực dân đe đọa nền độc lập của nước này
chính là chính phủ đã đặt mối quan tâm và ưu tiên chính sách cho phát triển khoa
học - kỹ thuật và dụng dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói thì dù rằng
trước đó, nhà Tokugawa đã để lại những di sản rất lớn về mặt khoa học và kỹ thuật
cho kỷ nguyên Minh Trị về sau, song nó vẫn còn là khoảng cách xa vời nếu đem ra
so sánh với trình độ văn minh phương Tây hồi đó.
Trước năm 1945, thế giới đã phải chứng kiến, trải qua biết bao sự biến
chuyển mang tính bước ngoặt. Hai cuộc đại chiến thế giới xảy ra trong vòng chưa
đầy nửa thế kỷ, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã dẫn tới những hệ
quả khôn lường trong quan hệ quốc tế sau đó. Trong bối cảnh chung, nhu cầu cho
phát triển kinh tế và chạy đua vũ trang phục vụ công nghiệp quân sự, các loại vũ
khí có thể làm thay đổi cục diện triên chiến trường, chính vì những nguyên nhân đó
mà các quốc gia nhận thức được hơn bao giờ hết vai trò quan trọng của khoa học
và công nghệ. Đối với trường hợp Nhật Bản, dựa trên những điều kiện cụ thể trong
nước và bối cảnh quốc tế, chính phủ nước này đã có nhiều biện pháp và đề ra
những chính sách thúc đẩy sự phát triển hoạt động khoa học công nghệ. Trong
khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX, do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan mà
các chính sách cho phát triển khoa học công nghệ của Nhật Bản bao gồm những
điểm lớn như sau:

11


Một là: Thực hiện các chính sách thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ.
Chính phủ trợ cấp kinh phí cho các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công
nghệ, mở rộng bậc giáo dục đại học và cải cách hệ thống giáo dục, thành lập thêm
các viện nghiên cứu3.

Hai là: thúc đẩy sản xuất trong nước bằng biện pháp ban hành chính sách
thúc đẩy phát triển công nghiệp, sản xuất hàng công nghiệp trong nước, lập ra các
tiêu chuẩn đo lường và các sản phẩm công nghiệp.
Ba là: thúc đẩy phát triển công nghiệp quân sự. Luật động viên công nghiệp
quân sự được thông qua năm 1918 và Luật động viên quốc gia công bố năm 1938
huy động nghiên cứu trên toàn quốc. Nhật Bản tiến hành “động viên khoa học”
khuyến khích nghiên cứu khoa học trong tất cả các lĩnh vực cần thiết cho động
viên quốc gia. Tuy nhiên, thực tế chỉ có những sắc lệnh về nghiên cứu cho các
ngành quan trọng phục vụ quân sự được ban hành như công nghiệp ô tô, máy bay
và hóa chất.
Các chính sách phát triển khoa học công nghệ của chính phủ Nhật Bản đã có
nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế và phát triển quân sự. Tuy nhiên, càng
về giai đoạn sau của thế chiến thứ hai, trong khi phương Tây có nhiều biến chuyển
mau lẹ trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, thì Nhật Bản dường như bị tụt lại về
công nghệ so với thế giới và đây cũng là nguyên nhân giải thích cho thất bại của
chủ nghĩa phát xít Nhật.
Bước ra khỏi chiến tranh, là một nước bại trận, Nhật Bản đã phải gánh chịu
hậu quả nặng nề của của chiến tranh. Số người Nhật chết vì chiến tranh kể từ khi
3 Trong đó việc thành lập viện nghiên cứu Vật lý và Hóa học (1917) là sự kiện quan trọng nhất. Viện đã đạt được
một loạt thành tựu với việc năm 1945 đã công bố 2004 luận án bằng tiếng Nhật và 1164 luận án bằng tiếng Anh,
cùng một số lớn sáng chế, 800 sáng chế cấp quốc gia và 200 sáng chế cấp quốc tế. Xem Ủy ban Lịch sử Chính sách
Khoa học và Công nghệ: Lịch sử chính sách khoa học và công nghệ Nhật Bản. NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2004,
tr. 51.

12


chiến tranh Trung – Nhật chính thức bắt đầu (1937), tính cả thường dân có trên 3
triệu. Những cuộc oanh tạc của không quân Hoa Kỳ đã đốt cháy khoảng 60% nhà
cửa ở hai thành phố Tokyo và Osaka, và 20% nhà cửa trên toàn quốc. Mức sản

xuất công nghiệp của Nhật chỉ còn tương đương với 10% so với thời kỳ trước
chiến tranh. Nông nghiệp cũng bị đình trệ vì thiếu dụng cụ, phân bón và người
canh tác. Thêm vào đó, vì mất các đất thuộc địa – một nguồn cung cấp lương thực
lớn của Nhật trong thời chiến tranh – lương thực bị thiếu hụt trầm trọng, đặc biệt ở
thành phố4. Không chỉ thiệt hại nặng nề về mặt vật chất và sản xuất kinh tế, nước
Nhật đến nay còn chịu cảnh bị quân đội nước ngoài chiếm đóng lần đầu tiên trong
lịch sử quốc đảo này. Thất bại trong chiến tranh cộng thêm sự hiện diện của quân
đội Mỹ khiến tâm lý người dân trên quần đảo vốn được coi là “niềm tự hào châu
Á” nay trở nên lo sợ, hoang mang và tủi nhục hơn bao giờ hết.
Ấy vậy mà, từ một đống tro tàn sau chiến tranh, với quyết tâm đã thua trong
chiến tranh thì phải thắng lợi trong kinh tế, người Nhật đã hăng say lao động sản
xuất với quyết tâm nỗ lực cao nhất, nền kinh tế Nhật Bản đã chuyển mình một cách
kinh ngạc khiến thế giới phải gọi bằng nhiều thuật ngữ như “dị thường”, “thần kỳ”.
Nếu như bước ra khỏi cuộc chiến “Đại Đông Á” cho tới năm 1952, nền kinh tế
Nhật Bản mới phục hồi nền kinh tế đạt mức trước chiến tranh. Nhưng cuối thập
niên 60 đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã vươn lên trở thành một siêu
cường kinh tế thứ hai thế giới tư bản chủ nghĩa (sau Mỹ). Sự chuyển mình của nền
kinh tế Nhật Bản thời kỳ hậu chiến tới những năm đầu thập niên 70 đã thu hút mối
quan tâm đặc biệt của toàn thế giới, nó giống như một Nhật Bản “dị biệt” so với
thế giới phương Đông thời kỳ Minh Trị. Các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã tốn rất
nhiều giấy mực để lý giải sự thành công của “thần kỳ” Nhật Bản những năm 60
đầu 70 bằng nhiều hướng tiếp cận, trên nhiều bình diện và góc độ khác nhau, cả
4 Vĩnh Sính (1990), Nhật Bản cận đại, Văn Hóa Tùng Thư, tr.250.

13


nguyên nhân bên trong và điều kiện quốc tế thuận lợi thời đoạn này. Một trong
những nguyên nhân đã khiến nền kinh tế quốc đảo này cất cánh sau chiến tranh,
đặc biệt bùng phát vào thập kỷ 60 là do chính phủ đã có những chính sách phù hợp

tiếp thu, áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại vào Nhật Bản. Để
các chính sách khoa học – công nghệ của chính phủ phát huy tác dụng, Nhật Bản
cần có những điều kiện căn bản về các mặt chính trị, kinh tế và xã hội đáp ứng
thích hợp. Dưới đây là hoàn cảnh thực tiễn nước Nhật Bản thời hậu chiến tới
những năm bùng nổ ở thập kỷ 60, 70 và hiệu quả của các chính sách cho phát triển
khoa hoc – công nghệ đối với người dân xứ “mặt trời mọc”.
Về chính trị: Như đã trình bày ở phần trên, sau chiến tranh, Nhật Bản phải
chịu sự đóng quân của quân đội Đồng minh, cụ thể là Mỹ. Tuy nhiên, tưởng như sẽ
có một sự thù địch của quân Mỹ với người dân Nhật Bản thì ngược lại, những hành
động chính trị trên đất Nhật Bản được xem là khá khoan hồng. Dưới sự chỉ đạo của
Bộ chỉ huy các lực lượng Đồng minh (SCAP), Nhật Bản đã xóa bỏ bộ máy phát xít
và tiến hành các biện pháp dân chủ hóa. Đây là những bước đi đầu tiên đặt nền
tảng cho sự phát triển của Nhật Bản sau này. Nhìn chung, nền chính trị ở Nhật Bản
tương đối ổn định, đây là điều kiện thuận lợi cho chính phủ vạch ra các chính sách
tập trung cho phát triển kinh tế và độc lập về công nghệ trong những năm thập niên
60 đầu 70.
Cuối năm 1960, Nội các Ikeda Hayato đề ra kế hoạch “Nhân đôi thu nhập”
làm nguyên tắc chỉ đạo cho chính sách kinh tế quốc gia. Để thực hiện mục tiêu
tăng gấp đôi tổng sản phẩm quốc nội GNP lên gấp 2 lần trong vòng 10 năm tới,
chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ một mặt duy trì tốc độ tăng trưởng
cao của nền kinh tế, mặt khác cố gắng phát huy tiềm năng năng lực của con người
và thúc đẩy khoa học – công nghệ là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao tư

14


bản xã hội, phát triển một cơ cấu công nghiệp trình độ cao, hợp tác kinh tế quốc tế
và duy trì ổn định xã hội.
Về kinh tế: các chính sách của chính phủ, nỗ lực của toàn dân tộc Nhật Bản
và quốc tế thuận lợi là điều kiện tiên quyết đưa nền kinh tế Nhật Bản cất cánh. Sau

khi phục hồi nền kinh tế đạt mức sản xuất trước chiến tranh (1951), Nhật bản bước
vào giai đoạn phát triển “thần kỳ” (1960-1973). Trong thập niên 60, tổng sản phẩm
quốc dân tăng trung bình hàng năm 10%. Các năm 1970-1973, tuy tốc độ có giảm
đôi chút song vẫn đạt 7,8%, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1968,
Nhật Bản vượt Tây Đức vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tư bản
(sau Mỹ). Năm 1973, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản đạt khoảng 360 tỷ
đôla, tuy vẫn còn nhỏ hơn Mỹ , song sự chênh lệch đã thu hẹp lại chỉ còn 1/35.
Cơ cấu các ngành công nghiệp chính thời kỳ tăng trưởng cao tập trung ở
công nghiệp dân dụng (máy thu hình màu, máy điều hòa, tủ lạnh, máy giặt…),
công nghiệp sản xuất ô tô (tới năm 1969 đã có hãng sản xuất chiếc xe thứ một
triệu), công nghiệp đóng tàu, công nghiệp gang – thép, công nghiệp năng lượng
(nhiệt điện đóng vai trò quan trọng hàng đầu)…Các ngành công nghiệp này đáp
ứng tốc độ phát triển mau lẹ của nền kinh tế theo chiều rộng, lúc này cần rất nhiều
nguồn nguyên nhiên liệu nhập từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu của người dân trong
nước.
Về xã hội: Những năm đầu sau chiến tranh, đời sống nhân dân Nhật Bản gặp
rất nhiều khó khăn và thiếu thốn. Lạm phát bùng nổ, số người thất nghiệp đã lên
tới quá năm triệu và hàng loạt các cuộc bãi công của công nhân. Mọi người đã sẵn
sàng bắt tay vào công cuộc khôi phục nền kinh tế - xã hội Nhật Bản. Đời sống
nhân dân đã dần tốt lên cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Mức sống
5 Xem: Lưu Ngọc Trịnh: Kinh tế Nhật Bản: Những bước thăng trầm trong lịch sử. NXB Thống kê, Hà Nội, 1998,
tr.187.

15


của người dân đã có những thay đổi to lớn, từ những nhu cầu tối thiểu cho cuộc
sống về ăn, ở…thì sau năm 1955 nhiều loại đồ điện gia dụng đã bắt đầu xuất hiện.
Máy giặt, tủ lạnh và máy hút bụi được coi như ba loại đồ quý (ba biểu tượng
Hoàng gia) của mọi gia đình Nhật Bản thời kỳ này.Từ năm 1965 trở đi, máy điều

hòa không khí, máy thu hình màu và xe hơi trờ thành ba tài sản quý mới và là biểu
tượng cho sự phồn vinh Nhật Bản. Điều này phản ánh sự chuyển biến căn bản
trong đòi sống dân chúng: từ nhu cầu được sống, nay người ta đã có nhu cầu hưởng
thụ sự phong phú về của cải vật chất. Quy luật xã hội luôn xoay chuyển, đã có cầu
thì ắt phải có cung, các ngành công nghiệp Nhật Bản nhanh chóng đầu tư sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu, áp dụng những thành tựu mới nhất về khoa học – công nghệ
đáp ứng những đòi hỏi về đời sống vật chất tăng lên không ngừng.
Thập kỷ 60 là thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao và điều kiện sống được cải
thiện đáng kể. Nhưng thập kỷ này, Nhật Bản chuẩn bị trở thành một cường quốc
kinh tế và phải đi theo con đường tự do hóa, quốc tế hóa nền kinh tế của mình,
đồng thời đáp ứng được đòi hỏi của các nước khác là nới lỏng nhập khẩu. Trong
việc tự do hóa kinh tế, Nhật Bản phải đương đầu với tình trạng thua kém về công
nghệ, sự chênh lệch tiềm lực về tiềm lực khoa học – công nghệ với các nước
phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Một đặc điểm quan trọng trong sự phát triển của công
nghệ Nhật Bản trước khi bước sang thập kỷ 60, đó là vừa tiến hành nhập khẩu vừa
cải tiến công nghệ. Điều này giống như con dao hai lưỡi, một mặt nó tạo hiệu quả
lớn trong kinh tế, song mặt khác, nó dẫn tới sự phụ thuộc của Nhật bản vào công
nghệ nước ngoài và vô hình chung làm giảm tính sáng tạo ra công nghệ mới. Bước
sang những năm 60 của thế kỷ XX, trình độ năng lực công nghệ của Nhật Bản đã
“độc lập” hơn so với thòi kỳ “nhập khẩu công nghệ nước ngoài” trước đó để tạo ra
các sản phẩm giá thành hạ, chất lượng cao và đủ sức cạnh tranh quốc tế.

16


Tuy nhiên, bước sang những năm của thập niên 70, 80, tình hình trong nước
và quốc tế có nhiều biến chuyển quan trọng buộc chính phủ Nhật Bản phải đề ra
những đường lối chính sách mới cho phát triển khoa học – công nghệ phù hợp
thích ứng với điều kiện thực tiễn.
Bối cảnh quốc tế thời kỳ này rất phức tạp. Năm 1971, “Cú sốc Nixon” do

Tổng thống Mỹ Richard Nixon thực hiện là một biện pháp kinh tế đánh vào các
nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu và Nhật Bản. Hai năm sau, cuộc khủng hoảng dầu
lửa một lần nữa giáng một đòn mạnh vào hệ thống kinh tế thế giới. Các quốc gia
trên thế giới nhận thấy điểm yếu trầm trọng của mình khi phải dựa quá nhiều vào
nguồn năng lượng dầu mỏ và buộc phải tìm kiếm các nguồn năng lượng mới thay
thế. Xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ không chỉ về mặt kinh tế mà
còn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống khiến các nước tự hiểu rằng cần phải tiếp
tục vươn lên, khẳng định sức mạnh vị thế quốc gia nếu không sẽ bị tụt lại so với
thế giới.
Ở tình hình trong nước, Nhật Bản gặp nhiều vấn đề lớn cần giải quyết. Cuộc
khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã bộc lộ điểm yếu căn bản của nền kinh tế, đó là
sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên, nhiên liệu từ bên ngoài. Nền kinh tế
hướng xuất ngoại của Nhật Bản đã gặp vấn đề lớn khi khủng hoảng kinh tế thế giới
diễn ra. Các nước không có nhu cầu về nhập hàng hóa nữa dẫn tới sự ngưng trệ
trong sản xuất. Thị trường trong nước với kỷ nguyên hàng hóa dân dụng như tủ
lạnh, máy giặt…cứ bán ra đến đâu là hết hàng tới đó thì nay đã bão hòa tới 90%.
Người dân đáp ứng đầy đủ về mặt vật chất và chuyển hướng sang những nhu cầu
mới về tinh thần như hiểu biết tri thức mới, tìm kiếm thông tin mới, giải trí và các
nhu cầu phúc lợi xã hội khác. Tốc độ phát triển kinh tế quá “nóng” của Nhật Bản
thập niên 60 đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề song mức độ quan
tâm đến vấn đề này chưa sâu sắc.
17


Trước tình hình đó, chính phủ nhận thức được rằng buộc phải ưu tiên thúc
đẩy phát triển những công nghệ mới nhằm giải quyết vấn đề về năng lượng,
chuyển đổi cơ cấu công nghiệp, cải tiến hệ thống sản xuất, nạn ô nhiễm môi trường
và đảm bảo phúc lợi xã hội. Trong giai đoạn phát triển công nghệ theo đuổi những
giá trị mới những năm 1973-1991, Nhật Bản đã có những bước tiến dài và đạt
thành tựu to lớn về nhiều lĩnh vực kinh tế, khoa học – công nghệ và môi trường.

Những thành tựu đó không thể thiếu đi vai trò của nhà nước, chính phủ Nhật Bản
ban hành những chính sách, biện pháp cụ thể cho phát triển lĩnh vực khoa học –
công nghệ. Chương hai và chương ba kế tiếp sẽ đi trình bày cụ thể các chính sách
của chính phủ cho phát triển khoa học – công nghệ và những đóng góp của nó đối
với nền kinh tế, xã hội Nhật Bản giai đoạn 1973-1991.

18


Chương 2: Chính sách phát triển khoa học – công nghệ từ năm 1973 đến 1991
Trước hết, chúng ta cần có cái nhìn tổng quan về tiến trình phát triển của lịch
sử khoa học – kỹ thuật và vai trò của nó đối với thế giới nói chung. Có nhiều cách
phân kỳ khác nhau, chẳng hạn Bertrand Gilles, Pierre Ducasse và một số tác giả
khác phân chia lịch sử kỹ thuật thành 4 thời kỳ lớn: thời kỳ Cổ đại, kết thúc bằng
sự tan rã của đế quốc Lã Mã ở thế kỷ 5 sau Công nguyên, thời kỳ trung đại từ thế
kỷ 6 đến thế kỷ 15, thời kỳ Phục hưng và cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 16 đến
giữa thế kỷ 20 và thời kỳ cách mạng công nghệ đương đại từ giữa thế kỷ 20 đến
nay vẫn còn đang tiếp diễn6. Người ta chú ý nhiều hơn tới vai trò to lớn của cách
mạng về kỹ thuật giữa thế kỷ XVIII và công nghệ nửa sau thế kỷ XX. Bởi vì, chỉ
trong vòng hơn hai thế kỷ, nhờ sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ,
thế giới đã chuyển mình nhanh chóng từ nền văn minh nông nghiệp sang văn minh
công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh thông tin)7.
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, “khoa học tự thân nó không trở thành hiện thực, nếu
như thiếu những con người có khả năng tiếp thu, vận dụng chúng vào thực tiễn.
Việc tạo ra năng lực nội sinh của khoa học – công nghệ gắn bó với các vấn đề khác
như nâng cao dân trí, giáo dục – đào tạo ra con người có tri thức để tiếp thu, cải
biến khoa học – công nghệ, chính sách phát triển…”8.
6 Dẫn theo Hoàng Đình Phu: Lịch sử kỹ thuật và cách mạng công nghệ đương đại, NXB khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, 1997, tr.4.

7 Vào những năm 60 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất xuất hiện đầu tiên ở nước Anh,
người ta thường gọi đây là cuộc cách mạng cơ khí hóa nền kinh tế với biểu tượng là chiếc máy hơi nước. Cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhân loại bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai với đặc điểm nổi bật là nền
công nghiệp được “điện khí hóa” nhờ máy phát điện và dầu mỏ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần ba (hay cách
mạng về khoa học và công nghệ) được bắt đầu từ những năm 40 (thế kỷ XX) đầu tiên ở nước Mỹ, sau năm 1973 do
tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ, thế giới bước vào giai đoạn bùng nổ về mặt công nghệ, vật liệu bán dẫn và
máy tính điện tử là biểu tượng cho thời kỳ này.

19


Để phát triển được năng lực khoa học và công nghệ của mỗi quốc gia, các
nước đều phải dựa vào sự quyết định của các nhân tố cơ bản. Đó là: vai trò của nhà
nước trong việc hoạch định các chính sách đúng đắn, hợp lý và đưa các đường lối
chính sách vào thực tiễn; việc triển khai có hiệu quả những thành tựu khoa học –
công nghệ vào sản xuất và đời sống; cuối cùng là nhu cầu xã hội, hay những điều
kiện cụ thể mà xã hội cho phép nó tồn tại và phát triển. Từ đó có thể thấy, vai trò
của nhà nước trong việc hoạch định các chính sách, đề ra mục tiêu và những biện
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học – công nghệ là vô cùng quan trọng
và có ý nghĩa quyết định hàng đầu tới trình độ công nghệ của mỗi quốc gia.
Trước khi đi vào tìm hiểu, phân tích các chính sách khoa học – công nghệ,
việc nắm rõ các khái niệm căn bản được xem là cần thiết. Trước hết, chính sách có
thể hiểu là đường lối cụ thể của một chính Đảng hoặc một chủ thể quyền lực về
một lĩnh vực nhất định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy. Cấu
trúc của chính sách gồm có đường lối cụ thể (nhằm thực hiện đường lối chung),
biện pháp và kế hoạch thực hiện.
Khái niệm về khoa học có nhiều cách hiểu khác nhau. Khoa học là hệ thống
những tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những
qui luật của tự nhiên , xã hội, tư duy. Hay, khoa học cũng là một hoạt động xã hội
nhằm tìm tòi, phát hiện qui luật của sự vật và hiện tượng và vận dụng các quy luật

ấy để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp tác động vào các sự vật và hiện tượng
nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ gồm có
bốn phần: Phần kỹ thuật, phần thông tin, phần con người và phần tổ chức. Khái
8 Trần Hồng Lưu: Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay. NXB Chính trị Quốc gia – sự thật, 2011, tr. 103.

20


niệm công nghệ hiện được dùng không chỉ trong công nghiệp mà đã thâm nhập vào
hàng loạt bộ môn khoa học và lĩnh vực hoạt động khác nhau như: công nghệ dạy
học, công nghệ quản lý, công nghệ kiểm tra... Sự khác biệt lớn nhất giữa công nghệ
với kỹ thuật nằm ở phần thông tin. Những công nghệ càng phức tạp thì khối lượng
thông tin càng lớn.
Vậy, chính sách khoa học – công nghệ là những đường lối, chủ trương, biện
pháp của Nhà nước nhằm phát triển lĩnh vực khoa học – công nghệ, phục vụ nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như đã trình bày ở phần trên, do đặc điểm của tình hình quốc tế và trong
nước có nhiều chuyển biến mau lẹ, chính phủ Nhật Bản buộc phải thay đổi những
đường lối, chính sách của mình cho phù hợp với hoàn cảnh mới, trong đó có lĩnh
vực khoa học và công nghệ. Nhật Bản dành mối quan tâm đặc biệt tới sự phát triển
của khoa học – công nghệ, coi đây là trụ cột quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề khác của xã hội và môi trường trong giai đoạn
từ năm 1973 đến năm 1991, tức sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ tới khi Nhật Bản
đánh mất “mười năm cuối cùng của thế kỷ XX”.
I. Tiến hành xây dựng và thực thi chính sách khoa học – công nghệ dựa
trên kế hoạch phát triển dài hạn.
Việc đặt ra các mục tiêu dài hạn là một biện pháp quan trọng để hoạch định

các chính sách kinh tế và phát triển quốc gia. Các mục tiêu này là cơ sở vững chắc
cho việc áp dụng một cách có hệ thống, có mục đích các biện pháp khác nhau của
chính phủ như trợ cấp, các chương trình đầu tư và cho vay của chính phủ, thuế và
chỉ đạo hành chính.
Các chính sách phản ánh quan điểm tương lai về khoa học và công nghệ
được thực hiện trên cơ sở các báo cáo của Hội đồng Khoa học Công nghệ (thành
21


lập tháng 2 năm 1959). Các báo cáo trình bày quan điểm của Hội đồng về phương
hướng phát triển của khoa học công nghệ, nội dung thay đổi tùy từng giai đoạn
phát triển cụ thể.
Báo cáo do Hội đồng Khoa học và Công nghệ đệ trình năm 1971, khuyến
nghị số 5 về: “Những nguyên tắc cơ bản của chính sách khoa học công nghệ toàn
diện toàn diện cho những năm 1970”, là nòng cốt của tất cả các chính sách ban
hành trong những năm 1970 để thúc đẩy khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh
các vấn đề môi trường xảy ra ngày càng nghiêm trọng,, Hồi đồng đưa ra những ý
tưởng cơ bản như đánh giá công nghệ, nghiên cứu và phát triển theo mục tiêu, phát
triển các lĩnh vực khoa học môi trường, phần mềm và khoa học về sự sống. Báo
cáo cũng nêu rõ các yêu cầu tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển Nhật Bản lên
3% thu nhập quốc dân. Hội đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của các lĩnh vực khoa
học công nghệ mới như khoa học và công nghệ môi trường, khoa học mềm và
khoa học về sự sống
Sau khi báo cáo thứ năm được đệ trình, nhiều vấn đề xuất hiện đòi hỏi phải
có các chính sách thúc đẩy mới về khoa học và công nghệ, bao gồm các vấn đề
năng lượng, môi trường, vấn đề kinh tế suy giảm tốc độ tăng trưởng. Vì vậy, Hội
đồng đã đệ trình báo cáo thứ 6 (năm 1977) “Nền tảng của chính sách khoa học và
công nghệ tổng thể của Nhật Bản trên cơ sở triển vọng lâu dài”. Báo cáo tập trung
vào ý nghĩa đặc biệt quan trọng của việc khắc phục vấn đề môi trường nghiêm
trọng đang đe dọa xã hội và nền kinh tế Nhật Bản, để xây dựng một cơ sở vững

chắc cho sự phát triển thịnh vượng của Nhật Bản trong tương lai. Hội đồng định ra
5 lĩnh vực cho phát triển khoa học công nghệ sau đây:
- Khoa học và công nghệ nhằm khắc phục vấn đề cạn kiệt tài nguyên đang bị
đe dọa.

22


- Khoa học và công nghệ để giải quyết các vấn đề môi trường và an toàn, tạo
ra môi trường sống mong muốn
- Khoa học và công nghệ nhằm bảo đảm và tăng cường sức khỏe nhân dân
- Khoa học và công nghệ mũi nhọn và cơ bản
- Khoa học và công nghệ để thúc đẩy sự phối hợp và hợp tác quốc tế nhằm
duy trì khả năng cạnh tranh của Nhật Bản trên thị trường quốc tế.9
Trong những năm sau khi báo cáo số 6 được trình bày, khoa học và công
nghệ đã tiến bộ trên các lĩnh vực khác nhau, môi trường khoa học và công nghệ đã
trải qua một sự biến đổi mạnh mẽ do những thay đổi trong cơ cấu công nghiệp, bởi
sự đình đốn của nền kinh tế thế giới, sự trưởng thành và già đi của xã hội Nhật
Bản. Hội đồng đã đệ trình lên Thủ tướng báo cáo khuyến nghị thứ 11 năm 1984, đề
xuất các biện pháp cơ bản cẩn thực hiện trong 10 năm để thúc đẩy khoa học và
công nghệ. Trong đó, Hội đồng nhấn mạnh một số điểm chính như sau: thúc đẩy
khoa học và công nghệ sáng tạo; phát triển cân đối khoa học và công nghệ hài hòa
với tiến bộ xã hội; phát triển khoa học công nghệ trên quan điểm quốc tế rộng lớn;
đầu tư cho nghiên cứu tương đương 3,5% thu nhập quốc dân.
Nói tóm lại, với những đóng góp cụ thể, Hội đồng khoa học và công nghệ là
cơ quan chuyên môn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp chính phủ
hoạch định và ban hành các chính sách về lĩnh vực khoa học – công nghệ.
II. Những thay đổi trong chính sách thúc đẩy phát triển khoa học và
công nghệ thể hiện trong đầu tư cho nghiên cứu và triển khai.
Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) của Nhật Bản chỉ chiếm 0,3-0,5%

thu nhập quốc dân trong những năm cuối thập kỷ 40. Sau đó, theo đà tiến nhanh
9 Ủy ban Lịch sử Chính sách Khoa học và Công nghệ: Lịch sử chính sách khoa học và công nghệ Nhật Bản. NXB
Lao động xã hội, Hà Nội 2004, tr.212.

23


của tốc độ phát triển kinh tế, đầu tư R&D của Nhật Bản lên tới 2% năm 1970,
2,4% năm 1980 và 3,2% năm 1985.
Bảng 1: Những thay đổi trong tổng đầu tư cho R&D (các khoa học tự nhiên)
(Từ năm 1970 đến năm 198710)
Năm

1970
1975
1980
1985
1987

Tổng đầu Ngân sách
tư cho
chính phủ
R&D (a) cho
R&D(b)
11.953
3.014
26.218
7.208
46.838
12.096

81.164
15.740
90.162
17.983

Thu nhập
quốc dân
(GNP)(c)

Đầu tư
R&D/GNP
(a)/(c) (%)

Tỷ lệ ngân sách
trong đầu tư
R&D (b)/(a) (%)

610.297
1.239.907
1.993.352
2.545.192
2.740.767

2.0
2.1
2.4
3.2
3.3

25.2

27.5
25.8
19.4
19.9

Theo như dữ liệu có ở bảng trên, tổng đẩu tư cho R&D từ năm 1970 đến
năm 1987 liên tục tăng và nhanh, giá trị chi ngân sách của chính phủ cho R&D
cũng tăng song tốc độ tăng chậm và tỷ lệ trong ngân sách đầu tư của chính phủ cho
hoạt động R&D thậm chí còn giảm đi từ năm 1980, xuống dưới 20%. Những con
số chỉ ra nghiên cứu triển khai của chính phủ giảm không đồng nghĩa với việc nhà
nước không đóng vai trò quan trọng trong hoạt động R&D của Nhật Bản. Điều này
được lý giải bởi bối cảnh thực tiễn trong và ngoài nước lúc đó cũng như các chính
sách điều chỉnh của chính phủ.
Do tác động của cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973 đã tác động mạnh đến động
lực đầu tư R&D của khu vực tư nhân, cộng thêm tình trạng kinh tế - xã hội của
Nhật Bản đang xấu đi, Hội đồng Khoa học Công nghệ Nhật Bản đã đệ trình bản
10 (a(, (b), (c): đơn vị: 100 triệu Yên
-Tổng đầu tư cho nghiên cứu và triển khai dựa trên “Những vấn đề trong công cuộc tái thiết nền kinh tế Nhật Bản”,
Cục nghiên cứu, Bộ Ngoại giao, năm 1984. “Điều tra nghiên cứu khoa học và công nghệ” của Cục Thống kê Văn
phòng Thủ tướng (từ năm 1984 là Cục thống kê của Cơ quan Quản lý và Điều phối) năm 1960 và sau đó.
-Thu nhập quốc dân dựa trên : “Tổng khảo sát nền kỹ thuật Nhật Bản” của Cục kế hoạch kinh tế.
Dẫn theo Ủy ban Lịch sử Chính sách Khoa học và Công nghệ: Sdd. tr.222.

24


Khuyến nghị thứ 6. Mục tiêu mới là phát triển năng lượng thay thế và công nghệ
có khả năng thích nghi cao, an toàn. Bản khuyến nghị gợi ra một số ý tưởng căn
bản, đó là:
-


Có sự phát triển hài hòa giữa xã hội với khoa học và công nghệ
Tăng cường khả năng đối phó với khủng hoảng và biến đổi
Đầu tư cho nghiên cứu tương đương 2,5% (về lâu dài là 3%) thu nhập
quốc dân.

Hội đồng đề xuất một số chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, bao
gồm cấp kinh phí và thúc đẩy các hoạt động R&D liên quan tới các vấn đề tài
nguyên, môi trường và an toàn, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát
triển của khu vực tư nhân bao gồm cho hưởng chế độ hưởng thuế ưu đãi và các
biện pháp tài chính, các chế độ ủy thác nghiên cứu và tiến hành một số kế hoạch
tăng dần đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lên 3% thu nhập quốc dân.
Theo các chính sách này, chính phủ đã tiếp tục tích cực trợ giúp cho các hoạt
động nghiên cứu và phát triển liên quan đến năng lượng và thúc đẩy hợp tác giữa
công nghiệp – viện nghiên cứu – chính phủ thông qua hệ thống Quỹ phối hợp đặc
biệt để thúc đẩy khoa học công nghệ và Dự án nghiên cứu phát triển các công nghệ
cơ bản cho công nghiệp tương lai (bắt đầu năm 1981). Ngân hàng phát triển Nhật
Bản cũng tăng cường chế độ tài trợ liên quan đến thúc đẩy công nghệ, con số tài
trợ thực sự đạt 129 tỷ yên trong tài khóa 1978. Nhờ các nỗ lực của chính phủ và
khu vực tư nhân, tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tăng đều và đạt 3% năm
1984, qua đó đạt mục tiêu như đã đề ra trước đó của Hội đồng Khoa học Công
nghệ.
Tuy nhiên, những thay đổi này chủ yếu do sự đầu tư của khu vực tư nhân đối
với hoạt động R&D. Vì trong bối cảnh hai cuộc khủng hoảng dầu lửa thập niên 70,
chính phủ buộc phải ưu tiên chính sách tài chính vực dậy nền kinh tế nên tổng chi
25


×