Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề tài " Luận chứng chủ trương phát triển khoa học và công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là những Quốc sách hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.64 KB, 16 trang )


Đề tài
" Luận chứng chủ trương phát
triển khoa học và công nghệ cùng
với giáo dục đào tạo là những Quốc
sách hàng đầu để thực hiện thành
công sự nghiệp Công nghiệp hoá,
hiện đại hóa ở Việt Nam”
1
1
MỤC LỤC
2
2
LỜI MỞ Đ ẦU
Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Với cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, khoa học và công nghệ
đã trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Trong bối cảnh ấy, sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa nhà nước đòi hỏi phải không ngừng nâng cao
chất lượng đào tạo. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã bước vào giai đoạn
phát triển cao của khoa học và công nghệ, còn nước ta vẫn ở trong tình trạng
khá lạc hậu, chưa ứng dụng được nhiều thành tựu của nền khoa học và công
nghệ tiên tiến. Để nước ta có thể rút ngắn được khoảng cách đối với các
nước tiên tiến, có thể đi tắt, đi nhanh, đón đầu, tiến thẳng lên trình độ hiện
đại, để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế, hội nhập được vào một
thế giới đầy biến động có nhiều thời cơ, nhưng cũng lắm nguy cơ, thử thách,
chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật được đào tạo
tốt. Do đó, vai trò của khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo là vô cùng
to lớn.
Trên tinh thần đó, để hiểu rõ vai trò của khoa học và công nghệ, giáo dục


và đào tạo đối với sự phát triển của đất nước, em đã chọn đề tài: “Luận
chứng chủ trương phát triển khoa học và công nghệ cùng với giáo dục đào
tạo là những Quốc sách hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam” để làm tiểu luận môn triết học.


3
3
NỘI DUNG
I. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng và
Nhà nước Việt Nam
1.Khái quát về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1. Khái niệm
Ở thế kỉ XVII, XVIII khi Cách mạng công nghiệp được tiến hành ở
Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Khái niệm công nghiệp mang tính lịch sử,
tức là luôn có sự thay đổi cung với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của
khoa học – công nghệ. Kế thừa và chọn lọc những tri thức văn minh của
nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa,
và từ thực tiễn công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, Ban chấp
hành Trung ương lần thứ bảy khoá VI và Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ
VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
quá trinh chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
1.2. Đặc điểm
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của
đất nước, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay có những đặc điểm sau chủ

yếu sau đây:
Thứ nhất, Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đ ại hóa.
Thứ hai, Công nghiệp hóa nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Thứ ba, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước.
4
4
Thứ tư, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các các quan
hệ kinh tế quốc là tất yếu đối với đất nước ta.
Công nghiệp hóa trong đ iều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi
nhanh hơn nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới
và sự giúp đỡ quốc tế. Công nghiệp hóa trong điều kiện “chiến lược” kinh tế
mở cũng gây nên không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh
tế thế giới, do “trật tự” của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản phát triển
thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế
độc lập, tự chủ.
1.3. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc
trên cơ sở vật chất - kỉ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỉ thuật của một xã
hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù
hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng
để nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và
phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải xây
dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và
công nghệ. Cơ sở vật chất – kĩ thuật đó phải tạo ra được một năng suất xã

hội cao. Công nghiệp hóa chính quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất đó
cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
1.4. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nược ta là xây
dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa
học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản
xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu
tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta được
5
5
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng
định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển … Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”
1.5. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ thập niên 60 của thế kỉ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối công nghiệp hóa và coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm
xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá sẽ có tác dụng to lớn trong sự phát
triển kinh tế - hội của đất nước, đó là:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực
hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện
vật chất kỉ thuật cần thiết về con người và khoa học – công nghệ, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo cơ sở vật chất đ ể làm biến đổi
về chất của lực lượng sản xuất.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và phát
triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đ ó mà thực hiện tốt sự
phân công và hợp tác quốc tế.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao
động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiền đề vật chất để xây dựng,
phát triển và hiện đại hóa nền quốc phòng – an ninh.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát
triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá – xã hội, quốc phòng – an ninh.
6
6
2. Nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta
trong những năm trước mắt
- Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn
- Phát triển công nghiệp và xây dựng
- Cải tạo và mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết
cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế
- Phát triển nhanh du lịch và các ngành dịch vụ
- Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
II. Nội dung của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo nguyên tắc xác định “ Khoa học và công nghệ cùng với
giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu ”.
1.Về khoa học và công nghệ

Khoa học xã hội và nhân văn hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý
luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định đướng lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã
hội, xây dựng con người. Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các
vấn đề thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực
công nghệ trọng điểm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai. Khoa học công nghệ hướng vào
việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc
gia. Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính
nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ với
sản xuất, kinh doanh, quản lý dịch vụ. Coi trọng việc nghiên cứu cơ bản
trong các ngành khoa học. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực
khác cho khoa học và công nghệ. Hoàn thành xây dựng những khu công
nghệ cao và hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Sắp xếp lại và
đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu
7
7
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật với khoa học xã hội và nhân văn. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện
tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học có
công trình nghiên cứu xuất sắc.
2. Về giáo dục và đào tạo
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực
hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy
nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn
thiện học vấn và tay nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân
bằng những hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục
cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Thực hiện phương

châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với đời sống xã hội”. Chăm lo phát triển giáo dục mầm non;
củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đẩy nhanh tiến
độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục,
đào tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hoá một số trường dạy
nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội.
Khuyến khích phát triển hệ thống các trường, lớp dạy nghề dân lập và tư
thục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về
chất lượng và hiệu quả đào tạo. Từng bước xúc tiến việc nối mạng thông tin
quốc tế (Internet) ở trường học.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người
nghèo có cơ hội học tập. Tăng ngân sách Nhà nước cho việc cử người đi đào
tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc
du học tự túc. Trong những năm trước mắt, giải quyết dứt điểm những vấn
đề bức xúc: sửa đổi chương trình đào tạo, cải tiến chế độ thi cử, khắc phục
khuynh hướng “thương mại hoá” giáo dục, quản lý chặt chẽ việc cấp văn
bằng, công nhận học hàm, học vị; chấn chỉnh công tác quản lý hệ thống
trường học cả công lập và ngoài công lập.
8
8
3. Vai trò của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đối
với sự phát triển của đất nước
Là một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém
phát triển nên tiềm lực khoa học và công nghệ, giáo dục và đ ào tạo của nước
ta còn yếu. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa thành công thì
phải xây dựng một tiềm lực khoa học và công nghệ, một nguồn lực thích
ứng với đòi hỏi của công nghiệp hóa. Để có một nền khoa học và công
nghệ, một nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đ ại
hóa thì phải coi việc đầu tư cho khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo
là một trong những hướng chính của đ ầu tư phát triển, khoa học công nghệ

cùng với giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
4. Những giải pháp để thực hiện chiến lược
4.1. Về khoa học và công nghệ
Một là, xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, đặc biệt trong
các doanh nghiệp. Gắn với nhiệm vụ này, cần đẩy mạnh các hoạt động tư
vấn, môi giới, dịch vụ về khoa học-công nghệ để phát triển thị trường công
nghệ. Chuẩn bị ngay việc xây dựng các văn bản hướng dẫn để sớm thực thi
có hiệu quả Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ sau khi được
Quốc hội thông qua. Xây dựng phát triển các trung tâm giao dịch khoa học-
công nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước.
Hai là, đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho khoa
học-công nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học-công nghệ và
thúc đẩy đầu tư của toàn xã hội cho đổi mới công nghệ để có thể đạt mức
1,5% GDP vào năm 2010. Chú ý tập trung đầu tư cho con người để phát
triển tài sản trí tuệ của đất nước và xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt
để phát triển tiềm lực khoa học-công nghệ.
Ba là, xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế về khoa học-công nghệ để
lĩnh vực này có đủ năng lực phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã hội,
giải quyết được các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế;
nhanh chóng củng cố và mở rộng mạng lưới đại diện khoa học-công nghệ ở
9
9
nước ngoài. Tạo điều kiện để các viện nghiên cứu hàng đầu của khu vực và
thế giới có chi nhánh nghiên cứu tại Việt Nam.
Bốn là, cần có các giải pháp để sớm hình thành các tập thể khoa học
và công nghệ mạnh với đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình
sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề có trình độ khu vực và quốc tế, đủ
sức hoàn thành các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế.
Đầu tư có trọng điểm để xây dựng một số viện nghiên cứu đạt trình độ quốc

tế.
4.1. Về giáo dục và đào tạo
Một là, chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục
mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục,
liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học
tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng
nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho
người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
Khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm
túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông bảo đảm tính khoa
học, cơ bản, phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết
hợp việc tổ chức phân ban với tự chọn ở trung học phổ thông trên cơ sở làm
tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ trung học cơ sở. Bảo đảm đúng
tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục.
Ba là, bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
tất cả các cấp học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ
một chiều. Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.
Cải tiến nội dung và phương pháp thi cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp
thu tri thức, khả năng học tập. Khắc phục những mặt yếu kém và tiêu cực
trong giáo dục.
Bốn là, thực hiện xã hội hoá giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và
trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ
giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành
10
10
viên trong xã hội. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động
giáo dục.

Năm là, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và
sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục. Nhà nước tăng
đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát
triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo; thực hiện việc miễn giảm đóng góp và cấp học bổng cho
học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh giỏi.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận
chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của
Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới. Có cơ chế quản lý
phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo.
III. Cơ sở lí luận cho quan điểm
1. Lí luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác
1.1. Những cơ sở xuất phát dể phân tích đời sống xã hội
- Xã hội dưới bất kỳ hình thức nào cũng là sự liên hệ và tác động giữa
người và người.
- Nhu cầu và lợi ích là động lực thúc đẫy con người họat động trong
suốt lịch sử của mình.
- Cá nhân là thực thể của xã hội.
- Đời sống xã hội có tính chất thực tiễn. Xã hội không ngừng hoạt
động để sản xuất và tái sản xuất vì mục đích tồn tại. Cấu trúc sản xuất xã hội
gồm:
+ Con người
+ Của cải vật chất
+ Quan hệ xã hội
+ Năng lực tinh thần, trí tuệ
11
11
- Hai lọai quan hệ cơ bản trong nền sản xuất xã hội (phương thức sản
xuất):
+ Quan hệ kinh tế - kỹ thuật (lực lượng sản xuất): cách thức, năng lực,

trình độ con người đạt được trong quá trình tác động vào thế giới tự nhiên để
tạo ra sản phẩm
+ Quan hệ kinh tế - xã hội (quan hệ sản xuất): cách giải quyết vấn đề
lợi ích kinh tế, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, trao
đổi, tiêu dùng.
 Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nằm trong thể thống
nhất của hai mặt đối lập nhau để cùng phát triển. Lực lượng sản xuất giữa
vai trò quyết định, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lựu lượng sản xuất. Sự thống nhất này không ngừng tự phát sinh và tự
giải quyết
- Lịch sử là quá trình họat động của con người. Họat động lịch sử bao
gồm yếu tố khách quan và chủ quan. Nếu thừa nhận tính bị qui định mà
không giải thích được tính khách quan -> quan niệm định mệnh lịch sử.
- Các quan hệ cần quan tâm :
+ xã hội và ý thức xã hội (Mác: “Sự tồn tại xã hôi quyết định ý thức
con người”. điều kiện khách quan -> nhu cầu )
+ điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
+ qui luật lịch sử và họat động có ý thức của con người
+ tất yếu và tự do
+ tự phát và tự giác trong quá trình phát triển lịch sử. (Qui luật xã hội
là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lặp đi lặp lại của những quá trình,
hiện tượng đời sống xã hội, đặc trựng cho khuynh hướng phát triển xã hội từ
thấp đến cao. Khi chưa nhận thức qui luật, con người hành động tự phát. Khi
đã nhận thức qui luật và những điều kiện họat động của chúng (tất yếu) thì
con người điều khiển họat động của mình phù hợp với yêu cầu của qui luật
một cách tự giác)
12
12
- Quan niệm duy vật về lịch sử đòi hỏi giải thích tác động của con
người đối với tiến trình lịch sử một cách khoa học. Hay nói cách khác, xem

xét nhu cầu khách quan của sự xuất hiện mục đích và những điều kiện hiện
thực để thực hiện mục đích đó.
1.2. Bốn lĩnh vực của cấu trúc xã hội
- Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội (quan hệ sản xuất, quan hệ kinh
tế giữ vai trò cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác) bao gồm các phạm
trù : phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Lĩnh vực xã hội (quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp – quan
hệ giai cấp đóng vai trò chi phối). Gốm các phạm trù : giai cấp, đấu tranh
giai cấp, kết cấu giai cấp.
- Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội (tổ chức và thiết chế quyền
lực, hệ thống luật pháp và tư tưởng chính trị). Bao gồm các phạm trù: cơ sở
hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, qui luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
- Lĩnh vực tinh thấn của đời sống xã hội. Quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, vai trò ý thức xã hội trong quá trình phát triển xã hội.
2. Lực lượng sản xuất trong lí luận hình thái kinh tế - xã hội
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. trong quá trình sản xuất, con người kết hợp
sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động
tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho
cuộc sống của mình.
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của
con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực lượng sản xuất là
sự kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, trong đó “lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết
13
13

là công cụ lao đ ộng, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải
vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, đóng vai trò trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”, nó
“nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ
lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích
luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kĩ thuật, công cụ lao
động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn
thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch
sử.
3.Vai trò của khoa học – công nghệ, giáo dục - đào tạo đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò vô
cùng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến
mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, khi mà
công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí
sản xuất… tức là nói đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá, hiệu quả của
sản xuất, kinh doanh. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không
còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói:
khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện
đại.
Bên cạnh đó, người lao động - lực lượng sản xuất hàng đầu - không
những được nâng cao trình độ văn hoá và khoa học – công nghệ mà còn
phải đ ược trang bị cả cơ sở vật chất – kĩ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả

của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó. Để
tạo ra một lực lượng sản xuất tiến bộ, việc phát huy vai trò nhân tố con
14
14
người, đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm tất yếu. Giáo dục và đào tạo
càng trở nên quan trọng hơn trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.
IV.Kết luận
“Đảng và Nhà nước luôn coi sự nghiệp phát triển khoa học và công
nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để thực hiện “mục tiêu trực
tiếp” này, chúng ta phải có được một lực lượng sản xuất đạt trình độ phát
triển cao, một cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại dựa trên sự phát triển mạnh
mẽ với tốc độ ngày càng tăng của khoa học và công nghệ hiện đại; phải
“tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con
người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng
và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở
từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế – xã hội”. Có thể
khẳng định rằng, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra tại Đại hội X không chỉ là
sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới trong nhận
thức của Đảng ta về đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả những định hướng trên sẽ
giúp cho nước ta trở thành một nước có nền kinh tế - chính trị phát triển
ngang tầm với khu vực và thế giới.
15
15
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin
3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
4. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
5. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
6. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
7. Báo điện tử http:///
8. Báo điện tử />9. Báo điện tử />10.Báo điện tử http:///
16
16

×