Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tình tiết phạm tội đối với trẻ em trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.33 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỒNG OANH

T×NH TIÕT “PH¹M TéI §èI VíI TRÎ EM”
TRONG PH¸P LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỒNG OANH

T×NH TIÕT “PH¹M TéI §èI VíI TRÎ EM”
TRONG PH¸P LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính
trung thực, chính xác. Những kết quả khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hồng Oanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM” TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM................. 8
1.1.

KHÁI NIỆM TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM”............. 8

1.1.1. Khái quát về đối tượng tác động của tội phạm .................................... 8
1.1.2. Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” trong luật hình sự....................... 11
1.2.


ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” ... 13

1.2.1. Hành vi phạm tội có đối tượng tác động là trẻ em ............................. 13
1.2.2. Phạm tội đối với trẻ em làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, từ đó làm tăng nặng TNHS đối với người
phạm tội .............................................................................................. 19
1.2.3. “Phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết định tội, tình tiết định khung
hình phạt và tình tiết tăng nặng TNHS .............................................. 22
1.3.

TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ..................... 26

1.3.1. Pháp luật hình sự Liên Bang Nga ...................................................... 27
1.3.2. Pháp luật hình sự Trung Quốc ........................................................... 29
1.3.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển .............................................................. 31


Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ
EM” TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................... 33
2.1.

TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................... 33

2.1.1. Tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong PLHS Việt Nam trước
khi BLHS năm 1999 có hiệu lực ........................................................ 33
2.1.2. Tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong PLHS Việt Nam theo
quy định của BLHS năm 1999 ........................................................... 35

2.2.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI
TRẺ EM” ............................................................................................ 49

2.2.1. Số liệu về các vụ án có tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” ............... 49
2.2.2. Một số vụ án điển hình ....................................................................... 54
2.2.3.

Đánh giá thực tiễn áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” ............ 59

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI
VỚI TRẺ EM” TRONG THỰC TIỄN HIỆN NAY ..................... 62
3.1.

SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TÌNH TIẾT “PHẠM
TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM”.................................................................... 62

3.2.

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TÌNH TIẾT
“PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” ..................................................... 64

3.2.1. Tội phạm hóa một số hành vi xâm hại trẻ em .................................... 64
3.2.2. Quy định rõ cấu thành các tội xâm hại trẻ em ................................... 66
3.2.3. Quy định thêm về tình tiết định khung tăng nặng .............................. 70
3.2.4. Quy định về tình tiết tăng nặng TNHS .............................................. 71



3.2.5. Về cách xác định tuổi của trẻ em ....................................................... 72
3.3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TÌNH TIẾT
“PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” ..................................................... 75

3.3.1. Một số giải pháp khác về hoàn thiện chính sách, pháp luật ............... 75
3.3.2. Một số giải pháp về tổ chức thực hiện ............................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

PLHS

: Pháp luật hình sự

TNHS


: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu bảng,
Tên bảng, biểu đồ
Trang
biểu đồ
Bảng 2.1: Số liệu về các vụ án có tình tiết “phạm tội đối với
trẻ em” là tình tiết định tội đã được thụ lý và xét xử
trên cả nước giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014

50

Bảng 2.2: Số liệu về các vụ án có tình tiết “phạm tội đối với
trẻ em” là tình tiết tăng nặng TNHS, tình tiết định
khung hình phạt đã được xét xử trên địa bàn thành
phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014

53

Biểu đồ 2.1: Diễn biến các tội phạm được thực hiện đối với trẻ
em trên phạm vi cả nước giai đoạn 2010- 2014

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn dành tình cảm và sự quan tâm

đặc biệt đối với trẻ em, sự quan tâm của Người bắt nguồn từ tình yêu thương
trẻ em vô hạn, và hơn thế nữa, bắt nguồn từ tầm nhìn xa trông rộng của chiến
lược “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “ngày
nay các cháu là nhi đồng, ngày mai các cháu là người chủ của nước nhà, của
thế giới”... Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ nên trẻ em có
những đặc điểm tâm sinh lý khá đặc thù, dễ bị tổn thương, cần được đặc biệt
quan tâm chăm sóc và bảo vệ.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng phạm tội đối với trẻ em diễn ra ngày
càng gia tăng về số vụ và mức độ nghiêm trọng, trong đó có các tội liên
quan đến tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm…), các tội xâm phạm về tình dục,
các tội xâm phạm về sức khỏe của trẻ em. Điều này đã gây bức xúc, nhức
nhối trong dư luận và để lại nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, vì phạm
tội đối với trẻ em có tính chất đặc biệt hơn so với các trường hợp phạm tội
thông thường khác ở chỗ đối tượng bị xâm hại là trẻ em - những người bị
hạn chế hoặc hoàn toàn không có khả năng, điều kiện tự vệ hoặc bảo vệ
mình. Hành vi xâm hại để lại hậu quả rất nặng nề, nó không chỉ gây tổn hại
đến danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của trẻ mà còn tác động tiêu
cực đến tâm lý và sự phát triển bình thường của các em sau này, nhất là các
em đang ở độ tuổi còn quá nhỏ.
Để ngăn chặn tình trạng phạm tội đối với trẻ em, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp để thực thi trong thực tế, trong đó biện
pháp hình sự là biện pháp nghiêm khắc nhất. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) có quy định về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”. Tình tiết

1


này vừa là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm h khoản 1 Điều
48 thuộc Phần chung của BLHS, vừa là tình tiết định tội hoặc định khung
hình phạt quy định trong một số CTTP ở Phần các tội phạm của Bộ luật này.

Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, vấn đề phạm tội đối với trẻ
em vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, đầy đủ và có hệ
thống. Một loạt các vấn đề cần được làm sáng tỏ dưới góc độ khoa học để từ
đó có thể có một quan điểm thống nhất và đầy đủ, chẳng hạn: khái niệm, đặc
điểm của tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”, lịch sử phát triển của các quy
phạm pháp luật về chế định này, nghiên cứu so sánh PLHS của các nước có
quy định vấn đề “phạm tội đối với trẻ em”…
Thêm vào đó, việc áp dụng vấn đề “phạm tội đối với trẻ em” trong thực
tiễn cũng đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên
cứu, giải quyết, chẳng hạn: điều kiện áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ
em”, tiêu chí đánh giá, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội đối với trẻ em, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết này
trong thực tiễn…
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận
về tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” và sự thể hiện của tình tiết này trong các
quy định của BLHS hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng tình tiết này
trong thực tiễn nhằm đề ra những kiến nghị lập pháp và các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy phạm pháp luật về tình tiết này trong giai đoạn
hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây là lý do chúng tôi quyết định chọn
đề tài “Tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong pháp luật hình sự Việt
Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phạm tội đối với trẻ em đã được một số nhà luật học quan
tâm nghiên cứu ở những mức độ khác nhau, từ những khía cạnh và phương
diện khác nhau.

2


Ở Việt Nam, từ khi BLHS năm 1999 ra đời, đã có nhiều công trình

nghiên cứu về tội phạm và các dấu hiệu trong CTTP của BLHS. Điều này
được thể hiện thông qua một số giáo trình, sách chuyên khảo, bài viết nghiên
cứu như: GS. TSKH. Đào Trí Úc, Sách Luật hình sự Việt Nam (Quyển I)
Những vấn đề chung, NXB Khoa học xã hội được công bố năm 2000; PGS.
TSKH. Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB
Công an nhân dân, năm 2006; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận những tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam,
NXB Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009…
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề
cập đến tội phạm và các tình tiết tăng nặng TNHS như: GS. TSKH. Đào Trí Úc,
Những đảm bảo cần thiết cho việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 01/2001; ThS. Lê Văn Luật- TAND huyện Hướng
Hóa, Quảng Trị, Bàn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội đối
với trẻ em", Tạp chí KHPL số 2(33)/2006; TS. Trịnh Tiến Việt- Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghề luật số 4/2006; Tác giả Đinh Văn Quế, Một
số vấn đề khi áp dụng tình tiết: “Phạm tội đối với trẻ em”; v.v…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã
có một số công trình nghiên cứu về tình tiết phạm tội đối với trẻ em. Tuy
nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các bài viết đăng trên các tạp
chí khoa học pháp lý chuyên ngành, xem xét nội dung của vấn đề này như
khối kiến thức cơ bản của một phần trong các giáo trình giảng dạy, một mục
nhỏ trong sách chuyên khảo mà chưa có công trình nào nghiên cứu tình tiết
“Phạm tội đối với trẻ em” với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS đồng

3



thời là tình tiết định tội danh và định khung hình phạt trong BLHS một cách
có hệ thống, toàn diện. Về nội dung, chưa có công trình nào hệ thống hóa các
vấn đề lý luận về phạm tội đối với trẻ em, nghiên cứu tổng thể lịch sử hình
thành và phát triển của các quy phạm về phạm tội đối với trẻ em từ trước khi
có BLHS năm 1999 đến nay, tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng và
chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng tình tiết này.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”
trong pháp luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, có cả
tính lý luận và thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề
“Phạm tội đối với trẻ em” trong luật Hình sự Việt Nam với tư cách là một tình
tiết tăng nặng TNHS, tình tiết định tội và định khung hình phạt theo luật hình
sự Việt Nam mà theo quan điểm của tác giả là vấn đề cơ bản và quan trọng.
Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu tình tiết “Phạm tội
đối với trẻ em” khi tình tiết này được quy định tại Phần chung và tại một số
điều luật cụ thể tại Phần các tội phạm của BLHS hiện hành, kết hợp với việc
nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng tình tiết này trong thực tiễn xét xử của
Tòa án các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để từ đó
kiến nghị những giải pháp hoàn thiện các quy phạm của pháp luật thực định,
đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết này trong thực tiễn.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết “Phạm tội đối với trẻ
em” trong vòng 05 năm (2010 - 2014) trên phạm vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ

4



nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được
thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh đối chiếu; Phương pháp thống kê,
điều tra, khảo sát thực tế; Phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp để
tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu trong luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp
luật về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” dưới khía cạnh lập pháp hình sự và
áp dụng tình tiết này trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về tình tiết này trong luật hình sự Việt Nam,
đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết này
trong thực tiễn.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
(1) Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về tình tiết
“phạm tội đối với trẻ em”, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề
chung về tình tiết này như: khái niệm, đặc điểm của trẻ em; Khái niệm, đặc
điểm của tình tiết tăng nặng TNHS “Phạm tội đối với trẻ em”; Khái niệm, đặc

5



điểm của tình tiết định tội, định khung hình phạt “Phạm tội đối với trẻ em”;
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc quy định tình tiết “Phạm tội với trẻ em” trong
luật hình sự Việt Nam;
(2) Khái quát lịch sử các quy định của PLHS về tình tiết “Phạm tội đối
với trẻ em” từ trước khi BLHS năm 1985 ra đời cho đến nay, từ đó so sánh
đối chiếu, và rút ra nhận xét, đánh giá;
(3) Nghiên cứu những quy định cụ thể về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ
em” trong BLHS Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của
quy định trong luật thực định cần khắc phục;
(4) Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tình tiết
“Phạm tội đối với trẻ em”, đồng thời phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế
xung quanh việc áp dụng tình tiết này, cũng như những nguyên nhân dẫn đến
tồn tại, hạn chế đó;
(5) Từ đó đề xuất ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy
định của PLHS Việt Nam hiện hành về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”,
đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết này trong thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về lý luận và
thực tiễn, do đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc
sĩ luật học về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”, mà trong đó giải quyết nhiều
vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan đến tình tiết này trong luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
(1) Tổng hợp các quan điểm khoa học về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ
em” để xây dựng nên một khái niệm đảm bảo tính chính xác và khoa học,
đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tình tiết này với tư cách là tình tiết
tăng nặng TNHS, tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;
(2) Nghiên cứu và chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình


6


thành và phát triển của tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong PLHS Việt
Nam từ trước khi BLHS năm 1985 ra đời cho đến nay;
(3) Nghiên cứu, đánh giá, làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng tình tiết “Phạm tội
đối với trẻ em” của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật
và thực tiễn áp dụng tình tiết này, và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó;
(4) Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
ra các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Thêm vào đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ trang bị kiến thức chuyên sâu
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em”
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định về tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của PLHS
và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết “Phạm tội đối với trẻ
em” trong thực tiễn hiện nay.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT
“PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM” TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM”
1.1.1. Khái quát về đối tượng tác động của tội phạm
Trong một xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị luôn xác lập, củng cố
hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và sự thống trị của mình
thông qua Nhà nước và hệ thống pháp luật. “Quan hệ xã hội là những quan
hệ giữa người với người được hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế,
xã hội, chính trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, v.v...” [59]. Các bộ
phận cấu thành của quan hệ xã hội bao gồm: chủ thể của quan hệ xã hội,
khách thể của quan hệ xã hội và nội dung của quan hệ xã hội. Trong đó, chủ
thể của quan hệ xã hội là các bên tham gia quan hệ xã hội, đó có thể là các
cá nhân, nhóm người, các tập đoàn người hoặc toàn bộ xã hội; nội dung của
quan hệ xã hội là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội;
khách thể của quan hệ xã hội là những lợi ích mà các bên tham gia quan hệ
xã hội hướng tới.
“Khách thể của tội phạm có thể được định nghĩa là quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm,
nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt
hại đáng kể nhất định" [6, tr.349]. Một bộ phận quan trọng của khách thể của
tội phạm là đối tượng tác động của tội phạm, để gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm thì hành vi phạm tội phải tác động làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động của tội phạm – các bộ phận cấu thành của
quan hệ xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người với ý
nghĩa là chủ thể của quan hệ xã hội, các đối tượng vật chất với ý nghĩa là


8


khách thể của quan hệ xã hội và cũng có thể là hoạt động bình thường của các
chủ thể. Trong luận văn này, chúng tôi tập trung đề cập đến một loại đối
tượng tác động của tội phạm, đó là con người mà cụ thể là trẻ em – đối tượng
đặc biệt được luật hình sự bảo vệ.
Khi đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, cần dựa trên
một số căn cứ như:
Tầm quan trọng của các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ
(khách thể của tội phạm); hình thức lỗi; hậu quả của tội phạm; công
cụ, phương tiện phạm tội; phương thức, thủ đoạn phạm tội; thời
gian, không gian phạm tội; địa điểm, hoàn cảnh phạm tội; động cơ,
mục đích phạm tội; nhân thân người phạm tội, cũng như tình hình
an ninh trật tự, an toàn xã hội nơi xảy ra sự việc; v.v… [47, tr.75].
Trong đó, tầm quan trọng của các quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ
(khách thể của tội phạm) là một trong những căn cứ có vai trò lớn nhất trong
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội
phạm, để gây thiệt hại cho khách thể thì hành vi phạm tội phải tác động đến đối
tượng tác động của tội phạm. “Có thể định nghĩa đối tượng tác động của tội
phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này
người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ” [5, tr.141]. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ
phận của khách thể của tội phạm, “quan hệ xã hội chỉ có thể bị xâm hại nếu có
sự tác động nào đó lên các bộ phận cấu thành của chúng” [5, tr.140-141] và
những bộ phận đó bao gồm:
1- Các chủ thể của quan hệ xã hội, 2- Hoạt động của các chủ
thể tham gia quan hệ xã hội hay trạng thái của các chủ thể trong

quan hệ xã hội, 3- Các vật, hiện tượng thuộc thế giới khách quan có

9


khả năng thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của con người, liên quan
đến hoạt động của các chủ thể quan hệ xã hội [5, tr.140].
Theo quan điểm trên thì “trẻ em” là một trong các đối tượng tác động
của tội phạm. Đối tượng tác động này là “chủ thể của quan hệ xã hội” nên
ngoài những đặc điểm chung nó còn có những đặc điểm khác về tâm, sinh lý.
Về sinh lý, trẻ em còn ít tuổi (dưới 16 tuổi theo pháp luật Việt Nam, và dưới
18 tuổi theo pháp luật quốc tế), đang ở giai đoạn sinh lý phát triển mạnh mẽ,
cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh. Do đó, có thể nói trẻ em còn khá non yếu
về thể chất, là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương cần được bảo vệ nghiêm
ngặt hơn. Về tâm lý, trẻ em đang ở giai đoạn phát triển hình thành tâm lý, định
hình nhân cách khi trưởng thành. Cụ thể là: (1) hầu hết trẻ em đều có tâm lý
tò mò, thích khám phá những điều mới lạ nên rất cần sự định hướng đúng
đắn, sự chăm sóc, tình yêu thương của gia đình, nhà trường và xã hội; (2) trẻ
em rất thích thể hiện và chứng tỏ bản thân với mọi người xung quanh, nhưng
tâm lý trẻ chưa phát triển vững vàng, dễ bị tổn thương nên rất dễ trở nên mặc
cảm, tự ti, tiêu cực khi thua kém người khác hoặc khi bị tác động bởi các nhân
tố bên ngoài; (3) phần lớn trẻ em đều có tâm hồn ngây thơ, non nớt, có tâm lý
dễ thuận theo và nghe lời người lớn, nên là đối tượng dễ bị lợi dụng; (4) trẻ
em có kiến thức, vốn hiểu biết về xã hội còn hạn chế, khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi còn hạn chế, trẻ chưa nhận thức được hết những mối nguy
hiểm ngoài xã hội nên trẻ chưa đủ khả năng tự bảo vệ bản thân, chưa có sự
phản kháng cần thiết đối với hành vi xâm phạm quyền lợi của mình. Do đó,
trẻ em là đối tượng rất dễ bị kẻ xấu dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo. Tất cả những đặc
điểm trên của trẻ em sẽ khiến cho hành vi phạm tội tác động dễ dàng hơn đến
trẻ em để thông qua đó xâm hại đến các quyền của trẻ em được PLHS bảo vệ.

Người phạm tội sẽ lợi dụng các đặc điểm này của trẻ em để thực hiện tội
phạm và sẽ làm cho hành vi phạm tội được thực hiện dễ dàng hơn, hậu quả
nguy hiểm dễ xảy ra hơn... và điều này làm cho hành vi phạm tội có tính chất
10


và mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội thông thường.
Chính vì lẽ đó, BLHS ở các quốc gia trên thế giới đều có quy định về tình tiết
“phạm tội đối với trẻ em” với tư cách là tình tiết định tội danh, tình tiết định
khung hình phạt tăng nặng và còn có thể là tình tiết tăng nặng TNHS. Chẳng
hạn như BLHS Thụy Điển quy định tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” là tình
tiết định tội tại Điều 1 Chương 4, Điều 4 Chương 6, Điều 3 Chương 7, v.v…;
BLHS Liên Bang Nga quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt
tại điểm c khoản 2 Điều 105, điểm b khoản 2 Điều 111, điểm c khoản 2 Điều
112, điểm c khoản 2 Điều 117, v.v…
1.1.2. Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” trong luật hình sự
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam đang tồn tại một số quan điểm
về khái niệm tình tiết phạm tội đối với trẻ em như sau:
Quan điểm thứ nhất, theo tác giả Đinh Văn Quế: “Phạm tội đối với trẻ
em là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của
pháp luật” [57, đoạn 2].
Quan điểm thứ hai, theo tác giả Lê Văn Luật: “Phạm tội đối với trẻ em
là trường hợp người phạm tội đã có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em theo quy định của
pháp luật” [27, tr.33].
Quan điểm thứ ba, theo tác giả Nguyễn Đức Hà: “Phạm tội đối với trẻ
em là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em” [60, đoạn 1].
Nhìn chung, quan điểm của các tác giả trên đều thể hiện rằng phạm tội

đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Tuy nhiên, giữa các quan điểm trên
cũng có những điểm khác biệt đáng lưu ý. Cụ thể như sau:

11


- Quan điểm thứ nhất và thứ ba đều cho rằng phạm tội đối với trẻ em là
trường hợp người phạm tội xâm hại đến các quyền của trẻ em một cách trực
tiếp. Điều này có thể hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội của người phạm
tội xâm hại đến các quyền của trẻ em bằng cách tác động trực tiếp đến trẻ em
mà không thông qua một nhân tố trung gian nào. Ví dụ, A có hành vi nói xấu
với B (đã thành niên) về C (10 tuổi) khiến cho B nổi giận đánh C gây thương
tích 12%. Như vậy, hành vi nói xấu của A không trực tiếp tác động đến C và
không trực tiếp dẫn đến hậu quả C bị thương, do đó hành vi của A chỉ coi là
đã tác động đến C (trẻ em) một cách gián tiếp thông qua B. Còn hành vi của B
đánh C gây thương tích đã tác động trực tiếp đến C, vì vậy hành vi của B
được coi là thuộc trường hợp phạm tội đối với trẻ em. Do vậy, trong khái
niệm phạm tội đối với trẻ em, cần nêu rõ rằng hành vi phạm tội tác động đến
trẻ em một cách trực tiếp. Quan điểm thứ hai lại không quan niệm như vậy.
- Ở quan điểm thứ ba, phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người
phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Khái niệm này đã giới hạn phạm vi khách thể mà hành vi phạm tội đối với trẻ
em hướng tới chỉ trong khuôn khổ nhất định, chỉ khi hành vi phạm tội tác
động đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em thì mới được
coi là thuộc trường hợp phạm tội đối với trẻ em. Điều này dẫn đến tình trạng
bỏ ngỏ việc bảo vệ các quyền khác của trẻ em mà PLHS bảo vệ. Chẳng hạn,
hành vi phạm tội bắt cóc trẻ em nhằm chiếm đoạt tài sản, ngoài việc xâm hại
đến sức khỏe của trẻ em, còn xâm hại đến khách thể là các quyền khác của trẻ
em theo quy định của pháp luật như quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú của

trẻ em. Do đó, trong khái niệm phạm tội đối với trẻ em cần thể hiện đầy đủ
nội dung khách thể bị hành vi phạm tội xâm phạm đến, đó là tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác của trẻ em theo quy định của
pháp luật như quan điểm thứ nhất và thứ hai.

12


- Trong cả ba quan điểm trên đều chưa đề cập một cách cụ thể đến các
điều kiện để có thể coi một hành vi là tội phạm, đó là hành vi đó phải có tính
nguy hiểm cho xã hội, tính trái PLHS, do người có đủ có năng lực TNHS và
đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô
ý. Sở dĩ cần đề cập đến vấn đề này là vì khi xem xét một hành vi có thuộc
trường hợp phạm tội đối với trẻ em hay không, trước hết phải xem hành vi đó
có là tội phạm hay không. Nếu hành vi đó không phải là tội phạm do không
có đủ các dấu hiệu trên thì không đặt ra vấn đề phạm tội đối với trẻ em đối
với hành vi này.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm phạm tội đối với
trẻ em như sau:
Phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người có năng lực TNHS, đủ
tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật thực hiện hành vi có tính nguy
hiểm cao cho xã hội với lỗi cố ý hoặc vô ý, thông qua việc tác động trực tiếp
lên trẻ em, xâm phạm đến quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em mà pháp luật quy định.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT “PHẠM TỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM”
1.2.1. Hành vi phạm tội có đối tượng tác động là trẻ em
Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm bảo vệ. Xuất phát từ
quan điểm bảo vệ trẻ em đồng nghĩa với việc bảo vệ thế hệ mai sau của đất
nước, quốc gia, dân tộc, là bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của cha ông, là bảo vệ những người không có khả năng hoặc hạn

chế khả năng tự vệ, khi hành vi phạm tội tác động đến trẻ em là tác động đến
đối tượng yếu thế cần được bảo vệ, do đó hành vi phạm tội có đối tượng tác
động là trẻ em sẽ ảnh hưởng đến TNHS so với hành vi phạm tội tác động đến
đối tượng là người không phải là trẻ em, người thành niên theo hướng nặng
hơn, nghĩa là TNHS đối với người có hành vi phạm tội đối với trẻ em sẽ cao

13


hơn so với trường hợp hành vi phạm tội tác động đến người không phải là trẻ
em. Vì vậy, trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia trên thế giới
cũng quy định trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt bảo vệ trước những hành
vi vi phạm pháp luật xâm hại đến các quyền của trẻ em, và trong PLHS của
một số các quốc gia trên thế giới, tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” đã được
coi là một tình tiết xác định TNHS đối với người phạm tội.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, “do còn non nớt về
thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” [25, Lời mở đầu].
Công ước này cũng đã khẳng định rằng việc xâm hại, phạm tội đối với trẻ em
có tính nguy hiểm cao với xã hội và các quốc gia thành viên cần có biện pháp
về mặt pháp lý để ngăn chặn việc này. Tiêu biểu là các quy định:
Không trẻ em nào phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp
pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín của các em
cũng như sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh của
các em. Trẻ em có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại sự can
thiệp hay công kích như vậy [25, Điều 16].
Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp
lập pháp, hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em
khỏi tất cả các hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị
thương tổn hay lạm dụng, bị bỏ mặc chăm sóc hoặc xao nhãng, bị

ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả lạm dụng tình dục trong khi trẻ em
vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ,
một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào
khác được giao việc chăm sóc trẻ em [25, Điều 19].
Các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống tất cả
các hình thức bóc lột tình dọc và lạm dụng tình dục [25, Điều 34].

14


Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả những biện
pháp ở các cấp quốc gia, song phương và đa phương thích hợp để
ngăn ngừa việc bắt cóc, buôn bán trẻ em vì bất kỳ mục đích gì hay
dưới bất kỳ hình thức nào [25, Điều 35].
Bên cạnh Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, PLHS của một
số quốc gia cũng quy định TNHS đối với trường hợp hành vi phạm tội tác
động đến đối tượng là trẻ em. Tiêu biểu là một số quy định như sau:
Theo BLHS Trung Quốc:
Người nào dùng bạo lực, uy hiếp hoặc các thủ đoạn khác
cưỡng hiếp phụ nữ, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. Giao cấu
với trẻ em gái chưa đủ 14 tuổi, coi như phạm tội hiếp dâm, bị xử
phạt nặng… [20, Điều 236].
Người nào dùng bạo lực, uy hiếp hoặc các thủ đoạn khác
cưỡng dâm phụ nữ hoặc làm nhục phụ nữ, thì bị phạt tù đến 5 năm
hoặc cải tạo lao động. Nếu phạm tội nói trên ở trước đám đông hoặc
trước công chúng nơi công cộng, thì bị phạt tù có thời hạn từ 5 năm
trở lên. Nếu phạm tội loạn luân với trẻ em, thì xử phạt nặng dựa
theo các quy định trên [20, Điều 237]…
Theo BLHS Thụy Điển:
Người nào bắt và đưa đi hoặc giam giữ trẻ em hoặc người

khác với mục đích gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của họ, buộc họ phục dịch hoặc vì mục đích chiếm đoạt tài sản thì
bị phạt tù từ bốn năm đến mười năm hoặc tù chung thân về tội bắt
cóc [40, Điều 1 chương 4].
Người nào phổ biến cho trẻ em hoặc thanh niên bài viết, hình
ảnh hoặc băng kĩ thuật có nội dung có thể làm cho họ trở nên hung
ác hoặc bằng cách khác gây nguy hiểm nghiêm trọng đến việc giáo

15


dục đạo đức cho các em thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến sáu tháng
về tội đưa trẻ em vào con đường lầm lạc [40, Điều 12 chương 16]
(Luật 1998:1444) v.v…
Pháp luật Việt Nam cũng coi việc phạm tội đối với trẻ em là một hành
vi nguy hiểm cho xã hội, là việc người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến
quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của trẻ em
và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của pháp luật. Hiến pháp năm
2013 cũng khẳng định rõ Nhà nước bảo hộ quyền lợi của trẻ em. “Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham
gia vào các vấ n đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ
mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ
em” [33, Điều 37]. Ngoài ra, việc thực hiện các hành vi phạm tội đối với trẻ
em còn được quy định là một tình tiết để xác định TNHS đối với người phạm
tội trong BLHS Việt Nam hiện hành. Theo đó, tình tiết “Phạm tội đối với trẻ
em” được quy định là một tình tiết tăng nặng TNHS tại khoản 1 Điều 48, là
tình tiêt định tội của một số tội phạm cụ thể như: Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tội giao cấu với trẻ em, Tội dâm ô
với trẻ em… và là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của các tội như: Tội
giết người, Tội hành hạ người khác, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…

Định nghĩa trẻ em
Hiện nay trong thực tiễn tồn tại nhiều cụm từ khác nhau để nói về
những người ở một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của con người như
“trẻ em”, trẻ con”, “trẻ thơ”…
Ở góc độ khoa học, trẻ em được định nghĩa tuỳ theo góc độ
tiếp cận của từng khoa học cụ thể, như trong triết học, trẻ em được
xem xét trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên
ở mọi thời đại, tương lai của quốc gia, dân tộc đều tuỳ thuộc vào

16


việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối với chuyên ngành xã
hội học, trẻ em được xác định là người có vị thế, vai trò xã hội khác
với người lớn, vì vậy, cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh
trưởng, nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển thành người lớn.
Trong tâm lý học, khái niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn đầu
của sự phát triển tâm lý - nhân cách con người. Dưới khía cạnh
pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Điều
này có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em
phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định [56].
Khái niệm trẻ em được quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền
trẻ em năm 1989 như sau: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [25, Điều 1]. Theo đó, trẻ em là đối
tượng thỏa mãn hai tiêu chí sau:
(1) Là mọi người, không phân biệt quốc tịch, dân tộc, tôn
giáo, giới tính, tầng lớp, giai cấp…
(2) Có độ tuổi dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn

Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam lại có quy định khác về trẻ em. Cụ thể là:
Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em
quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [34, Điều 1].
Các điều luật khác của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
cũng có những quy định về độ tuổi của trẻ em, chẳng hạn như: khoản 1 Điều
112 quy định: “Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì
bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”, khoản 4 Điều 112 quy định “Mọi
trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ
em”, khoản 1 Điều 114 quy định “Người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi

17


×