Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở khu vực thành thị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.51 KB, 36 trang )

MỤC LỤC


A. Lời mở đầu
- Lý do chọn đề tài.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu, nó
không loại trừ một quốc gia nào, cho dù quốc gia đó là nước đang phát triển hay nước
có nền công nghiệp phát triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các mặt kinh tế,
chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó gây ra không dễ gì khắc
phục được trong một thời gian ngắn. Do vậy, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm việc làm,
ổn định đời sống cho người lao động trở thành mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ một nước nghèo, có nền kinh tế kém phát triển, dân số
tăng nhanh trong nhiều thập kỷ qua, thất nghiệp (đặc biệt là thất nghiệp ở khu vực
thành thị) đang là một vấn đề gây sức ép rất lớn đối với các nhà hoạch định chính sách
cũng như sự lo lắng đối với từng người lao động. Xuất phát từ điều đó, em đã chọn đề
tài: “Thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở khu vực thành thị Việt Nam” để
nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm khái quát một số vấn đề lý luận về thất
nghiệp, phân tích đánh giá thực trạng thất nghiệp ở khu vực thành thị Việt Nam (bằng
cách sử dụng các phương pháp thống kê toán, phân tích số liệu) và từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này. Thất ngiệp nó còn kéo theo
nhiều vấn đề đằng sau : Dẫn đến làm giảm nền kinh tế , gia tăng nhiều tệ nạn xã hội
như cờ bạc , trộm cắp và ma túy ; làm xói mòn nếp sống lành mạnh và phá vỡ nhiều
mối quan hệ . Tạo ra sự lo lắng cho toàn xã hội.
Tình hình thất nghiệp ở nước ta như thế nào ? Nguyên nhân thất nghiệp là do đâu
? Nhằm trả lời câu hỏi trên nhóm đã tìm hiểu và phân tích tình hình thất nghiệp của
Việt Nam từ năm 2010 – 2014.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
+ Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài chủ yếu nghiên cứu đến tình trạng thất nghiệp và các biện pháp nhằm hạ
thấp tỉ lệ thất nghiệp.
+ Phạm vi nghiên cứu :


Tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam từ 2010 – 2014.


- Nguồn số liệu nghiên cứu.
Nguồn thong tin chủ yếu thu thập trên internet, trang web xã hội , cùng các diễn
đàn của các trường đại học.
- Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này , nhóm đã dùng phương pháp định tính, thống kê,dự
báo , nghiên cứu tài liệu và phương pháp nghiên cứu hệ thống.
- Kết cấu của đề tài.
Đề tài gồm 3 phần chính :
+ Thất nghiệp là gì ? Tình hình thất nghiệp của Việt Nam từ 2010 – 2014 và
nguyên nhân.
+ Thất nghiệp tác động như thế nào đến tăng trưởng và phát triển kinh tế ?
+ Nêu và phân tích một số giải pháp để giảm tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam.


I. Cơ sở lí thuyết
1. Một số khái niệm
1.1 Một số khái niệm cơ bản

Lao động là hoạt động của con người nhàm mục đích tạo ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần cho xã hội.
Việc làm là mọi hoạt động của con người tạo ra của cải vật chất, tinh thần mà
không bị pháp luật cấm.
Độ tuổi lao động là lứa tuổi có khả năng lao động, do nhà nước quy định, độ tuổi
lao động là khác nhau giữa các quốc gia. Ở Việt Nam, độ tuổi này được quy định như
sau: độ tuổi lao động của nam giới là từ 15 đến 60 tuổi, của nữ giới là từ 15 đến 55
tuổi. Những người trong độ tuổi lao động có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy
định đã ghi trong Hiến pháp.

Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
1.2 Thế nào là thất nghiệp

Theo ILO (Tổ chức Lao động quốc tế - International Labor Organization): “Thật
nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc,
nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành”.
Theo định nghĩa của kinh tế học thì thất nghiệp là tình trạng người lao động
muốn có việc làm mà không tìm được việc làm. Người thất nghiệp là người chưa có
việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm.
Ngoài những người có việc làm và thất nghiệp, những người còn lại trong độ tuổi
lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm
người đi học, nội trợ gia đình và những người không có khả năng lao động do đau ốm,
bệnh tật và một bộ phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác nhau.
Có việc làm

Dân số

Trong độ tuổi
lao động

Lực lượng lao động

Thất nghiệp

Ngoài lực lượng lao động
Ngoài độ tuổi lao động
1.3 Tỷ lệ thất nghiệp



Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số
lực lượng lao động xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chi tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của
một quốc gia. Cũng vì thế còn có những quan niệm khác nhau về nội dung và phương
pháp tính toán, để có khả năng biểu hiện đúng và đầy đủ đặc điểm của tình trạng thất
nghiệp thực tế, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
2. Phân loại thất nghiệp
2.1 Phân theo loại hình thất nghiệp

Phân loại thất nghiệp theo loại hình thực chất là việc xác định đối tượng thất
nghiệp thuộc bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào, giới tính, độ tuổi nào. Cách phân
loại này nhằm xác định tính chất, đặc điểm cũng như mức độ tác hại của thất nghiệp
trong thực tế nền kinh tế. Với mục đích đó, có thể dùng những tiêu thức phân loại dưới
đây:
2.2

Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ).
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề).
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề (ngành kinh tế, nghề nghiệp).
Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc.
Phân loại theo lý do thất nghiệp
Dựa vào lý do thất nghiệp, có thể chia thất nghiệp thành:

-

Thất nghiệp do bỏ việc: Người lao động tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau

-


như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, hợp vùng,…
Thất nghiệp do mất việc: Các đơn vị kinh doanh cho người lao động thôi việc do

-

những khó khăn trong kinh doanh.
Thất nghiệp do mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm
được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm kiếm việc, sinh viên tốt nghiệp

-

đang chờ công tác,…)
Thất nghiệp do tái nhập: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay
lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Phạm trù thất nghiệp không phải là vĩnh viễn và quy mô thất nghiệp luôn biến
động. Những người thất nghiệp sau một thời gian nào đó có thể quay trởi lại làm việc,
tìm được việc làm mới hoặc rút khỏi lực lượng lao động vì nhiều nguyên nhân khác
nhau như mất hứng thú làm việc, điều kiện bản thân không phù hợp với yêu cầu của
thị trường lao động.


Như vậy, thất nghiệp là con số mang tính thời điểm, nó luôn biến đổi không
ngừng theo thời gian. Trong một thời kỳ nhất định, có một bộ phận lực lượng kao
động trở thành thất nghiệp và cũng có một bộ phận người thất nghiệp rời khỏi thất
nghiệp. Hiện tượng này được gọi là dòng thất nghiệp. Khi số người trở thành thất
nghiệp nhiều hơn số người rút khỏi thất nghiệp thì quy mô thất nghiệp tăng lên và
ngược lại, quy mô thất nghiệp giảm xuống. Khi dòng thất nghiệp cân bàng thì quy mô
thất nghiệp sẽ không đổi, tỷ lệ thất nghiệp sẽ ổn định. Dòng thất nghiệp còn phản ánh
sự biến động của thị trường lao động.
Bên cạnh dòng thất nghiệp, quy mô thất nghiệp còn gắn với thời gian thất nghiệp

trung bình. Khoảng thời gian thất nghiệp trung bình là độ dài bình quân thời gian thất
nghiệp của toàn bộ số người thất nghiệp trong cùng một thời kỳ. Khi dòng thất nghiệp
cân bằng, nếu khoảng thời gian thất nghiệp trung bình rút ngắn thì cường độ vận động
của dòng thất nghiệp tăng lên, thị trường lao động biến động mạnh.
2.3 Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp
- Thất nghiệp tạm thời

Thất nghiệp tạm thời là tình trạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển của
người lao động giữa các vùng, các địa phương, giữa các loại công việc hoặc giữa các
giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian
tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng (lương cao
hơn, gần nhà hơn)
-

Thất nghiệp cơ cấu
Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung-cầu giãu các thị trường lao
động (giữa các ngành nghề, khu vực). Loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh
tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao động. Khi sự biến động này
mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài
hạn.
Thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp tạm thời chỉ xảy ra ở một bộ phận của thị
trường lao động.

-

Thất nghiệp do thiếu cầu (thất nghiệp chu kỳ)


Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm. Loại này

còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời
kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh, xảy ra ở khắp mọi nơi mọi ngành mọi nghề.
-

Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường (thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển)
Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường xảy ra khi tiền lương được ấn định không
bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường lao động.
Loại thất nghiệp này do các yếu tố chính trị- xã hội tác động.

2.4 Phân loại theo phân tích hiện đại về thất nghiệp
- Thất nghiệp tự nguyện: chỉ những người tự nguyện không mong muốn làm việc do

lương chưa phù hợp với mong muốn. Thất nghiệp tự nguyện bao gồm những người
-

thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu.
Thất nghiệp không tự nguyện: chỉ những người muốn đi làm ở mức lương hiện hành
nhưng không được thuê. Đây chính là thất nghiệp thiếu cầu và thất nghiệp theo lý

-

thuyết hiện đại.
Thất nghiệp tự nhiên: là mức thất nghiệp khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng.
Tại đó mức tiền lương và giá cả là hợp lý, các thị trường đều đạt cân bằng dài hạn.
3. Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp

-

Lực lượng lao động đang ra tăng với tỷ lệ nhanh chóng với hơn một triệu việc làm mới
mỗi năm. Tỷ lệ thất nghiệp giữa thanh niên đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng ở

Việt Nam, nơi mà dân số dưới độ tuổi 24, chiếm phần lớn trong số người thất nghiệp.
Tỷ lệ của những người tìm việc làm lần đầu, đa số họ là những người lao động trẻ và

-

phụ nữ, trong tổng số người thất nghiệp đã tăng lên trong thập kỷ qua.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm suy
giảm số người lao động hiện đang làm việc tại các xí nghiệp, hợp tác xã quốc doanh.
Trong vòng từ 3-5 năm tới, dự tính hơn 500.000 công nhân sẽ bị mất việc làm tại các
xí nghiệp quốc doanh, đấy là chưa tính số công nhân về hưu trước tuổi. Tương tự như
một số nước, việc tự do hoá nền kinh tế và cải cách cơ cấu đã khuyến khích cho các
doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực phi chính quy và khuyến khích vuệc ký hợp đồng lao
động. Những yếu này được xem là sẽ tạo ra một thị trường năng động, tích cực hơn,
giảm các chi phí về lao động, năng suất cao hơn nhưng cũng là cách thức để lẩn tránh
các điều luật và quy định về lao động . Điều này dẫn tới mất sự bảo đảm về nghề


nghiệp, những lợi ích về kinh tế, xã hội và sự suy giảm có thể về việc làm và điều kiện
-

lao động cho công nhân.
Các cơ hội về việc làm bị suy giảm trong khu vực quốc doanh đối với những người lao
động mới và những sinh viên tốt nghiệp đại học bởi vì việc giảm quy mô của khu vực
dân sự và các doanh nghiệp quốc doanh. Trong năm 2000, Nhà nước đã tuyển dụng
khoảng 1,4 triệu người vào làm việc, tăng khoảng 2,5% so với năm 1999. Tuy nhiên,
việc cắt giảm 15% người lao động trong khu vực dịch vụ dân sự đã có trong kế hoạch
với hơn 70.000 người lao động sẽ mất việc làm vào năm 2002. Trong khi đó, 8% số
người lao động trong bộ máy quản lý ở cấp trung ương cấp thành phố và cấp tỉnh 1 tỷ
đồng cũng đang bị cắt giảm. Chính phủ đang bị cắt giảm và 72% số người lao động
trong các tổ chức nhà nước đã có kế hoạch dành hơn 1 tỷ tỷ Đồng Việt nam cho việc


-

cắt giảm chỗ làm việc trong khu vực dịch vụ dân sự.
Việt Nam cũng đang trong tình trạng thiếu những công nhân lành nghề và bán lành
nghề. Chỉ 22% trong tổng số người lao động đã được qua đào tạo và chỉ 13,4% được
đào tạo nghề. Cuộc điều tra lực lượng lao động được tiến hành năm 1999 đã chỉ ra
rằng 86% trong lực lượng lao động là không có tay nghề. Ví dụ, tổng công ty Bưu
chính Viễn thông Việt Nam (VNPT ) dự tính rằng 50% trong số lao động của Tổng
công ty là những người lao động không có chuyên môn (chủ yếu những người làm
công việc dịch vụ thư tín ) và họ cần được đào tạo. Hơn 100 xí nghiệp hoạt động tại
miền nam có nhu cầu tuyển dụng 17.000 kỹ sư vào làm việc, tuy nhiên họ không tuyển
dụng được những người lao động có trình độ và kinh nghiệm vào làm việc. Những khu
công nghiệp (IPs) được thành lập ở một số tỉnh ở Việt Nam đã tạo được việc làm cho
người lao động tại các khu vực tập trung, tuy nhiên thường thì họ không tuyển dụng
những người dân địa phương vào làm việc vì đó là những người không có tay nghề,
(Ví dụ các khu công nghiệp Bình Dương tuyển dụng hơn 35.000 người lao động Việt
Nam nhưng trong số này, chỉ có 13% là người tại địa phương. Đại đa số những người
lao động đến từ những tỉnh miền Bắc và miền Trung. Tỉnh Bình Dương đang đầu tư
vào đất đai xây nhà cho những người lao động đến từ các địa phương khác, nhưng
phần lớn họ vẫn sống ở những ngôi nhà ổ chuột. Bình Dương cũng đã đầu tư vào một
trung tâm đào tạo nghề để cung cấp một lao động có tay nghề cho các khu công
nghiệp). Việt Nam phải đầu tư một số lượng lớn hơn nữa vào việc dạy nghề dựa trên
các nhu cầu của người sử dụng lao động đối với các lao động lành nghề để chuẩn bị


những trách nhiệm mới và những việc làm mới cho người lao động. Phụ nữ thì ít được
đào tạo về mặt kỹ thuật hơn và thường được tuyển dụng vào làm việc tại các xí nghiệp
sản xuất, nơi tuyển dụng những người lao động không có tay nghề. Phụ nữ thường ít
tham gia vào các công việc được trả lương, có nhiều phụ nữ đã tự đứng ra vận hành

-

những doanh nghiệp gia đình.
Phần lớn lực lượng lao động của việt nam vẫn làm việc trong khu vục nông nghiệp,
chiếm 62,56% trong lực lượng lao động. Trong khi đó,tỷ lệ này ở ngành công nghiệp,
xây dựng là 13,15%và khu vực dịch vụ là 24,29%. Chính phủ đã đặt ra những mục
tiêu mới là sẽ có 50% trong lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp,
23% trong lĩnh vực công nghiệp/ xây dựng và 27% trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên,
tỷ lệ thiếu việc làm cũng khá cao trong khu vực nông thôn chiếm hơn 25%. Số lượng
đất đai canh tác sẵn có không thể thu hút được nhiều lao động hơn. Theo số liệu do
Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội cung cấp, với khoảng 8,1 triệu héc ta
đất nông nghiệp và con số tối đa lao động trong ngành nông nghiệp cần thiết là 19
triệu. Những việc làm ngoài thời gian mùa vụ cần sớm được tạo để tránh tình trạng
thất nghiệp ở vùng nông thôn đối với khoảng gần 10 triệu người. Khu vực kinh doanh
ngoài quốc doanh trong nước của Việt Nam chủ yếu tập trung ở những khu vực có thu
nhập như là trồng trọt hộ gia đình và những dịch vụ cửa hàng kinh doanh nhỏ, cả hai

-

loại hình này đều không tạo ra nhiều việc làm mới.
Tình trạng thất nghiệp ở thành thị cũng nảy sinh như là một vấn đề chính, vì nhiều
công nhân đã di chuyển ra các vùng đô thị để tìm việc làm. Việt Nam dự đoán rằng
dân số thành thị sẽ tăng lên từ 20% đến 45% vào cuối năm 2020 so với mức hiện nay
(Con số dự đoán của ILO), và điều này có nghĩa là hơn 30 triệu người từ các vùng
nông thôn chuyển đến các thành phố để tìm việc làm. Vấn đề này đang gây áp lực đối
với các thành phố trong việc tạo thêm những việc làm mới cho họ. Tỷ lệ thất nghiệp ở
đô thị đã tăng từ 6,5% năm 1999 lên 8% năm 2000. Tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên
đang ở mức cao nguy hiểm ở một số khu vực ở đô thị (tỷ lệ này là 52% đối với những
người trong độ tuổi từ 15- 24 ). Ngày càng nhiều thanh niên di chuyển đến các thành
phố với hy vọng tìm được việc làm và đôi khi họ làm nghề bán hàng rong trên đường

phố, bán bưu thiếp, đánh giày hoặc bán thuốc lá để kiếm kế sinh nhai và gửi tiền về hỗ
trợ gia đình.


-

Chiến lược về việc làm ở Việt Nam cũng phụ thuộc vào số công nhân đi lao động ở
nước ngoài. Việt Nam đã thành công trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Trong khoảng thời gian từ 1995- 2000, hơn 95.000 người lao động đã được đưa
đi làm việc ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Li bi. Những người lao
động này đã gửi tiền lương của họ về để giúp đỡ thân nhân trong nước với số tiền từ
80 triệu đến 220 triệu đồng mỗi người mỗi năm. Tuy nhiên, thực tế là cũng có nhiều
nước khác sẵn sàng đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài, do đó cũng chưa thể biết
được liệu các nước nhập khẩu lao động trong tương lai sẽ cần bao nhiêu lao động nước

-

ngoài.
Việc sắp xếp lại ngành công nghiệp và tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cũng cần
nhiều thời gian, vì thế, tỷ lệ thất nghiệp số học cũng gia tăng. Sự phát triển nhanh của
đầu tư tư nhân là cần thiết cho việc tạo việc làm. Sự tăng trưởng về đầu tư tư nhân
cũng đang ở dưới mức cần thiết để tạo ra số việc làm cần thiết ỏ Việt Nam nhằm đáp
ứng được nhu cầu của những người mới bước vào lực lượng lao động mỗi năm. Cần
có một khoảng thời gian đối với một người tìm việc cho tới khi tìm thấy một việc làm
thích hợp. Việt Nam vẫn cần phải bắt đầu sự chuyển đổi từ các ngành công nghiệp cần
nhiều lao động sang một nền công nghiệp có tay nghề chuyên môn cao.
- Thiên tai có thể ảnh hưởng đến một bộ phận lớn trong lực lượng lao động tại
những vùng bị thiệt hại bị mất việc làm cho tới khi họ có thể khắc và xây dựng cuộc

-


sống và kế sinh nhai của họ
Bảo hiểm thất nghiệp không thể giải quyết tất cả về nguyên nhân thất nghiệp nói trên.
Tuy nhiên, nó có thể góp vào việc làm giảm đi những tác động của thất nghiệp đối với
công nhân và cũng đóng góp được cho chế độ bảo hiểm xã hội. Các hình thức khác
của trợ cấp thất nghiệp có thể được sử dụng như là một phần của chiến lược việc làm
hội nhập để hỗ trợ cơ bản về thu nhập và đào tạo tay nghề để tạo cơ hội tốt hơn cho
người lao động tìm được việc làm. Các chính sách đều nhằm vào việc cải thiện chất
lượng của lực lượng lao động, thông qua đào tạo nghề và giáo dục, dường như sẽ làm
giảm đi số lượng người lao động có tay nghề kém trong thời gian tới. Mục đích của
chế độ trợ cấp thất nghiệp thường được xem như là biện pháp để tạo điều kiện cho
những người bị mất việc làm, không phải do lỗi của bản thân họ, một khoản bồi
thường đủ để đáp ứng được nhũng nhu cầu ngay lập tức của họ và khoản thu nhập


tương tự này sẽ giúp họ chi trả được những chi phí cần thiết cho đến khi tìm được việc
làm mới.
4. Giải pháp thất nghiệp
a. Hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp theo lý thuyết
 Đối với loại thất nghiệp tự nguyện:
+ Cấu tạo ra nhiều công ăn việc làm và có mức tiền lương tốt hơn để tại mỗi
mức lương thu hút được nhiều lao động hơn.
+ Tăng cường hoàn thiện các chương trình dạy nghề, đào tạo lại, tổ chức tốt thị
trường lao động.
Đối với loại thất nghiệp chu kỳ:
+ Cần áp dụng chính sách tài khoá, tiền tệ để làm gia tăng tổng cầu nhằm kích
thích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, theo đó thu hút được nhiều lao
động.
+ Để xảy ra một tình trạng thất nghiệp tràn lan sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến
phát triển kinh tế xã hội. Nền kinh tế sẽ phải từ bỏ những sản phẩm, dịch vụ mà những

người công nhân bị thất nghiệp làm ra. Hơn nữa, đó còn là sự lãng phí to lớn nguồn
nhân lực đang ở độ tuổi lao động và để tồn tại một lượng lớn người mất việc làm, để
họ rơi vào tình cảnh nghèo khó sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Do đó,
cần phải có những chính sách, kế hoạch bài bản hơn để ngăn ngừa nguy cơ nạn thất
nghiệp tiếp tục lan rộng.
b. Kích cầu.
-

Việc đầu tư hay nói đúng hơn là kích cầu nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
trọng tâm đã được xác định. Việc “bơm vốn” và áp dụng các chính sách ưu đãi cho
khu vực doanh nghiệp này trước hết là nhằm kích thích sản xuất, từ đó tạo ra việc làm.
Bên cạnh đó, kích cầu bằng việc đầu tư vào phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng đang
được đánh giá là giải pháp tối ưu hơn cả. Đây cũng là giải pháp mà các quốc gia đã
từng áp dụng trước đây. Việc đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công và làm
mới, cải tạo, nâng cấp các công trình đã xuống cấp trên phạm vi rộng không chỉ giải
quyết bài toán yếu kém về cơ sở hạ tầng của nước ta như “phàn nàn” của nhiều nhà
đầu tư nước ngoài, mà hơn thế là sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giải
quyết vấn đề lao động dôi dư do mất việc làm từ ảnh hưởng của suy thoái. Một khi vấn
đề yếu kém của cơ sở hạ tầng được giải quyết, cộng hưởng các chính sách kinh tế vĩ


mô khác thì việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài sẽ trở nên khả quan hơn khi nền kinh
tế thế giới hồi phục trở lại.
c. Tạo mọi điều kiện cho lao động mất việc.
Lao động bị mất việc cũng có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội. Trước
tình hình lao động của quý I/2009, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã đưa ra ba
-

giải pháp chủ yếu để hỗ trợ lao động mất việc làm.
Thứ nhất, Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành phố giúp đỡ người lao động sớm

tìm được việc làm mới. Hiện nay Tổng liên đoàn có hệ thống trung tâm giới thiệu việc
làm (31 trung tâm). Theo báo cáo của Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành thì đã
có 80% lao động mất việc tìm được việc làm trở lại. Tổng liên đoàn lao động cũng chỉ

-

đạo các sang cả các doanh nghiệp các tỉnh lân cận.
Thứ hai, các trường dạy nghề của tổ chức công đoàn có nhiệm vụ nâng cao tay nghề
cho người lao động hoặc thu hút người lao động vào học nghề, tranh thủ lúc không có
việc. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu tư cho công tác dạy nghề cũng là biện
pháp kích cầu không kém phần quan trọng. Trong bối cảnh lực lượng lao động mất
việc làm tăng nhanh như hiện nay, hằng năm chúng ta phải giải quyết tối thiểu cho
khoảng 1,2 triệu việc làm mới, khoảng trên 1 triệu lao động chuyển từ khu vực nông
thôn ra thành thị thì sức ép giải quyết việc làm càng trở nên nặng nề hơn. Trong khi
đó, nếu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 không đạt được mức 6,5% thì tỉ lệ thất
nghiệp tăng cao sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến an sinh xã hội và làm “mất
an toàn xã hội” theo cách đánh giá của ILO. Đấy là chưa tính đến việc số hộ nghèo,
người nghèo sẽ tăng cao nếu chúng ta áp dụng chuẩn nghèo mới.

-

Thứ ba, cho vay vốn từ quỹ quốc gia của Tổng liên đoàn. Những người lao động mất
việc do suy thoái kinh tế sẽ được vay vốn để họ có thu nhập giải quyết khó khăn trước
mắt. Ngoài ra, ở một số tình, thành phố con có thêm quỹ trợ vốn cho lao động nghèo.
Quỹ này cũng cho người lao động mất việc làm vay vốn để tạo công việc. Điều này đã

mang lại hiệu quả tương đối tốt, giúp người lao động ổn định cuộc sống.
d. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.
- Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao
động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh đó bảo

hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp.
e. Những biện pháp khác


-

Trợ cấp một tỷ lệ nhất định trong quỹ lương ở các doanh nghiệp. Họ cũng có thể hỗ trợ
doanh nghiệp trong nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội, quỹ lương hưu v.v… mà mục đích
không gì khác ngoài việc giúp doanh nghiệp cắt giảm được chi phí nhân lực liên quan

-

mà không cần phải sa thải nhân công.
Cắt giảm thuế tiêu thụ cũng giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người tiêu dùng với hy
vọng rằng tổng cầu sẽ được duy trì ở mức khả dĩ, tác động tích cực ngược lại đến
doanh nghiệp và do đó giảm thiểu được nạn sa thải nhân lực do sản xuất kinh doanh

-

đình đốn.
Thông qua các tổ chức công đoàn thuyết phục người lao động và chủ doanh nghiệp
chấp nhận một mức cắt giảm trong tiền lương để duy trì số công ăn việc làm trong
doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp này cũng lại chỉ được áp dụng được ở những nơi

-

có tổ chức công đoàn và vẫn còn hoạt động.
Đào tạo nghề cho bà con ở nông thôn đặc biệt là con cái của họ, khi diện tích đất sản

-


xuất của họ bị thu hồi thì có thể dể dàng chuyển sang làm những ngành nghề khác.
Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động là nơi mà không những giải quyết được tình
trạng thất nghiệp ở trong nước mà còn thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ cho quốc

-

gia.
Chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Hạn chế tăng dân số.
Khuyến khích sử dụng lao động nữ.
Tập trung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi xuất ưu đãi do các đối
tượng trọng điểm vay theo dự án nhỏ để tự tạo việc làm cho bản thân gia đình và công
cộng.
II. Phân tích tình hình thất nghiệp của Việt Nam trong 5 năm gần đây
1. Những thành tựu đáng chú ý trong năm 2014
a. Thông qua nhiều dự luật quan trọng
Kỳ họp thứ bảy (tháng 5 - 6/2014) và Kỳ họp thứ tám (tháng 11/2014), Quốc hội
khóa XIII đã thông qua tổng cộng 29 dự luật và 13 nghị quyết, trong đó có nhiều dự
luật quan trọng đối với môi trường đầu tư, kinh doanh (Luật Đầu tư sửa đổi, Luật
Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Kinh doanh Bất động sản, Luật Nhà ở…), thể hiện nỗ lực
cải cách của Chính phủ, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 là người dân được
quyền kinh doanh những gì Nhà nước không cấm.


Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII đã thông qua nhiều dự luật quan trọng đối
với môi trường đầu tư, kinh doanh.


b. Một năm thành công về điều hành kinh tế vĩ mô

Năm 2014, lạm phát chỉ ở mức 1,84%, thấp nhất 15 năm qua; GDP tăng 5,98%,
vượt khá xa mục tiêu kế hoạch và các dự báo; xuất khẩu lần đầu tiên vượt ngưỡng 150
tỷ USD.
Năm 2014 là năm đầu tiên trong Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, GDP vượt chỉ tiêu
kế hoạch, là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam xuất siêu lớn (2 tỷ USD). Năm 2014 cũng
là năm ghi đậm dấu ấn về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan với
cách tiếp cận mới của Chính phủ.
c. Năm ghi dấu ấn của nhiều dự án hạ tầng quan trọng, tạo bước đột phá về cơ
sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Hàng loạt dự án trọng điểm được hoàn thành, đưa vào sử dụng trong năm 2014,
như Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, tuyến đường bộ cao tốc dài nhất Việt Nam; cầu
Vĩnh Thịnh, cầu vượt sông Hồng dài nhất Việt Nam; hoàn thành đồng bộ 3 công trình
lớn là cầu Nhật Tân, đường nối từ sân bay Nội Bài đến cầu Nhật Tân và Nhà ga hành
khách T2 - Cảng hàng không quốc tế Nội Bài...
Kết quả đó giúp năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông Việt Nam được
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đánh giá tăng 16 bậc, đứng vị trí 74 so với vị trí 90
năm 2012 và thứ 103 của năm 2010. Năm 2014, Dự án Cảng hàng không quốc tế Long
Thành, với kinh phí dự kiến 18,7 tỷ USD, cũng gây chú ý với nhiều ý kiến đa chiều
trong bối cảnh nợ công tăng nhanh.
d. Năm 2014 ghi nhận hoạt động đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO)
sôi động nhất từ trước đến nay
Trong đó, một số đợt IPO lớn đã thu hút hàng ngàn tỷ đồng, như thương vụ IPO
49 triệu cổ phần của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) huy động
1.093,2 tỷ đồng, đợt IPO của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) huy động 1.216


tỷ đồng, IPO 129 triệu cổ phần của Công ty Phân bón Dầu khí Cà Mau (Đạm Cà Mau)
thu về gần 1.580 tỷ đồng…
Đặc biệt, ngày 5/9/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
51/2014/QĐ-TTg về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị

trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước, thể hiện quyết tâm của Chính phủ
trong việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa.
e. Nhiều bước tiến trong hội nhập kinh tế
Năm 2014, Việt Nam đã hoàn tất việc đàm phán các hiệp định thương mại tự do
(FTA) với Hàn Quốc và Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan, đồng thời
đạt được thỏa thuận về định hướng kết thúc đàm phán FTA với EU. Bên cạnh đó, Việt
Nam tham gia đàm phán 3 FTA khu vực, gồm: Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện
khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định FTA
với Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu (EFTA).
f. Năm 2014, giá xăng trong nước giảm kỷ lục
Trong năm 2014, liên Bộ Tài chính - Công thương đã 15 lần điều chỉnh giá xăng
và 21 lần điều chỉnh giá dầu. Trong đó, giá xăng đã giảm 5.330 đồng/lít (giảm 25%),
giá dầu đã giảm 6.590 đồng/lít (giảm 35%) so với cùng kỳ năm 2013. Riêng ngày
22/12/2014, giá xăng đã điều chỉnh giảm 2.000 đồng/lít.
Đối với Việt Nam, việc giá xăng dầu giảm mạnh một mặt tác động tích cực đến
doanh nghiệp sản xuất, song mặt khác, cũng dấy lên lo ngại hụt nguồn thu ngân sách
từ việc xuất khẩu dầu thô.
2. Thách thức và khó khăn
- Một là, lực lượng lao động phân bố không đồng đều giữa các vùng địa lý kinh
tế, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Hồng (không bao gồm Hà Nội): 15,2%, đồng
bằng sông Cửu Long: 19,1%, trong khi các vùng đất rộng có tỉ trọng lao động thấp
như trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,7%, Tây Nguyên chiếm 6,3% lực


lượng lao động. Vì vậy, chưa tạo điều kiện phát huy được lợi thế về đất đai, tạo việc
làm cho người lao động và góp phần phân bố lại lực lượng lao động, đây chính là
nguyên nhân tạo ra sự mất cân đối cục bộ về lao động và là tác nhân của thất nghiệp,
thiếu việc làm.

Số người có việc làm năm 2014 dù tăng so với năm 2013 nhưng chưa thể giải

quyết được nạn thất nghiệp (Nguồn: Tổng cục Thống kê; Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội)
- Hai là, lực lượng lao động có chất lượng thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang
điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Nguồn nhân
lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao động công
nghiệp... Trong tổng số hơn 53,4 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
nền kinh tế, chỉ có khoảng 49% qua đào tạo, trong đó qua đào tạo nghề từ 3 tháng trở
lên chỉ chiếm khoảng 19%. Khoảng cách khác biệt về tỉ lệ này giữa khu vực thành thị
và nông thôn là khá cao (20,4% và 8,6%). Ngoài ra, thể lực của lao động Việt Nam ở
mức trung bình kém, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử
dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe và an toàn
nghề nghiệp chưa tốt; bên cạnh đó, kỷ luật lao động còn kém so với nhiều quốc gia


trong khu vực. Một bộ phận lớn người lao động hiện nay chưa được tập huấn về kỷ
luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được
trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh
chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
-

Ba là, năng suất, hiệu quả lao động trong các ngành kinh tế thấp và có sự

khác biệt đáng kể giữa khu vực nông nghiệp với khu vực công nghiệp và khu vực dịch
vụ.
- Bốn là, tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ vẫn thường xuyên
xảy ra. Thị trường lao động nước ta chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các vùng
kinh tế trọng điểm, nơi có nhiều KCX-KCN, như: Long An, TP HCM, Bình Dương,
Đồng Nai… Ngược lại một số tỉnh như Bạc Liêu, Ninh Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An
lại có tình trạng dư cung, đang phải đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp cao.

-

Năm là, mặc dù đã tiến hành 2 đợt cải cách tiền lương (năm 1993 và 2004),

bước đầu tách bạch tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành chính sự
nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chính sách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh theo
định hướng thị trường nhưng mức tiền lương tối thiểu thấp chưa được tính đúng, tính
đủ cho mức sống tối thiểu và chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu cơ bản của người lao
động, thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên thị trường khoảng 20% và hiện nay
mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
-

Sáu là, công tác quản lý nhà nước về lao động - việc làm còn nhiều hạn chế,

các chính sách, pháp luật đang từng bước hoàn thiện, hệ thống thông tin thị trường lao
động còn sơ khai thiếu đồng bộ. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp hết sức tiến bộ
nhưng chưa đạt được mục tiêu như mong muốn nhằm không chỉ hỗ trợ cuộc sống
người lao động khi mất việc làm mà còn phải đào tạo nghề, tư vấn, hỗ trợ để giúp quay
lại thị trường lao động.
3. Thực trạng thất nghiệp của Việt Nam trong năm 2010-2014


Ngày 31/12, Tổng cục Thống kê cho biết tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của lao
động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó tình trạng không có việc làm ở khu vực
thành thị là 4,43% và nông thôn là 2,27%.
So sánh với năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm 0,02%, thất nghiệp thành
thị giảm 0,17% trong khi thất nghiệp nông thôn lại tăng thêm 0,02%. Năm 2009, các tỷ
lệ tương ứng là 2,9%; 4,6%; 2,25%.
Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi, tỷ lệ thiếu việc làm năm
2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%; trong đó khu vực thành thị là 2,04%, khu vực

nông thôn là 5,47%.
So với năm 2010 (tỷ lệ thất nghiệp là 2,88%) thì tỷ lệ thất nghiệp có giảm
chút ít.
Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố, tỷ
lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27%. Trong đó khu vực thành
thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là: 2,88%,
4,29%, 2,30%). Như vậy, so với năm 2010 (tỷ lệ thất nghiệp là 2,88%) thì tỷ lệ thất
nghiệp có giảm chút ít.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 3,34%, trong đó khu
vực thành thị là 1,82%, khu vực nông thôn là 3,96% (Năm 2010 các tỷ lệ tương ứng
là: 3,57%; 1,82%; 4,26%).Cũng theo Tổng cục Thống kê, dân số trung bình cả nước
năm 2011 ước tính 87,84 triệu người, tăng 1,04% so với năm 2010.Trong đó, lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2011 là 51,39 triệu người, tăng 1,97% so với
năm 2010. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,48 triệu người, tăng
0,12%.
Theo số liệu, Tổng cục thống kê vừa công bố (24/12) năm 2012,tỷ lệ thất nghiệp
của lao động trong độ tuổi lao động là 1,99 %,giảm so với 2,27% năm 2011.
Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi tại khu vực thành thị là 3,25%,
khu vực nông thôn là 1,42% (Năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,22%; 3,60%;
1,60%).
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2013
ước tính là 2,2%, tăng đáng kể so với mức 1,96% của năm 2012. Trong đó tỷ lệ thất


nghiệp tăng ở cả khu vực thành thị và nông thôn.Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động
trong độ tuổi năm 2013 ước tính 2,77%, tăng 0,03% so với 2012.
Tình trạng thiếu việc làm nói chung và cử nhân thất nghiệp nhiều nói riêng đã
từng khiến dư luận “choáng”. Và hôm 24-4, một lần nữa, dư luận lại giật mình khi
nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận thông báo tại phiên giải trình
của Chính phủ với Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng

của Quốc hội: “Mặc dù trong giai đoạn 2010-2014, số lao động có trình độ ĐH, CĐ có
việc làm tăng nhưng người thất nghiệp cũng tăng cao hơn so với số tốt nghiệp và số có
việc làm. Trong khi người có việc làm chỉ tăng 38% thì người thất nghiệp tăng gấp đôi
(ở nhóm lao động này - NV)”.
Việc làm tăng không kịp số người cần việc
Đó quả là con số nhức nhối, phản ánh đúng thực tế hiện nay. Theo số liệu của
PGS-TS Trần Đình Thiên và các cộng sự (Viện Kinh tế Việt Nam), trong năm 2014,
nền kinh tế có những dấu hiệu tích cực hơn so với 2 năm 2012 và 2013 nên đã giải
quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tăng 3,6% so với thực hiện năm 2013,
trong đó tạo việc làm trong nước khoảng 1,494 triệu lao động, đạt 98,8% kế hoạch,
tăng 2,7% so với năm 2013. Tuy nhiên, đó chỉ là dấu hiệu tích cực về mặt số lượng,
chất lượng việc làm mới vẫn thấp và thiếu bền vững.
Cụ thể hơn về tình trạng này, TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn
đề xã hội của Quốc hội, cho biết: Đến thời điểm 31-12-2014, dân số cả nước là 90,7
triệu người, trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động. Cả nước đã có
khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (tỉ lệ 2,45%, trong đó khu vực thành thị là
1,18% và nông thôn là 3,01%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,08%; trong
số này khu vực thành thị là 3,43% và nông thôn là 1,47%.
Như vậy, số việc làm tạo ra dù tăng nhưng không theo kịp số người có nhu cầu
tìm việc, vì vậy tỉ lệ thất nghiệp vẫn nóng bỏng.


Số người có việc làm năm 2014 dù tăng so với năm 2013 nhưng chưa thể giải
quyết được nạn thất nghiệp (Nguồn: Tổng cục Thống kê; Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội


4. Giải pháp cho tình trạng thất nghiệp ở nước ta hiện nay
Đứng trước thực trạng về vấn đề thất nghiệp của nước ta hiện nay . Nhà nứơc ta
cần có những biện pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đến mức tối đa để đưa đất

nước ta phát triển hơn nữa.Đó mới là vấn đề cần quan tâm hiện nay ..
- Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia,vay nước ngoài) đẩy
nhanh tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng,làm thuỷ lợi,thuỷ điện,giao thông ...nhằm tạo
việc làm mới cho lao động mất việc làm ở khu vực sản xuất kinh doanh,nới lỏng các
chính sách tài chính,cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài tạo việc làm mới cho người lao động.Bên cạnh đó chúng ta phải khuyến khích
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm
trang thiết bị sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất .
- Phát huy nội lực - khai thác nguồn vốn trong nước,đầu tư duy trì phát triển sản
suất kinh doanh,đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế,tranh thủ vốn đầu tư của nước
ngoài.
- Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống dịch vụ việc làm
- Xã hội hoá và nâng cao chất lượng đào tạo hệ thống đào tạo dạy nghề.


- Xem xét điều chỉnh tiền lương tối thiểu,đảm bảo tính cân đối giữa khu vực có
đầu tư nước ngoài và trong nước nhằm mục đích mở rộng thu hút lao động xã hội.
- Ngày nay khi mà nhà nước ta ngày càng mở rộng quan hệ với các đối tác kinh
doanh trên thế giới, mở cửa thị trường trong nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài,đã có rất nhiều công ty liên doanh hợp tác phát triển kinh tế trên mọi lĩnh vực đã
giải quyết được một tỷ lệ thất nghiệp rất lớn, vì thế nước ta cần ra sức hội nhập với các
tổ chức liên kết các quốc gian trên thế giới . Hơn nữa với cơ chế như hiện nay,cũng
như chính sách quản lý của nhà nước ta thì việc xuất khẩu lao động ra các nước ngoài
đã có chiều hướng tăng rất nhanh trong một vài năm gần đây.Một số nước như là Hàn
quốc, Đài loan Nhật bản tuy giờ giấc có khắt khe hơn chúng ta song về cơ bản thì thu
nhập cũng đã phần nào phù hợp,do đó xuất khẩu lao động đã phần nào tăng mạnh
trong vài năm gần đây
-

Xúc tiến xây dựng việc làm và chống thất nghiệp. Xây dựng và phát triển


mạng lưới thông tin thị trường lao động quốc gia. Thành lập hệ thống hội đồng tư vấn
việc làm từ trung ương đến dịa phương các cấp với đại diện của cả người sử dụng lao
động,công đoàn và nhà nước
- Nhà nước ta có thể cho vay vốn đối với các doanh nghiệp có nguy cơ không
phát triển được nữa,khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Đặc biệt nhà
nước ta cần chú trọng hơn nữa việc phát triển một số ngành nghề truyền thống ở nông
thôn như là nghề thêu dệt .... Hoặc đầu tư vốn để xây dựng các cơ sở chế biến các mặt
hàng nông thuỷ sản .. . Bởi vì ở nông thôn hiện nay lao động thì dư thừa trong khi đó
việc làm thì thiếu , hàng năm số lượng người từ nông thôn ra thành phố tìm kiếm việc
làm quả là một con số khá lớn, tuy nhiên mức thu nhập của họ cũng không có gì khả
quan cho lắm.
III. Phân tích các biện pháp mà chính phủ đã đề ra
1. Chính sách về kinh tế
a, Gói kích cầu của chính phủ
Nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ là trọng tâm đã được xác định. Việc
“bơm vốn” và áp dụng các chính sách ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp này trước hết
là nhằm kích thích sản xuất, từ đó tạo ra việc làm. Bên cạnh đó,kích cầu bằng việc đầu
tư vào phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng đang được đánh giá là giải pháp tối ưu


hơn cả. Đây cũng là giải pháp mà các quốc gia đã từng áp dụng trước đây. Việc đẩy
nhanh tiến độ các công trình đang thi công và làm mới,cải tạo, nâng cấp các công trình
đã xuống cấp trên phạm vi rộng không chỉ giải quyết bài toán yếu kém về cơ sở hạ
tầng của nước ta như “phàn nàn” của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, mà hơn thế là sẽ
tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giải quyết vấn đề lao động dư do mất việc
làm từ ảnh hưởng của suy thoái. Một vấn đề yếu kém của cơ sở hạ tầng được giải
quyết, cộng hưởng các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì việc thu hút vốn đầu tư nhà
nước sẽ trở nên khả quan hơn khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đồng thời chính
phủ có thể đầu tư gói kích cầu 5 – 6 tỉ USD để tăng cường đầu tư, kích thích phát triển

sản xuất ở những lĩnh vực dễ tạo nhiều công ăn, việc làm, cùng các hoạt động xúc tiến
mở rộng thị trường, hỗ trợ sản xuất ở nông thôn… có thể sẽ làm tỷ lệ thất nghiệp vẫn
dừng lại ở mức hợp lý.
Ví dụ: Năm 2009, gói kích cầu 17.000 tỷ hỗ trợ 4% lãi suất để các doanh nghiệp
mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó chính phủ còn
cho phép giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đồng thời giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng năm
2009 đối với thu nhập từ các hoạt động: sản xuất sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất,
sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ du
lịch, kinh doanh lương thực, phân bón…
b, Chính sách tài khóa
Khi nền kinh tế suy thoái: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức thấp
hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp dụng chính
sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuê hoặc cả hai. Kết
quả làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều việclàm và giảm thất
nghiệp.
Gói kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ
đồng, gói kích cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong
trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất.Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ
mô và tạo việc làm, đây là hai điều quan trọng nhất thể hiện khá rõ vai trò của Nhà
nước thông qua các gói kích cầu. Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các
chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt


qua khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3 %, tỷ lệ lạm phát đã
giảm còn 6,88 % (từ 23 % năm 2008), thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch
vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng bước.
Chương trình cắt giảm thuế: Bộ tài chính đã nhanh chóng hướng dẫn thi hành các
ưu đãi trong lĩnh vực thuế, phí và thủ tục. Giảm thuế VAT cho một loạt các mặt hàng;
Giảm 30 % thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quí

IV/2008 và cả năm 2009; Miễn trừ thuế thu nhập cá nhân trong nửa đầu năm 2009.
Trên thực tế tổng số tiền thuế được miễn giảm khoảng 20.000 tỷ đồng (Bộ Tài chính
2009). Sau quí I/2009, nền kinh tế đã trải qua 4quý liên tiếp tăng trưởng quí sau cao
hơn quí trước, nền kinh tế đã bước khỏi giai đoan thu hẹp
của một chu kỳ kinh tế.
c. Chính sách thu hút vốn đầu tư
Để giảm tỷ lệ thất nghiệp thì nhà nước cũng cần có các chính sách để thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Trước hết cần phải quyết liệt đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước, thúc đẩy cổ phần hóa. Cũng như phải có cơ chế cụ thể các doanh
nghiệp này minh bạch hóa hoạt động, niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây cũng
là một kênh quan trọng để thu hút nguồn vốn mới, tạo đà cho sự phát triển. Đồng thời,
cần đẩy nhanh thực hiện tái cấu trúc ngân hàng thương mại xử lý các ngân hàng yếu
kém… Xem xét việc cho phép các đối tác nước ngoài được mua cổ phần các ngân
hàng thương mại. Đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, yếu kém thuộc diện tái cơ cấu thì
phải đẩy nhanh thực hiện giải pháp này nhằm thu hút vốn mới, đồng thời cũng
tạo thêm sức mạnh cạnh tranh lành mạnh cho các ngân hàng trong nước.
Nhà nước cần thực hiện chính sách kinh tế mở cửa để hội nhập quốc tế và đặc
biệt là thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Ví dụ: Miễn, giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Miễn hoặc giảm
thuế các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
d, Chính sách xuất khẩu lao động:
Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đó sử dụng rất nhiều
cụng cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động XKLĐ những con
đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP, Chính
phủ đó có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ trợ XKLĐ,theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi


×