Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

bao cao thuc tap trường đào tạo cán bộ lê hồng phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.88 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện quyết định số 14 QĐ/HVBCTT ngày 04 tháng 01 năm
2011 của Giám đốc Học viện báo chí và tuyên truyền về việc cử sinh viên
của các lớp khoá 26 đi thực tập sư phạm nhằm tạo điều kiện cho sinh viên
tiếp cận thực tế giảng dạy trên lớp và các hoạt động chuyên môn của giảng
viên các trường chính trị tỉnh, thành phố. Tìm hiểu các hoạt động của khoa
và nhà trường để hiểu biết về nhiệm vụ và các quan hệ công tác của giảng
viên tạo cơ sở cho công tác sau khi tốt nghiệp.
Được sự giúp đỡ của Ban giám đốc học viện, Ban chỉ đạo thực tập của
Nhà trường, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của cán bộ, gảng
viên khoa Kinh tế trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, em đã hoàn thành
tốt đợt thực tập này, tiếp thu, học hỏi được một số kinh nghiệm quý báu, tự
rút ra cho mình những bài học thiết thực, bổ ích cho công tác giảng dạy, đặc
biệt là những phương pháp giảng dạy theo chương trình trung học chính trị.
Mặt khác, qua đợt thực tập này bản thân em cũng tích luỹ thêm được nhiều
hiểu biết về những công việc có liên quan trực tiếp tới quá trình công tác sau
này.
Dưới đây là những kết quả mà bản thân em đã thu hoạch được sau
thời gian đi thực tập tại Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong (từ
14/03/2011 đến 06/05/2011)

1


Phần I.
Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và hoạt động
chung của trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
I. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng, nhiệm
vụ của Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong được thành lập theo Quyết


định số 92/QĐ-TU, ngày 17/9/1993 của Thường vụ Thành ủy Hà Nội và
Quyết định số 5580/QĐ-UB, ngày 02/10/1993 của UBND Thành phố Hà
Nội trên cơ sở sáp nhập 3 trường:
+ Trường Đảng Lê Hồng Phong
+ Trường Quản lý Nhà nước
+ Trường Đoàn trung cấp thành phố.
Sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, trường sáp nhập thêm
trường chính trị tỉnh Hà Tây (cũ).
Theo quy định, Trường có tổ chức bộ máy gồm Ban giám hiệu (trong
đó có 1 Hiệu trưởng và từ 2-3 Phó Hiệu trưởng). Hiện tại Ban giám hiệu
gồm có:
+ Hiệu trưởng: TS.Nguyễn Văn Sáu.
+ Hiệu phó: TS.Nguyễn Huy Thám.
+ Hiệu phó: ThS.Hoàng Thị Ngọc Lan.
+ Hiệu Phó: ThS.Nguyễn Huy Kiến.
+ Hiệu phó: ThS.Đặng Đình Vinh.
Trường có 5 khoa:
+ Khoa Lý luận cơ sở.
2


+ Khoa Kinh tế.
+ Khoa Công tác Đảng.
+ Khoa Nhà nước – Pháp luật.
+ Khoa Dân vận.
Trường có 3 phòng chuyên trách:
+ Phòng Đào tạo.
+ Phòng tổ chức Hành chính.
+ Phòng Thư viện
và 1 Trung tâm Tin học - ngoại ngữ liên kết với nước ngoài

(VIESPA). Số cán bộ, công chức gồm 92 người, trong đó có 90 trong biên
chế, 2 hợp đồng.
2. Chức năng, nhiệm vụ.
Đào tạo cán bộ lãnh đạo chủ chốt Đảng, Đoàn thể, Nhà nước, các
đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn, xí nghiệp, đơn vị hành
chính sự nghiệp và tương đương); các trưởng, phó phòng ban của quận,
huyện; trưởng phó phòng và chuyên viên của các sở, ban, ngành Thành phố
theo chương trình trung cấp chính trị hoặc trung cấp quản lý Nhà nước.
Đào tạo trung cấp pháp lý, trung cấp tin học cho nguồn nhân lực cán
bộ của Thành phố.
Bồi dưỡng cán bộ đương chức chủ chốt cấp cơ sở do không đủ điều
kiện theo học lớp đào tạo, (như quá tuổi, chưa đủ trình độ văn hóa hoặc các
điều kiện khác) về lý luận chính trị hoặc lý luận Nhà nước theo chương trình
rút gọn.
Bồi dưỡng các đối tượng trên những vấn đề mới về lý luận, các Nghị
quyết củ Đảng, nghiệp vụ công tác Đảng, quản lý Nhà nước và xã hội, công
tác đoàn thể và kiến thức về quản lý kinh tế.
3


Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn ở quận, huyện và cơ
sở để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đào tạo
và phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, UBND Thành phố.
Tùy theo yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Thành phố và
năng lực của trường. Thành ủy và UBND Thành phố có thể giao thêm
nhiệm vụ khác co Trường.

II. Hoạt động của Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
1. Tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2009.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Năm 2009, trường đã quản lý, giảng dạy và phục vụ được gần 200 lớp
với trên 13 nghìn học viên. Trường đã tiếp tục xây dựng mới nội dung,
chương trình và đưa vào giảng dạy các lớp bồi dưỡng kĩ năng chủ tịch
HĐND, chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn; phục vụ tốt các kì thi tuyển
công chức dự bị cho khối Đảng, Đoàn thể và công chức ngành thanh tra xây
dựng quận, huyện, xã, phường, thị trấn của thành phố.
Mặc dù số lượng học viên đông, loại hình lớp khá đa dạng, nhiều lớp
ở các huyện xa, một số lớp học vào thứ bảy, chủ nhật hoặc buổi tối, song đôi
ngũ cán bộ, giảng viên, viên chức nhà trường đã có nhiều lỗ lực, cố gắng,
đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý và phục vụ giảng dạy.
Công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, thao giảng, dự
giờ.
Tiếp tục thực hiện nghiệm thu và triển khai một số đề tài khoa học
cấp thành phố giai đoạn 2009 – 2010; nghiệm thu 10 đề tài cấp trường, trong
đó, 07 đề tài đạt loại giỏi, 03 đề tài đạt loại khá. Tổ chức nhiều buổi sinh
hoạt học thuật, hội thảo khoa học cấp trường và hội thảo cấp khoa; phát hành
nhiều số Nội san “đào tạo cán bộ” có nội dung và hình thức tốt.
4


Công tác nghiên cứu thực tế, nhà trường và các đoàn thể đã tổ chức 35
đoàn cán bộ giảng viên, đoàn viên, hội viên đi trao đổi kinh nghiệm, tham
quan, nghiên cứu thực tế trong và ngoài nước theo đúng kế hoạch đã đề ra;
nhà trường đã cử 16 giảng viên đi nghiên cứu biệt phái ở cơ sở.
Hoạt động thao giảng, dự giờ cấp khoa (5/7 đơn vị tổ chức thao giảng
với 176 lượt người tham dự), cấp trường được duy trì.
Công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, thao giảng, dự giờ
đã có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng bồ dưỡng, đào
tạo cán bộ, công chức cho thành phố.
Công tác tài chính, hành chính; chăm lo đời sống vật chất, tinh

thần của cán bộ, viên chức:
Thực hiện chế độ công khai tài chính, tài sản được sử dụng có hiệu
quả, thực hiện kiểm kê, thanh lí theo đúng luật định; cơ sở vật chất của nhà
trường không ngừng được tăng cường;
Lãnh đạo thực hiện tốt chế độ tiền lương, chế độ lao động, gnhỉ ngơi;
duy trì tốt các hoạt động thăm hỏi lúc đau ốm, hiếu hỷ…
Công tác tổ chức, thi đua khen thưởng
Công tác tổ chưc cán bộ được chú ý, đặc biệt sau khi hợp nhất với
trường Hà Tây (cũ), việc săp xếp, bố trí cán bộ nhanh chóng được kiện toàn
đi đôi với việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Nhà trường có Hội đồng thi đua khen thưởng đã bầu chọn được 102
đ/c đạt danh hiệu “lao động tiên tiến”, 14 đ/c đạt danh hiệu “chiến sĩ thi đua
cấp cơ sở”.
Hoạt động đoàn thể:
Nhà trường có Công đoàn, Hội Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên.
Tất cả các tổ chức hội và đoàn thể đều hoạt động tích cực, góp phần thiết
thực vào sự phát triển chung của nhà trường.
5


2. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2010.
Mục tiêu: hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao; xây dựng
Đảng bộ trường vững mạnh, vững mạnh tiêu biểu. Cụ thể: Hoàn thành xây
dựng quy chế giảng dạy và học tập, quy chế sử dụng các nguồn thu quỹ; đổi
mới phương pháp giảng dạy, sử dụng các phương tiện hiện đại; 100% các
khoa tham gia đề tài khoa học; 100% các tổ chức đoàn thể đạt tiêu chuẩn
vững mạnh.
Nhiệm vụ và giải pháp: Nâng cao hiệu quả quản lí, nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
cán bộ, công chức, viên chức;

Kiện toàn bộ máy, tổ chức cán bộ và đổi mới công tác thi đua; Tăng
cường cơ sở vật chất, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí;
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể, xây dựng
Đảng bộ trong sạch vững mạnh, tăng cường công tác kiểm tra.

IV. vài nét về khoa Kinh tế.
1. Về tổ chức.
Khoa Kinh tế là một trong 5 khoa của trường, văn phòng khoa đươc
đặt ở tầng 3 khu nhà, khoa có 12 cán bộ giảng viên:
+ Đồng chí Hoàng Thanh Hải - Trưởng khoa (giảng viên chính, đảng
viên).
+ Đồng chí Đào Duy Dương - Phó khoa (giảng viên chính, đảng viên).
+ Đồng chí Ngân Hà – Phó khoa (giảng viên chính, đảng viên)
2. Chức năng, nhiệm vụ.
- Giảng dạy Kinh tế chính trị Mác-Lênin và 1 số vấn đề về tổ chức
quản lý kinh tế ở Việt Nam.

6


- Nghiên cứu khoa học: trong đó giảng viên chính mỗi năm phải có 3
công trình; giảng viên là 2 công trình.
- Nghiên cứu thực tế và các hoạt động khác của nhà trường.

7


Phần II
Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội thành phố
Hà Nội.

Năm 1010, Hà Nội được vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô và đặt tên
là Thăng Long với lòng mong muốn kinh thành ngày càng phồn thịnh như
Rồng bay lên. Gần mười thế kỷ qua đã minh chứng quyết định ấy là sáng
suốt. Thăng Long xưa và Hà Nội nay luôn luôn là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá của nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, có vị trí xứng đáng
trong khu vực và trên thế giới.
I.

Điều kiện tự nhiên và môi trường Hà Nội.

Hà Nội có nghĩa là: thành phố nằm trong vòng bao quanh của một con
sông. Nơi đây từng là kinh đô trong suốt ba thời kỳ phong kiến thịnh trị Lý,
Trần, Lê và ngày nay là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
Năm 1010, Lý Công Uẩn đã tìm được thành Đại La tức Hà Nội ngày
nay, có thể hội tụ những yêu cầu để trở thành kinh đô của một quốc gia
cường thịnh cả về quân sự và kinh tế. Trong "Chiếu dời đô", hình ảnh:
"Thành Đại La ở giữa bờ cõi đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi, bốn phía
đông, tây, nam, bắc tiện hình thế núi, sông, sau, trước đất rộng, bằng phẳng,
cao ráo, sáng sủa, dân cư không phải khổ vì ngập lụt, muôn vật phồn thịnh.
Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là nơi then chốt của bốn
phương họp lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời...".
Sau gần 1000 năm, Hà Nội ngày nay và Thăng Long xưa khác nhau
nhiều về địa lý, tự nhiên. Nhưng những điểm ưu việt của điều kiện địa lý và

8


tự nhiên của Thăng Long vẫn tạo ra những thế mạnh cho Hà Nội mà hiếm
đâu sánh được.

1. Vị trí
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù
phú. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá và khoa học lớn, đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam.
• Vĩ độ bắc: 20o53' đến 21o23'
• Kinh độ đông: 105o44' đến 106o02'
• Giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam và
Hoà Bình ở phía Nam;Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên ở phía Đông; Hoà
Bình và Phú Thọ ở phía Tây.
2. Địa hình
Hà Nội nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Bắc Bộ. Địa hình cơ bản là
đồng bằng. Trừ huyện Ba Vì có địa hình đồi núi, các huyện Sóc Sơn, Thạch
Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức , thành phố Sơn Tây và một phần
huyện Đông Anh có địa hình gò đồi. Ở Hà Nội có nhiều điểm trũng.
Hà Nội còn có nhiều ao, hồ, đầm là vết tích của con sông Hồng trước
đây đã đi qua. Tiêu biểu cho loại hồ này là Hồ Tây. Hồ Hoàn Kiếm, hồ
Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, hồ Thủ Lệ.
Ngoài các sông lớn như sông Hồng (đoạn đi qua Hà Nội gọi là Nhĩ
Hà), sông Đà, sông Tích, sông Đáy còn có các sông nhỏ như sông Tô Lịch,
sông Lừ, sông Sét, sông Nhuệ, v.v...
3. Khí hậu
Khí hậu Hà Nội là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa
nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít.
• Trung bình hằng năm, nhiệt độ không khí 23,6 oC, độ ẩm 79%, lượng
mưa 1245 mm
9


• Mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Hà Nội có đủ bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông. Sự luân chuyển của các mùa làm cho khí hậu Hà Nội thêm phong

phú, đa dạng và có những nét riêng.
• Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa hè: nóng và thi thoảng có mưa rào.
• Từ tháng 9 đến tháng 11 là mùa thu. Thời tiết khô ráo, trời cao, xanh
ngắt, gió mát, nắng vàng.
• Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là mùa đông: Thời tiết lạnh, khô
ráo.
• Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân: Cây cối xanh tốt.
4. Thực vật và động vật
Việc trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc để khôi phục thảm thực
vật, bảo vệ môi sinh đang được gấp rút thực hiện ở các huyện Ba Vì, Sóc
Sơn. Do có rừng, gần đây đã thấy xuất hiện trở lại nhiều loại chim ăn ngũ
cốc, các loài gậm nhấm và thú rừng (lợn rừng, chồn, sóc, trăn, rắn...) vốn
trước kia có rất nhiều. Các huyện ngoại thành đã hình thành các vành đai rau
xanh, thực phẩm tươi sống (thịt, cá, sữa, trứng) phục vụ nhu cầu đô thị hoá
ngày một cao của thủ đô Hà Nội và dành một phần để xuất khẩu.
5. Cây xanh Hà Nội
Cây xanh là nét đặc trưng làm nên vẻ đẹp của Hà Nội. Có thể kể đến
các loại cây như: xà cừ, hoa sữa, phượng vĩ, cây vông hoa vàng, cây me, lộc
vừng, cây gụ, bằng lăng, dâu da xoan, cây bàng, …
Ngoài ra còn có hàng trăm loại cây và hoa khác nhau góp phần tạo
nên một Hà Nội xanh nên thơ trong con mắt du khách.
II.

Điều kiện kinh tế xã hội Hà Nội.

1. Dân cư
Số dân là: 6.5 triệu người
Mật độ dân số
10



Dân cư Hà Nội phân bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và
giữa các vùng sinh thái. Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2881
người/km2 (mật độ trung bình ở nội thành 19163 người/km2, riêng quận
Hoàn Kiếm là 37265 người/km2, ở ngoại thành 1721 người/km2). Mật độ
này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cả nước, gần gấp đôi mật
độ dân số của vùng đồng bằng sông Hồng và là thành phố có mật độ cao
nhất cả nước.
Nguồn gốc dân cư
Những làng ngoại thành và ven đô cũ thuộc những phường nông
nghiệp thì dân cư ít xáo trộn còn các khu vực vốn là những phường thương
nghiệp và thủ công ở ven cửa sông Hồng và ven sông Tô thì dân cư xáo trộn
nhiều.
Ngoài ra, luồng nhập cư vào Thăng Long làm ăn diễn ra thường
xuyên. Trong sách Thượng Kinh phong vật phú thế kỷ XVIII đã ghi: "Khách
bốn phương, những người thực nơi thượng kinh đua nhau đến ở quanh cả
kinh đô, không lúc nào ngớt, đều cố nhanh chân rảo bước mà đến như tranh
đến kinh đô nước Yên xưa".
2. Các đơn vị hành chính Hà Nội.
Hà Nội tính tới nay gồm các quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà
Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai
và huyện: Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Ba Vì, Phúc
Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Thạch Thất, Quốc Oai, Phú Xuyên, Thường
Tín, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ứng Hoà, Thanh Oai, Mê Linh và thành phố Hà
Đông, thành phố Sơn Tây.
Diện tích tự nhiên của Hà Nội là: 92.180,46 ha.
Dân số: 6.5 triệu người.
3. Hà Nội, đầu não chính trị của nước Việt Nam
11



Hà Nội - mảnh đất có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy
chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ
Việt Nam tự hào là trung tâm đầu não chính trị của Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á với bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 91945, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch
sử trọng đại của dân tộc. Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng
công bố bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Là trái tim đất nước, Hà Nội hội là nơi đặt trụ sở các cơ quan lãnh đạo
của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội. Thủ đô
cũng là nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp
Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và
đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đại sứ
quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại
giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác
được tiến hành tại đây.
Hà Nội tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn mà Việt Nam
đăng cai như Hội nghị cấp cao APEC, Hội nghị cấp cao các nước ASEAN,
SEGAME 22, Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp...
Kinh tế
Năm 2008, Thành phố Hà Nội năm 2008 đã đạt được những kết quả
đáng kể với tốc độ phát triển so với năm trước đạt ở mức độ khá: Tổng sản
phẩm nội địa (GDP) tăng 10,58%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,8%,
tổng mức bán lẻ tăng 31,2%, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 35,5%,
tổng vốn đầu tư xã hội tăng 19,3%.

12


Dự kiến cả năm 2008, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 10,58% so

năm 2007, trong đó ngành công nghiệp mở rộng tăng 11,7%, các ngành dịch
vụ tăng 10,8% và ngành nông, lâm, thuỷ sản tăng 2,7%.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngân sách Nhà nước địa phương đạt
6385,86 tỷ đồng bằng 63,9% kế hoạch cả năm. Cả năm 2008, Hà Nội thu hút
được khoảng 300 dự án, với vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 5 tỷ USD (tăng
53,3%); 12 tháng năm 2008, khách Quốc tế đến Hà Nội là 1255 ngàn lượt
khách; doanh thu du lịch đạt 10 135 tỷ đồng tăng 28,5% so với năm 2007.
Văn hoá
Tất cả các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản cấp quốc gia đều đóng
tại Hà Nội. Hà Nội có riêng một Đài phát thanh và Truyền hình Hà Nội, báo
hàng ngày có tờ "Hà Nội mới", và tờ “Kinh tế đô thị Hà Nội”, bảy tờ tuần
báo hoặc ra tuần nhiều kỳ, một tạp chí, hàng chục bản tin chuyên đề. Nhà
xuất bản Hà Nội mỗi năm ra hàng trăm đầu sách, mà sách về đề tài Hà Nội
chiếm tỷ trọng hàng đầu. Bên cạnh đó là các xưởng phim, nhà hát quốc gia,
nhà bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ, rạp hát, chiếu bóng, hiệu
sách,... di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc và cách mạng. Hà Nội là một trong
những địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng nếp sống văn minh và
gia đình văn hóa mới.
Giáo dục và đào tạo
Nếu như cách đây gần 1000 năm, Thăng Long đã có Văn Miếu-Quốc
Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta, thì nay Hà Nội là nơi tập
trung 44 trường đại học và cao đẳng với hơn 330 nghìn học sinh - sinh viên,
25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học viên. Hà Nội còn là địa
phương đầu tiên trong cả nước được công nhận phổ cập xong cấp trung học
cơ sở.
Khoa học
13


Với hơn một trăm viện nghiên cứu ở hai trung tâm Khoa học tự

nhiên và Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, ở các học viện và các bộ,
các ngành, hội tụ các chuyên gia đầu ngành. Hằng năm, Hà Nội tổ chức một
số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa
phương. Phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia đều
được thực hiện và bảo vệ đề tài tại Hà Nội.
Thể thao
Hà Nội là một trong hai trung tâm huấn luyện tài năng thể thao lớn
của đất nước. Với cơ sở vật chất được tập trung đầu tư xây dựng khang
trang, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu tập luyện và thi đấu thể thao theo tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế.
Y tế
Để bảo vệ sức khỏe nhân dân, y tế Hà Nội không ngừng phát triển và
ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại kết hợp với nền y học cổ truyền trong
chữa trị, chủ động phòng bệnh và loai bỏ các bệnh xã hội. So với năm 1954,
số bệnh viện tăng hơn bốn lần, số y, bác sỹ, y tá tăng 27 lần.

14


Phần III
Kế hoạch thực tập
I. Mục đích, yêu cầu.
- Tiếp cận thực tế giảng dạy trên lớp và các hoạt động chuyên môn của các
giảng viên trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, mà trực tiếp là giảng viên
khoa Kinh tế.
- Thực hành soạn giáo án đồng thời rèn luyện kĩ năng, phương pháp giảng
dạy trên lớp đối với đối tượng là học viên các lớp trung cấp chính trị.
- Tìm hiểu về các họat động của khoa và nhà trường để hiểu biết về nhiệm
vụ, chức năng và các quan hệ công tác của giảng viên để tạo cơ sở cho công tác
sau khi tôt nghiệp.

- Nâng cao ý thức học tập và rèn luyện, bồi dưỡng tinh thần say mê nghề
nghiệp đối với ngành đào tạo của mình.

II. Nhiệm vụ.
- Chủ động dự giảng các lớp của giảng viên trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong. Trên cơ sở đó, hiểu về phương pháp, các hình thức giảng dạy, kĩ
nằng, nghiệp vụ của giảng viên; về đối tượng học viên (về trình độ, độ tuổi, nghề
nghiệp, tìm hiểu phẩm chất chính trị, khả năng tiếp thu bài trên lớp, tự nghiên
cứu, các hoạt động tập thể, chính trị, xã hội…), tìm hiểu về chương trình và kế
hoạch đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường, khoa;
- Thực hiện soạn giảng ít nhất hai bài giảng môn kinh tế chính trị Mác –
Lênin trong chương trình trung cấp chính trị hành chính. Liên hệ với cán bộ
giảng viên khoa Kinh tế trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong để được hướng
dẫn, hoàn thiện bài soạn giảng của mình. Trên cơ sở bài soạn giảng, chủ động

15


thực hành phương pháp giảng trên lớp và thực hiện giờ giảng vào cuối đợt thực
tập theo sự sắp xếp của khoa.
- Ngoài ra phải thực hiện trực ban tại văn phòng khoa theo sự phân công
của cả nhóm. Qua đó, tìm hiểu những nhiệm vụ của khoa, nhiệm vụ, chức năng,
quan hệ công tác của các giảng viên trong khoa.
- Tìm hiểu nhiệm vụ, chức năng của các phòng ban trong nhà trường; tìm
hiểu thực tiễn kinh tế xã hội, đời sống của nhân dân địa phương, tác động của nó
đối với hoạt động của trường.

III. Tổ chức thực hiện.
1. Thời gian, địa điểm.
Thời gian từ ngày 14/03/2011 đến hết ngày 18/03/2011. Căn cứ vào lịch

công tác của khoa, trường và phan công của nhóm mà thực hiện các công việc.
Cụ thể:
- Ngày 14/03/2011, trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, khoa Kinh tế
tiếp đoàn sinh viên thực tập, quán triệt nội quy, quy định, nội dung thực tập và
phân công công việc cho đoàn.
- Từ ngày 14/03/2011 đến ngày 06/05/2011, thực hiện phân công trực văn
phòng khoa, đi dự giảng, đồng thời thực hiện kế hoạch giao lưu với cán bộ giảng
viên khoa kinh tế. Chọn bài soạn giảng, liên hệ với khoa để được giảng viên
hướng dẫn.
- Từ 15/03 đến 28/03/2011: (2 tuần), với sự hướng dẫn của giảng viên,
hoàn thành việc soạn giáo án. Tiếp tục thực hiện trực văn phòng khoa và dự
giảng.
- Từ 29/03 đến 11/04/2011: (2 tuần), thực hành, phương pháp giảng, hoàn
thiện bài giảng của mình.

16


- Từ 12/04 đến 18/04/2011: (1 tuần), giảng bài giảng của mình theo yêu
cầu của khoa Kinh tế (giảng trước Hội đồng hoặc trước lớp).
- Từ 19/04 đến 25/04/2011: (1 tuần), viết báo cáo thực tập đồng thời xin ý
kiến nhận xét của khoa Kinh tế, trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
- Ngày 6/5/2011, kết thúc đợt thực tập.
2. Phương thức tiến hành.
Liên hệ, thực hiện theo sự phân công của khoa Kinh tế, của nhóm theo kế
hoạch thực tập cho từng tuần và cả đợt thực tập.
Tập trung chủ yếu vào các hoạt động:
+ Dự giảng các giờ giảng của khoa Kinh tế cũng như các khoa khác.
+ Thực hành soạn và giảng bài.
+ Trực ban tại văn phòng khoa.

+ Hoạt động ngoại khóa, thâm nhập thực tế, tìm hiểu hoạt động, chức năng
của các phòng ban, khoa trong trường cũng như tình hình kinh tế xã hội địa
phương.

17


Phần bốn:
Tình hình đợt thực tập
I. Hoạt động dự giảng.
Cá nhân đã chủ động dự một số giờ giảng tại lớp 15A K9 các môn học
Kinh tế chính trị, Quản lý kinh tế thuộc chương trình trung cấp lý luận chính
trị hành chính. Cụ thể là:
- Sáng 11/03, dự giờ bài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
- Cả ngày 15/03, dự giờ bài “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
- Cả ngày 17/03, dự giờ bài “Các hình thức phân phối thu nhập cá nhân
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Qua hoạt động dự giờ, bản thân đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích. Cụ
thể là:
Thứ nhất, tiếp thu về phương pháp giảng dạy trên lớp từ giảng viên
khoa Kinh tế. Bản thân đã học hỏi được từ giảng viên của khoa về việc vận
dụng kiến thức giảng dạy, giải quyết các tình huống sư phạm, quan hệ với
Học viên... Giảng viên chủ động bám sát nội dung của giáo trình, đồng thời
mở rộng vấn đề bằng cách lấy ví dụ minh hoạ cụ thể về tình hình thực tiễn ở
địa phương, quốc gia, quốc tế làm cho bài giảng thêm phong phú, hấp dẫn,
giúp cho học viên tiếp thu tốt hơn, sâu sắc hơn. Trong quá trình giảng, giảng
viên thường nêu câu hỏi, cách thức tiếp cận sự kiện để khảo sát trình độ tư
duy của học viên cũng như nâng cao tính tích cực, chủ động và sáng tạo của

họ.
Thứ hai, tìm hiểu về đối tượng học viên lớp trung cấp lý luận chính trị
hành chính. Cụ thể là về độ tuổi, nghề nghiệp công tác, thái độ học tập, quan
18


điểm về các nội dung lý luận... Trong thời gian thực tập tại Trường đào tạo
cán bộ Lê Hồng Phong, em được dự giảng tại lớp Trung cấp lý luận chính trị
hành chính 15A-09. Lớp có 48 học viên ở các quận, huyện, các phòng giáo
dục, các trường trung học cơ sở, tiểu học của thành phố thành phố. Bình quân
Nữ từ 25 tuổi trở lên, Nam là 30 tuổi. Học viên đều là cán bộ chủ chốt: dự
nguồn, cấp trưởng, phó trong các phòng giáo dục, các trường. Về trình độ:
đại học, cao đẳng trở nên. Nhìn chung, trình độ học viên tương đối đồng đều.

II.

Trực văn phòng khoa.

Trong suốt thời gian thực tập, ngoài việc tham gia dự giờ giảng thì
hàng tuần cá nhân sinh viên thực tập còn thường xuyên thực hiện việc trực
văn phòng khoa theo sự phân công của nhóm. Qua việc trực văn phòng mà
tìm hiểu về môi trường làm việc ở khoa, nhà trường, về các hoạt động hàng
ngày cùng những mối quan hệ công tác. Hiểu được cơ cấu tổ chức cũng như
chức năng, nhiệm vụ của khoa, của cán bộ giảng viên trong khoa.
Thông qua việc trực văn phòng khoa mà tìm hiểu được về cơ cấu tổ
chức của trường chính trị nói chung, khoa Kinh tế nói riêng. Tìm hiểu về
chức năng hoạt động của các phòng ban trong trường, nhiệm vụ của cán bộ
giảng viên. Việc tiếp xúc thực tế tại khoa cũng giúp bản thân hiểu thêm về
khoa Kinh tế, về các hoạt động hàng ngày của khoa, về quan hệ công tác...


III. Hoạt động soạn và giảng bài.
Trong thời gian thực tập vừa qua, theo sự phân công của khoa, ca
nhân sinh viên thực tập đã chủ động dăng kí hai bài soạn giảng, bao gồm:
- Bài 3: Tích lũy tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng
dư.
19


- Bài 8: Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bản thân đã chủ động trong việc thu thập tài liệu, giáo trình, sách
báo... để soạn bài giảng nói trên, đồng thời liên hệ với giảng viên hướng dẫn
để nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ trong soạn bài cũng như tập giảng, về
cả nội dung kiến thức lẫn kĩ năng giảng dạy.
Vận dụng những kiến thức đã được học về giảng dạy kinh tế chính trị,
sinh viên đã chủ động thực hành, rèn luyện phương pháp giảng, từ đó tự rút
kinh nghiệm, hoàn thiện bài giảng của mình. Thực hiện tiết giảng trước Hội
đồng gồm cán bộ giảng viên khoa Kinh tế.
Thông qua việc soạn bài mà vận dụng được các kiến thức đã học về
phương pháp soạn giáo án. Không những vậy còn giúp bản thân hệ thống lại
kiến thức kinh tế chính trị, rèn luyện tính tư duy khoa học, khả năng liện hệ
kiến thức lý luận với thực tiễn, rèn luyện tinh thần làm việc nghiêm túc,
khoa học...
Sau khi soạn giáo án, bản thân đã chủ động trong việc tập giảng, từ đó
rút ra nhiều kinh nghiệm về phương pháp, tự hoàn thiện được bài giảng của
mình. Việc tập giảng cũng giúp bản thân tự tin hơn khi đứng trước lớp trong
giải quyết các tình huống sư phạm trong thực tế. Với việc soạn giảng và tập
giảng nghiêm túc, đã giúp thực hiện tiết giảng trước hội đồng đạt được
những kết quả nhất định, nắm chắc được kiến thức bài giảng, tự tin hơn khi
đứng trước hội đồng, vận dụng được một số phưưong pháp giảng.


IV. Các hoạt động khác.
Bên cạnh việc dự giờ giảng, trực văn phòng, soạn giảng và giảng bài,
còn chủ động tham gia các hoạt động giao lưu với cán bộ giảng viên trong

20


khoa Kinh tế từ đó học hỏi những kinh nghiệm trong chuyên môn giảng dạy
cũng như kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống.
Ngoài ra còn cùng với nhóm thực tập tổ chức đi thực tế, tìm hiểu tình
hình kinh tế - xã hội ở một số địa phương như Hà Nội, Phú Thọ, Ninh Bình,
Bắc Giang. Đó đều là những chuyến đi bổ ích, góp phần bồi dưỡng kiến thức
thực tiễn.
Ngoài việc trực văn phòng, dự giờ giảng và soạn giảng, bản thân còn
cùng với nhóm tích cực tham gia các hoạt động khác như giao lưu với cán
bộ giảng viên khoa Kinh tế, đi thực tế ở một số địa phương. Qua đó mà học
hỏi được thêm từ những người đi trước cả về chuyên môn giảng dạy lẫn kinh
nghiệm trong cuộc sống. Việc đi thực tiễn ở một số địa phương giúp thu
thập những thông tin về thực tiễn tình hình kinh tế xã hội cũng như đời sống
văn hóa ở địa phương đó. Nhũng thông tin thu thập được đó sẽ rất bổ ích cho
việc liên hệ kiến thức trong bài giảng.

V. Đánh giá chung và phương hướng phấn đấu.
Qua quá trình thực tập gần 2 tháng, bản thân thấy tiếp thu được rất
nhiều điều, về môi trường làm việc, cơ cấu tổ chức, quan hệ công tác trong
trường chính trị, về phương pháp giảng dạy thực tế, về những công việc cụ
thể của một giảng viên lý luận chính trị hành chính, về thực tế tình hình kinh
tế xã hội địa phương...
Bản thân thấy trưởng thành hơn trong các quan hệ xã hội, việc giải

quyết các tình huống trong cuộc sống, vững vàng hơn về tư tưởng, lập
trường chính trị.
Qua những điều bổ ích đã thu thập được, bản thân dần thấy yêu thích
hoạt động giảng dạy cũng như môi trường làm việc ở các trường chính trị.
Từ đó mà có những định hướng về công việc sau khi tốt nghiệp. Phấn đấu
21


hoàn thiện bản thân, về lập trường tư tưởng, về các mối quan hệ công tác, về
phương pháp giảng dạy cũng như không ngừng trau rồi thêm về kiến thức lý
luận nói chung, kinh tế chính trị nói riêng.

VI. Những thu hoạch sâu sắc trong đợt thực tập:
Trong thời gian thực tập tại Trường, em đã nắm được những kiến thức
thực tiễn, đó là tìm hiểu được tình hình kinh tế - chính trị, văn hoá – xã hội
của thành phố Hà Nội được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng, qua việc liên hệ thực tiễn trong các bài giảng và qua việc quan sát
thực tế.
Phương pháp sư phạm và trình độ của người giảng viên có ý nghĩa rất
quan trọng, vấn đề về tâm lý, phong thái khi đứng trước đối tượng là đông
đảo các học viên làm ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng.
Người giảng viên không những phải nắm vững kiến thức chuyên môn
mà đối với những lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng phải có những sự
hiểu biết nhất định. Không ngừng trao đổi với học viên, với những người có
kinh nghiệm trong công tác giảng dạy để đổi mới cách thức, phương pháp
truyền đạt, diễn đạt sao cho phù hợp với đối tượng và nội dung bài giảng.
Nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách thường xuyên nghiên cứu tài liệu, bổ
sung kiến thức mới, gắn lý luận với thực tiễn.
Qua việc dự giảng và trao đổi học hỏi kinh nghiệm với các thầy cô
giảng viên của trường đã giúp e hiểu rõ hơn về vái trò của người giảng viên

chính trị, về cách thực soạn giảng, cách thức tổ chức quản lý lớp và nắm bắt
tâm lý học viên.

22


Phần năm:
Những đề xuất, kiến nghị:
Đối với Trường Lê Hồng Phong, kính mong ban chỉ đạo thực tập tiếp
tục theo sát hơn nữa quá trình thực tập của sinh viên, hướng dẫn sinh viên
xây dựng kế hoạch và thực tập có hiệu quả. Sau đợt thực tập, ban chỉ đạo
cần tổng kết, đánh giá, nêu ra những mặt tích cực và hạn chế của sinh viên.
Cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất Nhà trường, hoàn thiện, kiện
toàn quy chế tổ chức, đào tạo của Trường.
Tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội giao lưu, học môn chuyên
ngành và tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội thực tế ở địa phương.
Khi tổ chức cho sinh viên đi thực tập, Học viện cần tăng cường kiểm
tra, giám sát cũng như hướng dẫn, giải quyết những khó khăn mà sinh viên
có thể gặp phải trong kỳ thực tập.
Kính mong trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, mà trực tiếp là
khoa Kinh tế quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đoàn thực tập các khóa
sau, cụ thể: hướng dẫn các nội dung công việc; tạo điều kiện cho sinh viên
thực tập dự một số giờ giảng; cử giảng viên hướng dẫn soạn giáo án, hướng
dẫn giảng; tạo điều kiện để sinh viên thực tập được thực hành giảng bài trên
lớp...
Các thành viên trong đoàn thực tập tích cực, chủ động hoàn thành các
kế hoạch của khoa, của nhóm, cũng như kế hoạch cá nhân, hoàn thiện bài
soạn, giảng của cá nhân. Thể hiện thái độ lịch sự, lễ phép, gần gũi, tinh thần
ham học hỏi đối với cán bộ, giảng viên nơi thực tập; thực hiện nghiêm chỉnh
nội quy, quy định nơi thực tập. Thường xuyên trao đổi, phối hợp, giúp đỡ

các thành viên khác trong đoàn để hoàn thành công việc.

23


Kết luận
Qua thời gian thực tập tại trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong từ
ngày 14/3/2011 đến ngày 06/05/2011, bản thân em được thu hoạch được
những kết quả như đã trình bày trong bản báo cáo.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục lý luận chính trị có vai trò hết sức
quan trọng, nhằm trang bị cho tất cả sinh viên kiến thức cơ bản nhất. Đồng
thời, nó góp làm cho sự thống nhất về tư tưởng, quan điểm trong cán bộ
đảng viên, đặc biệt là cán bộ cơ sở. Vì vậy, việc học tập lý luận ở các trường
đối với cán bộ đảng viên còn được nâng cao hơn nữa về chất lượng. Để nâng
cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cần có các giải pháp đồng bộ từ
việc tổ chức học tập, giảng dạy cho đến các phương pháp năng lực của giảng
viên. Trong quá trình này người giảng viên có vai trò rất quan trọng, không
những tự mình phải có kế hoạch học tập, tích cực phản ánh để xuất với các
cấp lãnh đạo và các biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó
người giảng viên không chỉ có những kiến thức lý luận mà còn phải am hiểu
những vấn đề trong thực tế xã hội để phù hợp với tình hình mới. Cùng như
làm thế nào để có cách giảng dễ hiểu, dễ tiếp thu cho học viên.
Trên đây là những gì bản thân em thu hoạch được trong đợt thực
tập vừa qua, đó thực sự là những điều bổ ích, góp phần giúp sinh viên
hoàn thiện bản thân và định hướng tương lai.
Em xin được gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo Học viện Báo chí &
Tuyên truyền, trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, khoa Kinh tế cùng
toàn thể cán bộ giảng viên nhà trường đã tạo điều kiện cho sinh viên thực
tập hoàn thành tốt nhiệm vụ trong đợt thực tập vừa qua!
Hà Nội ngày 28 tháng 04 năm 2011

24



×