Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên Cứu Sự Thay Đổi Cơ Cấu Sử Dụng Đất Phi Nông Nghiệp Của Huyện Tân Yên Tỉnh Bắc Giang Giai Đoạn 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.35 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------

----------

ĐINH THỊ HỒNG THÚY

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CƠ CẤU SỬ DỤNG
ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP CỦA HUYỆN TÂN YÊN
TỈNH BẮC GIANG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số

: 60 85 01 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ HÙNG

THÁI NGUYÊN - 2012


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
khu dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Việc sử dụng hợp lý đất đai để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và đảm
bảo sự phát triển bền vững là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và


Nhà nước ta.
Điều 18, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý theo
quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, có hiệu quả.
Trải qua hai mươi năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những kết quả to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nền
kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định.
Kinh tế càng phát triển, quá trình công nghiệp hoá nông thôn được đẩy mạnh
góp phần làm cho đời sống của người dân từng bước được cải thiện. Mặt khác, dưới
áp lực của sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế nông thôn, nhu cầu của người
dân ngày càng nâng cao. Từ đó, xuất hiện nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất
theo xu thế từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp.
Quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ khắp cả nước, sự phát triển các khu
công nghiệp trong thời gian qua đã góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là đối với các tỉnh thuần nông.
Tuy nhiên việc ưu tiên thu hút đầu tư để phát triển các khu công nghiệp đã tạo nên
sự mất cân đối trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nhất là đối với những vùng
đất chật người đông như đồng bằng sông Hồng. Một số diện tích đất phù sa màu mỡ
chuyên trồng lúa đã phải chuyển sang sử dụng làm mặt bằng sản xuất công nghiệp
trong khi có thể sử dụng diện tích ở những vị trí khác hợp lý hơn. Người nông dân
có đất bị thu hồi chưa được giúp đỡ trong việc sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ vào
việc đầu tư phát triển sản xuất nên đời sống gặp khó khăn và không ổn định. Bên
cạnh đó, hoạt động của nhiều khu công nghiệp chưa chấp hành nghiêm Luật Môi


2
trường, vi phạm các cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Từ đó dẫn
đến tài nguyên đất bị suy thoái, môi trường bị ô nhiễm, đời sống người nông dân
trong vùng phát triển công nghiệp còn bấp bênh, ngay cả trong vùng nông nghiệp
thì việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng mang tính tự phát không theo

quy hoạch... Nhiều văn bản pháp luật quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã không được đáp ứng kịp thời nhu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Tất cả những vấn đề đó đe doạ tính bền vững trong quá trình phát triển.
Bắc Giang là một tỉnh trung du miền núi, đang trên con đường chuyển dịch
kinh tế mạnh mẽ, là một trong những tỉnh có nền kinh tế năng động của cả nước.
Tỉnh nằm trên tuyến đường hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Bắc Giang có hệ
thống giao thông thuận tiện bao gồm cả đường bộ, đường sắt, và đường thuỷ tới thủ
đô Hà Nội, cửa khẩu quốc tế Lạng Sơn, sân bay quốc tế Nội Bài, cảng biển quốc tế
Hải Phòng, Cái Lân… Đây là những yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội
của Bắc Giang.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI
năm 2005 về việc triển khai các chương trình phát triển công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp và thương mại trên địa bàn tỉnh. Tỉnh đã đầu tư vốn xây dựng công nghệ tiên
tiến, kỹ thuật hiện đại, tạo ra sản phẩm đẹp, chất lượng cao, giá thành hạ góp phần tạo
việc làm, tăng thu nhập nâng cao đời sống của người dân.
Cùng với xu hướng của tỉnh Bắc Giang nói chung, huyện Tân Yên nói riêng đang
bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế mạnh mẽ, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đang được tập trung đầu tư, đòi hỏi sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng các loại đất nhằm đáp
ứng nhu cầu tăng cường cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các khu công nghiệp, phát
triển dịch vụ - du lịch, xây dựng các công trình phúc lợi và thực hiện đô thị hoá.
Song song với đó thì đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, rác thải ô nhiễm
môi trường ngày càng gia tăng. Các quá trình này đã và đang gây áp lực mạnh mẽ
đến việc quản lý và sử dụng đất bền vững của huyện.
Vì vậy, một vấn đề đặt ra là: việc nghiên cứu thực trạng quá trình chuyển đổi
cơ cấu sử dụng đất khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và


3
nông thôn để tìm được nguyên nhân và ảnh hưởng của quá trình này đã và đang tác

động như thế nào tới quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn trên các mặt: kinh
tế - xã hội - môi trường trên địa bàn huyện, từ đó đề xuất những giải pháp quản lý,
sử dụng đất hợp lý đem lại hiệu quả cao và bền vững là rất cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, được sự hướng dẫn của PGS - TS. Nguyễn
Thế Hùng, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất
phi nông nghiệp của huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2006 - 2010”.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng việc thay đổi cơ cấu sử dụng đất phi
nông nghiệp nhằm phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của huyện Tân
Yên giai đoạn 2006 - 2010.
- Đánh giá tác động của quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phi nông
nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Tân Yên.
- Đề xuất định hướng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phi nông nghiệp và các
giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của địa phương giai đoạn 2011 - 2020.
2.2. Yêu cầu
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở số liệu điều tra trung thực, chính xác, đảm bảo
độ tin cậy và phản ánh đúng thực trạng sử dụng đất trên địa bàn nghiên cứu.
- Việc phân tích, xử lý số liệu trên cơ sở khoa học, có định tính, định lượng
bằng các phương pháp nghiên cứu thích hợp.
- Đánh giá đúng thực trạng, đề xuất những giải pháp, kiến nghị trong việc sử
dụng đất bền vững trên cơ sở tuân thủ Luật đất đai, Luật bảo vệ Môi trường và một
số Luật có liên quan. Đồng thời việc phát triển phải phù hợp với điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội của địa phương nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, đảm bảo tính ổn
định, bền vững trong quá trình phát triển.


4
Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lý luận về phát triển bền vững và sử dụng đất bền vững
1.1.1. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững
1.1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai đảm bảo
sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: kinh tế, xã hội, môi trường.
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật
chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng
thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên, phát triển phải kết hợp chặt
chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường [24].
1.1.1.2. Những lý luận cơ bản về phát triển bền vững
+ Bền vững về kinh tế
Phát triển bền vững về kinh tế là việc đảm bảo kết hợp hài hoà giữa mục tiêu
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế
với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công
nghệ đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định
với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân,
tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nợ nần lớn
cho các thế hệ mai sau.
+ Phát triển bền vững về xã hội
Phát triển bền vững về xã hội là việc phải xây dựng một xã hội có nền kinh
tế tăng trưởng nhanh, ổn định, đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ xã hội, trong
đó, giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện
cho mọi đối tượng trong xã hội. Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là nâng cao
chất lượng cuộc sống, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm



5
tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư,
giảm các tệ nạn xã hội.
+ Phát triển bền vững về môi trường
Phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tái tạo
trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về số lượng và chất lượng,
các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất. Môi
trường tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên....) và môi trường xã hội
(dân số, chất lượng dân số, sức khỏe, môi trường sống, lao động và học tập của con
người...) không bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các
nguồn phế thải từ sản xuất và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường
được bảo đảm, con người được sống trong môi trường sạch.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn xử lý và
kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống, bảo vệ được
các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa
dạng sinh học, khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường [24].
1.1.2. Lý luận về sử dụng đất bền vững
1.1.2.1. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Những người trực tiếp sử dụng đất và những người có liên quan đến việc sử
dụng đất có những lợi ích khác nhau về việc sử dụng đất. Đất là nguồn tài nguyên
được sử dụng để thoả mãn nhu cầu cho những người có mối quan hệ gắn bó với đất.
Có những vấn đề ưu tiên trước mắt và có những vấn đề lâu dài, tuỳ thuộc vào mục
tiêu của từng người sử dụng đất, từ đó họ có những quyết định sử dụng đất theo
hướng mục tiêu của mình.
Vấn đề ưu tiên trước mắt của người nông dân là sản xuất lương thực và thu
nhập. Do đó các quyết định sử dụng đất của người nông dân với những mục tiêu
cho thời gian gần, còn các lợi ích về lâu dài thường ít được chú trọng và quan tâm.
Một cộng đồng lớn hơn - như ở cấp quốc gia - cũng là một đối tượng sử
dụng đất theo cách nhìn nhận đất đai được dùng cho: đô thị, điều kiện cơ sở vật

chất, công nghiệp, giải trí.... Ở phạm vi này, các mục tiêu cơ bản là nâng cao mức


6
sống và đáp ứng mọi nhu cầu của người dân. Các mục tiêu của quốc gia có xu
hướng lâu dài, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên cho tương lai. Vì vậy, thường
tồn tại một sự phân biệt cơ bản về lợi ích giữa các mục tiêu của người sử dụng đất
thực tế và của cộng đồng nơi họ sinh sống. Cộng đồng - dù là địa phương, tỉnh hoặc
quốc gia - sẽ thường xuyên cố gắng gây ảnh hưởng lên cách thức sử dụng đất hoặc
là bằng việc mở rộng các chương trình, trợ cấp hoặc là bằng pháp luật.
Vậy trong sử dụng đất đai phải tính đến lợi ích đa dạng của mọi tổ chức, cá
nhân từ lợi ích của người sử dụng đất trực tiếp, lợi ích của khu vực, lợi ích địa
phương và lợi ích quốc gia.
Ngoài ra, việc sử dụng đất của người dân và quốc gia này cũng ảnh hưởng
tới các nước lân cận và các nước khác trên toàn thế giới. Đó là tình hình ô nhiễm
hoặc những tác động có hại gây ảnh hưởng từ nước này sang nước khác, hoặc là nơi
mà các hoạt động của một nước hoặc một nhóm các nước trong khu vực gây ảnh
hưởng đến các hệ thống toàn cầu làm tổn hại tới tất cả chúng ta.[7]
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
+ Nhân tố tự nhiên
Con người sử dụng đất đai thường bao gồm 2 mặt sau: một là trực tiếp sử
dụng đất cho các yêu cầu sinh hoạt tiêu dùng, hai là dùng làm tư liệu sản xuất.
- Điều kiện khí hậu: Đất đai, ngoài không gian bề mặt như đất trồng trọt, đất
xây dựng, còn gồm những yếu tố bao quanh mặt đất như ánh sáng, nhiệt độ, không
khí và các khoáng sản dưới lòng đất. Đất đai vốn là một trạng thái vật chất của tự
nhiên. Do vậy, khi sử dụng đất phải tính đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên
và quy luật sinh thái tự nhiên.
- Điều kiện đất: Chủ yếu là điều kiện địa lý và thổ nhưỡng. Sự sai khác giữa
đá mẹ, địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào
mòn mặt đất và mức độ xói mòn... dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó

ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố ngành nông, lâm nghiệp, hình thành sự phân dị
địa hình theo chiều thẳng đứng của nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến
phương hướng sử dụng đất và xây dựng đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và canh tác
bằng máy móc, cũng ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp.[17]


7
Đặc điểm của nhân tố điều kiện tự nhiên nói trên là có tính khu vực. Do vị trí
địa lý của vùng quyết định sự sai khác về tình trạng nguồn nước, nhiệt độ, ánh sáng và
các điều kiện tự nhiên khác của đất đai, ở một mức độ tương đối lớn, chúng quyết định
khả năng sử dụng của đất đai. Vị trí của đất đai và mức độ thuận lợi, khó khăn, quyết
định công dụng tối ưu và hiệu quả sử dụng đất đai. Do vậy, trong quá trình thực tiễn
nên sử dụng theo quy luật tự nhiên, phục tùng điều kiện tự nhiên, lợi dụng thế mạnh,
tận dụng mặt có lợi để có thể đạt tới sử dụng đất với hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và
môi trường [7].
+ Nhân tố kinh tế - xã hội
Nhân tố xã hội chủ yếu là dân số và lực lượng lao động, nhu cầu của xã hội,
thông tin, quản lý, chế độ xã hội, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu
cầu quốc phòng, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu
kinh tế và bố cục sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử
dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn
nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Nhân tố kinh tế - xã hội thường có tác dụng quyết định đối với sử dụng đất
đai. Việc xác định phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của
xã hội và một mục tiêu kinh tế nhất định.
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội kết hợp
gây ảnh hưởng tổng hợp đến việc sử dụng đất đai. Do đó, cần phải dựa vào quy luật
tự nhiên và quy luật kinh tế xã hội, nhằm vào các nhân tố xã hội và nhân tố tự nhiên
của việc sử dụng đất để nghiên cứu và xử lý mối quan hệ giữa các nhân tố này. Căn

cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp
chặt chẽ yêu cầu của sử dụng với ưu thế tài nguyên của đất đai, để đạt tới cơ cấu
tổng thể cao nhất, làm cho số đất hữu hạn này cho hiệu quả kinh tế - xã hội ngày
càng cao và sử dụng được bền vững [13].
+ Nhân tố không gian
Đất là nơi sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng để
sản xuất ra sản phẩm. Đối với ngành phi sản xuất như đất xây dựng, nó cung cấp


8
không gian mà không sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Trên thực tế, dù cho đất được
dùng cho sản xuất hoặc phi sản xuất, nó đều cung cấp khả năng phục vụ về không
gian. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng, đều là những nhu cầu không thể
thiếu đối với ngành sản xuất vật chất và phi sản xuất, mọi hoạt động kinh tế và hoạt
động xã hội đều cần đến. Chính vì vậy, không gian cũng là một trong những nhân tố
hạn chế đến sử dụng đất.
Sự cố định bất biến của tổng diện tích đất đai, không chỉ hạn chế sự mở rộng
không gian sử dụng đất, mà còn qui định giới hạn thay đổi của cơ cấu dùng đất. Do
vậy, trong khi tiến hành điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất, cần phải chú ý tới yêu cầu
của xã hội đối với loại đất và số lượng đất đai mà sản xuất cần, đồng thời xác định
sức sản xuất và diện tích cần có để đảm bảo sức tải của đất đai [17].
1.1.2.3. Xu thế phát triển sử dụng đất
+ Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung
Quá trình phát triển xã hội, cũng là quá trình diễn biến sử dụng đất. Theo
mức tăng trưởng của dân số và sự phát triển của kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ
thuật, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu
cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân cũng ngày càng cao, sự phát
triển của các ngành nghề cũng theo xu hướng ngày càng phức tạp và đa dạng,
phạm vi sử dụng đất ngày càng gia tăng, từ một vùng có tính cục bộ phát triển ra
nhiều vùng kể cả những vùng đất mà trước kia chưa có khả năng khai thác sử

dụng. Không chỉ phát triển theo không gian, mà trình độ tập trung cao hơn nhiều.
Cho dù là đất canh tác hoặc đất phi canh tác cũng đều phát triển theo hướng kinh
doanh tập trung, đất ít, hiệu quả cao [7].
+ Cơ cấu sử dụng đất phát triển theo hướng đa dạng hoá và chuyên
môn hoá
Theo đà phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội, cơ cấu sử dụng
đất cũng chuyển dần sang xu thế phức tạp hoá và chuyên môn hoá, yêu cầu của con
người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao, chúng sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp có yêu cầu cao hơn đối với đất đai. Khi con người có mức sống còn
thấp, đang còn đấu tranh với cuộc sống, thì việc sử dụng đất thường mới tập trung


9
vào nông nghiệp, nhất là vấn đề ăn, mặc, ở, nhưng khi cuộc sống đã nâng cao, bước
vào giai đoạn hưởng thụ, trong sử dụng đất còn nghĩ tới nhu cầu vui chơi văn hóa,
thể thao và môi trường...[7]
+ Sử dụng đất đai theo hướng xã hội hoá và công hữu hoá
Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và xã hội dẫn tới việc xã hội hoá sản
xuất, một vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một loại sản phẩm là tiền đề cho nơi
khác sản xuất tập trung sản phẩm khác. Sự hỗ trợ bổ sung lẫn nhau hình thành sự
phân công hợp tác, sự xã hội hoá sản xuất này cũng là xã hội hoá trong sử dụng đất.
Xã hội hoá sử dụng đất là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội hoá sản
xuất, nó được quyết định bởi yêu cầu khách quan của xã hội hoá sản xuất, cho nên
xã hội hoá sử dụng đất và công hữu hoá là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển,
thúc đẩy cao hơn nữa xã hội hóa sản xuất, về cơ bản phải thực hiện xã hội hoá và
công hữu hoá sử dụng đất [7].
1.1.2.4. Sử dụng đất đai bền vững với các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu kinh tế
Sử dụng đất đai bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những mục tiêu kinh
tế trong sử dụng đất đai giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn hơn, có lúc

trùng với nhau và có lúc không trùng nhau.
Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất đai của mình luôn đặt ra mục tiêu
làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng. Nếu thấy việc đó không có lợi họ có thể
thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc nếu việc canh tác không có lợi
họ có thể bán phần đất của họ cho người nông dân khác. Trong khi đó cộng đồng
(xã, huyện, tỉnh, cả nước) luôn có những mối quan tâm kinh tế lâu dài trong sử dụng
đất đai.
Như vậy, các mối quan tâm kinh tế nhất thời của người sử dụng đất cụ thể
mâu thuẫn với mối quan tâm lâu dài của cả cộng đồng [7]
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu xã hội
Việc tạo ra công ăn việc làm trong quá trình phát triển bền vững là một
phương pháp hữu hiệu, nhằm cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu là kinh tế, xã hội và
môi trường [7]. Những nhu cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công cộng


10
hoặc các phương tiện phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập... Ngoài ra,
còn tạo ra một ý thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai của họ.
Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ về
việc sử dụng đất đai. Đó là việc sử dụng đất đai của thế hệ hiện tại không nghĩ đến
lợi ích của các thế hệ con cháu mai sau.
Tóm lại, mục tiêu xã hội luôn thay đổi và biến động theo từng thời kỳ, điều
đó dẫn đến sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đáp ứng các nhu cầu mới của xã
hội về nông sản, thực phẩm và các dịch vụ xã hội khác [7].
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu môi trường
Đối với bất kỳ vùng nào, một quốc gia nào trong sử dụng đất đai gắn với
mục tiêu môi trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu chung và
mục tiêu riêng. Việc nhìn nhận "môi trường" không chỉ có nghĩa là một hệ thống
các tiêu chuẩn về hoá học, đất nước phong cảnh thiên nhiên... là các tài sản có giá
trị. Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có hiệu quả

nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Việc đánh giá và đề xuất sử dụng đất đai theo quan điểm sinh thái bền vững
[12]. Những đánh giá tổng quát về môi trường và hiện tượng suy thoái đất có liên
quan tới các điều kiện tự nhiên và quá trình sử dụng đất [8]. Những nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề ô nhiễm môi trường đất Việt Nam đã phản ánh được nhiều
vấn đề về môi trường, nhằm đưa ra các giải pháp chiến lược, cũng như các giải pháp
khắc phục cho sử dụng đất trên quan điểm sinh thái lâu bền [13].
1.2. Những nghiên cứu về quản lý sử dụng đất bền vững trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về sử dụng đất bền vững một số nước trên thế giới
Để duy trì được khả năng bền vững đối với đất đai, Smyth A.J và
J.Dumanski (1993) [25] đã xác định 5 nguyên tắc có liên quan đến sử dụng đất bền
vững đó là:
- Duy trì, nâng cao các hoạt động sản xuất
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái
hoá chất lượng đất và nước.


11
- Khả thi về mặt kinh tế
- Được sự chấp nhận của xã hội
Năm nguyên tắc trên đây được coi như những trụ cột của việc sử dụng đất
bền vững. Nếu trong thực tế đạt được cả 5 mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ
thành công, còn nếu chỉ đạt được một vài mục tiêu chứ không phải tất cả thì khả
năng bền vững chỉ thành công được ở từng bộ phận.
1.2.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc đã có 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo lý luận kinh tế
“chủ nghĩa xã hội hiện thực”, chính sách cải cách thành công của Trung Quốc đã
đem lại những thành tựu to lớn. Bên cạnh những thành công to lớn về kinh tế, xã
hội của công cuộc đổi mới, quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc đã và đang

chứa đựng nhiều nguy cơ và thách thức lớn. Trong đó, chính sách sử dụng đất nông
nghiệp, chính sách đô thị hoá và công nghiệp hoá đã có những tác động không nhỏ
đến kinh tế, xã hội Trung Quốc.
Quá trình chuyển dịch đất nông nghiệp sang các loại đất khác (chủ yếu là đất
công nghiệp và đất ở) của Trung Quốc tăng đã làm cho diện tích đất canh tác ngày
càng giảm, diện tích canh tác bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ bằng 1/3
mức trung bình trên thế giới. Cạnh tranh giữa sản xuất nông nghiệp và sản xuất
công nghiệp, phát triển đô thị ngày càng nhanh về tài nguyên tự nhiên làm cho giá
thành sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng nhanh, theo Z.Tang [19] tốc độ tăng thu
nhập của nông thôn giảm dần (từ 3,09% năm 1980 xuống 2,47 % năm 1997), ngày
càng tụt hậu so với mức tăng ngày càng nhanh của thu nhập cư dân thành phố.
Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa
nhau... năm 1978 cư dân thành phố chiếm 18% dân số cả nước và có thu nhập
chiếm 34% tổng thu nhập cả nước, năm 1996 tỷ lệ dân số thành phố tăng lên 28%
nhưng chiếm tới 50% tổng thu nhập cả nước”. Thu nhập bình quân đầu người ở 10
thành phố lớn của Trung Quốc từ năm 1997 đến 1999 tăng từ 2.490 USD lên 2670
USD/năm, trong khi thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn cùng giai đoạn
giảm từ 966 xuống 870 USD/năm.


12
Đối với đất nông nghiệp, Luật đất đai hiện nay của Trung Quốc
(Điều 31) [21] quy định “Nhà nước bảo hộ đất canh tác, khống chế nghiêm ngặt
chuyển đất canh tác thành phi canh tác”
Mỗi một giai đoạn thăng trầm của lịch sử kinh tế, chính trị, xã hội Trung
Quốc đều ẩn chứa sự thành bại bởi tác động của một cơ chế, chính sách về nông
nghiệp nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói riêng. Song, những hậu quả tác
động của quá trình chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và đất ở đến
đời sống xã hội Trung Quốc là rất lớn. Chính sách “… khống chế nghiêm ngặt
chuyển đất canh tác thành phi canh tác” tại Trung Quốc ra đời chậm hơn một số

nước trong khu vực; song đã thu được nhiều thắng lợi trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đất nước.
1.2.1.2. Nhật Bản
Trước công cuộc duy tân, như mọi nước châu Á, nền kinh tế Nhật là nền
nông nghiệp sản xuất nhỏ, tiểu nông phong kiến, năng suất thấp, địa tô cao. Như
Việt Nam, Nhật luôn luôn, bị giới hạn bởi tài nguyên đất đai ngày càng ít và dân số
ngày càng tăng. Tuy nhiên, muốn tạo đà công nghiệp hóa, nhất thiết phải tăng năng
suất nông nghiệp, trong hoàn cảnh đất chật người đông, cách duy nhất là thâm canh
tăng năng suất (trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động).
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp được Nhật Bản coi là biện pháp hàng đầu ngay
từ thế kỷ XIX, Nhật chú trọng phát triển các công nghệ thu hút lao động và tiết kiệm
đất như: kỹ thuật tưới nước, dùng phân bón và lai tạo giống tạo nên năng suất cây trồng
cao. Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất được ban hành cũng tạo ra động lực
thúc đẩy nông dân áp dụng khoa học công nghệ tăng năng suất cây trồng. Đất đai được
chia cho mọi nông dân tạo nên tầng lớp nông dân sở hữu nhỏ ruộng đất.
Do chính sách phi tập trung hoá công nghiệp, đưa sản xuất công nghiệp về
nông thôn làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi, tỷ lệ đóng góp của các ngành
phi nông nghiệp trong thu nhập cư dân nông thôn ngày càng tăng (năm 1950 là
29%, năm 1990 là 85%). Năm 1990 phần thu nhập từ phi nông nghiệp cao hơn 5,6
lần phần thu từ nông nghiệp. Ngược lại, công nghiệp lại tạo nên nhu cầu cao và thị
trường ổn định cho nông nghiệp, thu nhập của người dân Nhật tăng nhanh trong quá
trình công nghiệp hoá. Công nghiệp phát triển tạo nên kết cấu hạ tầng (giao thông,


13
thông tin, đào tạo, nghiên cứu...) hoàn chỉnh, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng, tạo
nên năng suất đất đai cao...
Về sự gắn kết giữa nông nghiệp, công nghiệp, nông thôn và thành thị của
Nhật Bản, Đặng Kim Sơn cho rằng “Một trong những bài học quan trọng nhất trong
“sự thần kỳ Nhật Bản” là sự liên kết hài hoà giữa nông nghiệp, nông thôn với công

nghiệp và đô thị trong quá trình công nghiệp hoá”.[9]
Cuối những năm của thập kỷ 1960, mức phát triển nhanh của công nghiệp
hoá của Nhật đã thu hút hết lao động dư thừa ở nông thôn. Tuy nhiên, công nghiệp
nặng làm tăng chi phí chống ô nhiễm môi trường, mặt khác, lệ thuộc nước ngoài về
năng lượng, nguyên liệu thì phát triển công nghiệp nặng và hoá chất sẽ không bền
vững; Nhật Bản đã chuyển hướng sang phát triển công nghiệp quy mô nhỏ, thu hút
nhiều chất xám, sử dụng nhiều vốn.
Tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP dần dần “nhường chỗ” cho công
nghiệp và dịch vụ phát triển; từ đó kết cấu kinh tế Nhật Bản đã chuyển dịch nhanh
và vững chắc sang công nghiệp.
1.2.1.3. Đài Loan
Quá trình phát triển xã hội trước đây cũng giống với giai đoạn phát triển hiện
nay của Việt Nam, tức là nền nông nghiệp là chính. Trong giai đoạn đầu công nghiệp
hoá, công nghiệp phát triển chậm, Đài Loan thực hiện khẩu hiệu “ly nông bất ly
hương” như Trung Quốc hiện nay, sản xuất nông nghiệp và ngành nghề nông thôn đã
thu hút hầu hết lao động tăng thêm hàng năm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6,5% năm
1952 xuống còn thấp hơn 3% và giữ ở mức này cho đến nay. Từ năm 1952 - 1964, mỗi
năm chỉ có khoảng 0,3 - 2,3 tổng số lao động nông thôn chuyển ra thành phố vừa đủ
với khả năng tạo việc làm của công nghiệp. Nguyên nhân tạo nên sự điều tiết về lao
động nói trên của Đài Loan không chỉ do chính sách về nông nghiệp và công nghiệp
mà còn do chính sách đầu tư phát triển hệ thống giáo dục phổ cập (đào tạo nguồn nhân
lực) nên chất lượng tay nghề lao động nông thôn luôn đáp ứng được nhu cầu công
nghiệp hoá, chính sách lương kích thích người lao động đầu tư nâng cao trình độ và
chủ trương phát triển nông nghiệp giai đoạn đầu, phát triển công nghiệp giai đoạn sau
hướng về xuất khẩu, thu hút lao động, tăng thu nhập cho lao động.


14
Giữa Đài Loan và Trung Quốc về lịch sử chung một cội nguồn; song, với chính
sách sử dụng đất đai khác nhau, các tác động của các chính sách này đã mang lại hiệu

quả hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất công nghiệp đã
được định hướng về nông thôn đã mang lại hiệu quả vô cùng to lớn ngay trong cả ngắn
hạn dài hạn cho nền kinh tế đất nước.
Thực tế trên đã cho thấy: chính sách phát triển nông nghiệp (trong đó có sử
dụng đất nông nghiệp hay chuyển dịch đất nông nghiệp) thích hợp đã tác động rất
lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia có xuất phát điểm từ một nền
kinh tế nông nghiệp; ngược lại, sẽ phải gánh chịu một hậu quả nghiêm trọng cho
nền kinh tế xã hội.[10]
1.2.2. Nghiên cứu trong nước về sử dụng đất bền vững
1.2.2.1. Chiến lược sử dụng đất bền vững ở Việt Nam
Tổng diện tích đất của Việt Nam vào khoảng 33 triệu ha. Trong đó khoảng gần
2 triệu ha thuộc các thành phố và thị xã, khu dân cư nông thôn và chuyên dùng, khoảng
9 triệu ha là đất sản xuất nông nghiệp nằm chủ yếu ở các vùng đồng bằng và trung du,
khoảng 630.000 ha được dùng cho nuôi trồng thuỷ sản, 12 triệu ha là đất rừng. Hơn 9
triệu ha còn lại là đất chưa sử dụng gồm chủ yếu là đồi trọc và đất trống.
Chủ trương của Chính phủ Việt nam là sử dụng đất có hiệu quả và sự cần
thiết phải có tầm nhìn lâu dài. Chính phủ cũng luôn chú ý đến các nhu cầu đa dạng
của nhân dân, cùng với sự gia tăng dân số nhanh chóng. Để thực hiện điều này,
chiến lược của Chính phủ là chỉ đạo thực hiện 6 nhiệm vụ sau đây:
1. Cố gắng không mở rộng các thành phố và nếu có thể tránh việc xây dựng
trên đất nông nghiệp có chất lượng cao.
2. Duy trì diện tích đất sản xuất nông nghiệp, và tăng diện tích đất nông
nghiệp ở những nơi có điều kiện, bằng việc khai hoang, mở rộng tưới tiêu.
3. Giao đất sản xuất nông nghiệp để trồng trọt hoặc để chăn nuôi gia súc
tuỳ theo khả năng của đất và nhu cầu của thị trường nội địa hoặc xuất khẩu đối với
các sản phẩm này.
4. Tăng diện tích đất cho nuôi trồng thuỷ sản bằng việc chuyển đất sản xuất
nông nghiệp hoặc khai hoang đất chưa sử dụng ở những nơi mà điều kiện thiên
nhiên phù hợp.



15
5. Bảo vệ các rừng hiện có và tăng nhanh diện tích rừng bằng việc trồng
rừng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên.
6. Khuyến khích việc quản lý đất bền vững lâu dài bằng việc giao đất sử
dụng ổn định lâu dài cho các hộ dân và cộng đồng địa phương.[23]
1.2.2.2. Những chính sách về đất đai liên quan đến quản lý sử dụng đất bền vững ở
Việt Nam
Chiến lược phát triển bền vững ở Việt nam là một chiến lược chung đưa ra
các nội dung phát triển bền vững, kết hợp chặt chẽ và hài hoà giữa phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Điều này gắn liền với việc quản lý sử
dụng đất bền vững.
Đối với đất nông nghiệp, việc quản lý được đổi mới theo hướng tăng dần
quyền chủ động cho người sử dụng đất bắt đầu bằng chỉ thị 100 (1981) của Ban Bí
thư Trung ương về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong nông nghiệp. Chỉ thị 100 về cải tiến công tác khoán đã làm thay
đổi cơ chế quản lý HTX, tạo động lực khuyến khích lợi ích vật chất đối với người
nhận khoán, nông dân phấn khởi, đầu tư thêm công sức, tiền vốn, vật tư, áp dụng tiến
bộ kỹ thuật, tận dụng đất đai để phát triển sản xuất. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp được ban hành năm 1988 nhằm vào
giao khoán ổn định ruộng đất cho nông dân (15 năm), người nông dân được chủ động
thực hiện các khâu canh tác, ngoài các chi phí dịch vụ cho HTX, thuế cho nhà nước,
xã viên được tự do sử dụng và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.[4]
Chính sách đất đai đã góp phần thúc đẩy mở rộng diện tích đất nông nghiệp
nhờ khai hoang phục hoá, chuyển một số diện tích có khả năng sang đất sản xuất
nông nghiệp, hạn chế tối đa việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
(công nghiệp, thương mại, dịch vụ) nhờ đó diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp
(bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản) đã tăng từ 6,9 triệu ha lên 9,4 triệu ha (tăng
2,41 triệu ha), đất lâm nghiệp từ 9,3 triệu ha lên 12,1 triệu ha trong thời gian 1990 2002 góp phần tăng thêm nguồn lực và tư liệu sản xuất cho nông nghiệp.
Việc giao đất ổn định lâu dài cho người nông dân đã tạo ra động lực mới

thúc đẩy phát triển kinh tế và sử dụng đất đai hiệu quả, người dân mạnh dạn đầu tư


16
những đối tượng cây trồng trên mảnh đất của mình. Trong việc quản lý sử dụng đất
đai đã có những thay đổi đáng kể, kể cả phương thức sử dụng và cơ chế ràng buộc
đối với người sử dụng. Ruộng đất đã được quản lý chặt chẽ hơn so với khi còn quản
lý theo hình thức tập thể kiểu cũ. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tính bình quân
trên 1 ha canh tác đã tăng từ 5,94 triệu đồng (năm 1994) lên 7,8 triệu đồng (năm
2003). Trước năm 1988, Việt Nam luôn ở trong tình trạng mất an ninh lương thực.
Nhờ những chính sách đúng đắn về giao quyền sử dụng đất cho nông dân, phát triển kinh
tế hộ, nền nông nghiệp Việt Nam đã không những đáp ứng được lương thực trong nước
mà còn dư để xuất khẩu. Trồng trọt và chăn nuôi đều phát triển theo hướng đa dạng hoá
sản phẩm, xoá dần tính độc canh để tăng hiệu quả sử dụng đất đai.[4]
Chính sách đất đai cùng với nhiều chính sách nông nghiệp đã góp phần bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia, từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn. Trước đổi mới, giải quyết lương thực còn
nhiều khó khăn. Hàng năm, nước ta phải nhập khẩu hàng năm hàng triệu tấn lương
thực. Nhờ thay đổi chính sách nên từ năm 1989 đến nay, nước ta liên tục xuất khẩu
gạo với số lượng lớn và ổn định thu ngoại tệ về cho đất nước. Năm 1990, sản lượng
lương thực cả nước đạt 21,5 triệu tấn, lương thực bình quân theo đầu người đạt 327,5
kg. Đến năm 2003 sản lượng lương thực đã đạt 37,5 triệu tấn, đưa lương thực bình
quân đầu người lên 464,8 kg. Nhờ đảm bảo vững chắc lương thực, sản xuất nông
nghiệp có điều kiện chuyển sang chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá có giá trị cao
nhằm xuất khẩu.
Chính sách đất đai nhằm vào khuyến khích nông dân tăng cường sử dụng có
hiệu quả đất đai, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế
nói chung. Chính phủ đã ban hành Quyết định 64/CP ngày 27/9/1993 về giao đất
nông nghiệp cho hộ nông dân. Nông dân không những được giao quyền sử dụng đất
đai lâu dài mà kèm theo các quyền được xác định như quyền sử dụng, chuyển đổi,

chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp. Ngoài ra, do nhu cầu của phát triển KTXH, một
phần đất nông nghiệp được chuyển sang mục đích phi nông nghiệp (như làm đường
giao thông, khu công nghiệp, nhà ở....), Nhà nước đã ban hành những chính sách về
cấp đất, cho thuê đất cho các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, chính sách về giá


17
thuế đất, giá đền bù, giải toả... Nhờ đó, trên địa bàn nông thôn, hệ thống kết cấu hạ
tầng được nâng cấp nhanh chóng, nhiều khu công nghiệp và đô thị mới được hình
thành đóng góp tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Chính sách đất đai góp phần điều chỉnh đất nông nghiệp, vừa tạo điều kiện
cho người làm nông nghiệp có đất vừa hướng tới tập trung đất đai để sản xuất
chuyên môn hoá góp phần thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp, đặc biệt là nâng cao
tỷ trọng hàng hoá nông sản.
Chính sách đất đai cho phép tích tụ ruộng đất cho phát triển sản xuất hàng
hoá lớn thông qua cho phép người sử dụng đất thực hiện các quyền về chuyển đổi,
chuyển nhượng, góp vốn kinh doanh.[4]
Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã đạt được những
thành tựu to lớn. Sau 15 năm phát triển (1991 - 2006), mô hình Khu công nghiệp đã
gặt hái được những thành tựu to lớn [15]. Việc xây dựng các khu công nghiệp
không những tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp mà còn kéo
theo sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp
trong khu công nghiệp và hình thành mạng lưới dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của
người lao động. Việc phát triển các khu công nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng
nông nghiệp trong nền kinh tế.
Đến hết năm 2005, các KCN là nơi đào tạo thực tế 750.000 người nông dân,
người lao động phổ thông ở những nơi thị tứ trở thành công nhân, và với tốc độ tăng
trưởng này, đến 2010 các KCN Việt nam sẽ thu hút 2,5 triệu người. Đây là nguồn
tài lực để đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp phát triển ở trình độ thấp trở

thành một nước công nghiệp mới ở thập niên thứ 2 của thế kỷ 21.
Tuy nhiên, sự phát triển của các khu công nghiệp làm thu hẹp diện tích đất
canh tác đất nông nghiệp, gây ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia, nhiều
khu công nghiệp mang tính tự phát, thiếu các quy hoạch chiến lược, nhiều KCN
nằm liền kề với các đô thị lớn gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường đô thị
trong tương lai gần . Các khu công nghiệp góp phần giải quyết việc làm, tạo thu
nhập cho người lao động và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu lao động. Các khu công
nghiệp đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao trình độ tay nghề và tương


18
ứng với nó là tăng thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế
và xã hội.Tính đến hết năm 2005, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,74 triệu lao
động trực tiếp tăng gấp 3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và khoảng 2
triệu lao động gián tiếp.
Tuy nhiên sự tập trung cao của lao động xung quanh các khu công nghiệp
cũng nảy sinh không ít các vấn đề xã hội cần phải giải quyết tình trạng thiếu nhà ở,
điều kiện sinh hoạt khó khăn, sự phát sinh của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra sự xuống
cấp về môi trường của khu vực dân cư xung quanh các khu công nghiệp cũng đang
nổi lên là một trong những vấn đề cấp bách cần có sự quan tâm nghiên cứu [15].
1.3. Chủ trương, chính sách của Nhà nước, của tỉnh về phát triển công nghiệp
- Chỉ thị 49/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về phát triển dịch vụ
trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006-2010.
- Căn cứ Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24/01/2005 của Chính Phủ về
quy hoạch xây dựng.
- Luật Đất đai năm 2003
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
về thi hành Luật Đất đai.
- Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất.
- Quyết định số 04/2005/QĐ - BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành quy trình lập, điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
- Công văn số 881/BTNMT-ĐKTK ngày 24 tháng 4 năm 2003 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc dành quỹ đất cho các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hoá - thể thao.
- Văn bản số 2111/BTNMT/ĐKTKĐĐ ngày 17/06/2005 của Bộ tài nguyên và
Môi trường về việc quy hoạch sử dụng đất cho lĩnh vực GD-YT-VH-TDTT.
- Báo cáo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang
giai đoạn 1998 - 2010.
- Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX nhiệm


19
kỳ 2005 - 2010.
- Thông báo số 69/TB-TNMT ngày 30 tháng 12 năm 2005 của Sở Tài
nguyên và Môi trường Bắc Giang về việc Giao chỉ tiêu kế hoạch công tác quản lý
tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Giang năm 2006.
- Công văn số 263/CV-TNMT ngày 27 tháng 3 năm 2006 của Sở Tài nguyên
và Môi trường Bắc Giang về việc lập và điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cấp huyện, cấp xã năm 2006.
- Căn cứ vào Quyết định 520/QĐ-UB ngày 04/5/2001 của UBND tỉnh Bắc
Giang về ban hành đơn giá khảo sát xây dựng.
- Căn cứ Quyết định số 78/2005/QĐ-UB ngày 07/11/2005 của UBND tỉnh
Bắc Giang về việc Ban hành “Quy định phân công, phân cấp và uỷ quyền thực hiện
quản lý quy hoạch xây dựng và quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang”;
- Căn cứ vào Quyết định số 2409/QĐ-UBND ngày 05/5/2006 của UBND huyện
Tân Yên về việc Chỉ định thầu tư vấn khảo sát lập Quy hoạch chi tiết xây dựng Cụm

Công nghiệp - Dịch vụ tập trung huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Căn cứ vào Quyết định số 869/QĐ-XD ĐT ngày 27/12/2001 của Giám đốc Sở
Xây dựng Bắc Giang về việc phê duyệt Quy hoạch Cụm Công nghiệp huyện Tân Yên,
tỉnh Bắc Giang.
- Căn cứ vào Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 15/6/2006 của UBND huyện
Tân Yên về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch chi tiết xây dựng Cụm Công nghiệp Dịch vụ tập trung huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Quyết định số 1107/2006/QĐ-TTg về quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
- Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế và trong nước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Các đề án về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng và
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của huyện các năm.
- Căn cứ vào quy chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam và các văn bản hiện hành khác.


20
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổng quỹ đất và cơ cấu sử dụng đất trên
địa bàn huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang.
- Các yếu tố về ĐKTN - KTXH có liên quan đến đề tài.
- Người sử dụng đất.
- Việc thực hiện sách về quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn.
- Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất tác động đến đời sống dân cư.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn huyện Tân Yên với 24/24 xã, thị trấn (2 thị trấn) có tổng diện tích
tự nhiên 20.4330,05 ha, chiếm 5,34% diện tích của cả tỉnh

- Đánh giá quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
giai đoạn 2006 - 2010.
2.3. Nội dung nghiên cứu
1. Nghiên cứu thực trạng điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của huyện Tân Yên.
2. Nghiên cứu thực trạng việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phi nông
nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 trên địa bàn huyện Tân Yên.
3. Nghiên cứu quan hệ của sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất phi nông nghiệp
với các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

4. Đề xuất định hướng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và các giải pháp
quản lý, sử dụng đất hợp lý, bền vững trong toàn huyện.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Lựa chọn điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan trên địa bàn huyện Tân Yên.
- Nghiên cứu sâu để so sánh được thực hiện trên 5 xã và thị trấn, đại diện về
tốc độ thu hồi đất nông nghiệp (nhanh/chậm) trong những năm gần đây do chuyển
sang đất công nghiệp, dịch vụ; Và đại diện về vị trí địa lý, kinh tế (gần và xa các
trung tâm kinh tế lớn).


21
2.4.2. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu, số liệu
Phương pháp điều tra số liệu thứ cấp: thu thập và xử lý các nguồn tài liệu,
số liệu sẵn có tại phòng địa chính - xây dựng - nông nghiệp và môi trường của các
xã Liên Sơn, Cao Thượng, Thị trấn Cao Thượng, Thị trấn Nhã Nam, Phúc Hòa
trong huyện Tân Yên và Phòng tài nguyên và Môi trường huyện Tân Yên, Phòng
Thống Kê huyện Tân Yên về dân số, lao động, việc làm.
2.4.3. Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp số liệu
Phân tích toàn bộ số liệu từ các đối tượng được điều tra theo nhóm chỉ tiêu,
đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố đó đến quá trình phát triển các khu, cụm công

nghiệp nhằm đưa ra những giải pháp quản lý, sử dụng theo hướng bền vững.
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu
Việc phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm Excel tính và trình bày bằng
số trung bình qua các lần theo dõi. Số liệu được so sánh qua các năm và so sánh
giữa các địa phương với nhau.
2.4.5. Phương pháp chuyên gia
Sử dụng ý kiến của các chuyên gia quy hoạch sử dụng đất, chuyên gia chính sách
- Tín dụng, chuyên gia Tài chính - Kế hoạch… để xây dựng phương án khoa học trên cơ
sở những kinh nghiệm quý giá về thực tiễn phát triển công nghiệp theo hướng bền vững,
vận dụng một cách chọn lọc vào các nội dung nghiên cứu của đề tài.


22
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Tân Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Giang, có
diện tích tự nhiên 20.441,85 ha nằm trong toạ độ địa lý từ 21018’30 đến 21023’00 vĩ
độ Bắc và từ 106000’20 đến 106011’40 kinh độ đông.
-

Phía Bắc giáp huyện Yên Thế

-

Phía Đông giáp huyện Lạng Giang

-


Phía Nam giáp huyện Lạng Giang và thành phố Bắc Giang

-

Phía tây giáp huyện Hiệp Hoà Và tỉnh Thái Nguyên

Huyện Tân Yên có 5 tuyến đường tỉnh lộ (đường TL 295, 287, 297, 284,
272) chạy qua, phía Đông có Sông Thương là tuyến đường thuỷ quan trọng tạo cho
huyện các lợi thế hơn trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá và quốc phòng với các
tỉnh phía Bắc và phía đông Bắc.
3.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Huyện Tân Yên có hướng dốc chính nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa
hình được chia làm 3 vùng địa hình chính là vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng thấp:
Vùng trung du: có đồi gò phía Đông và phía Bắc chiếm khoảng 40% diện
tích tự nhiên.
Vùng đồng bằng: Nằm phía Tây của huyện chiếm 55% diện tích tự nhiên.
Vùng thấp: Nằm ở phía Nam của huyện chiếm 5% diện tích tự nhiên.
3.1.1.3. Khí hậu, thời tiết
Trên cơ sở số liệu khí tượng trạm Bắc Giang và tham khảo một số trạm trong
vùng cho thấy huyện Tân Yên chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa
nóng ẩm, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau. Đặc điểm chính về khí hậu thời tiết của huyện như sau:
- Nhiệt độ bình quân cả năm 23,70C, trong đó nhiệt độ trung bình tháng cao nhất
là 29,40C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,90C. .


23
- Lượng mưa bình quân hàng năm 1.476 mm nhưng phân bố không đồng điều.
- Lượng bốc hơi bình quân 1.034mm/năm, bằng 70% lượng mưa trung bình

hàng năm. .
- Độ ẩm không khí bình quân cả năm khoảng 81%, tuy nhiên trong mùa khô,
độ ẩm trung bình giảm khá mạnh chỉ còn khoảng 77%.
- Bão thường xuất hiện 2 - 3 trận trong năm, kèm theo mưa lớn từ 200 - 300mm.
3.1.1.4. Thuỷ văn
Chế độ thuỷ văn các sông ở Tân Yên phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và
khả năng điều tiết của lưu vực. Do đó cùng với diễn biến lượng mưa hàng tháng
trong năm thì chế độ thuỷ văn trên các con sông cũng thay đổi theo. Từ tháng 4 khi
lượng mưa bắt đầu tăng lên thì mực nước trong sông cũng đồng thời tăng lên mà
đỉnh cao thường đạt giá trị cực đại vào các tháng 7 và 8, rồi lại tiếp tục giảm dần và
đạt giá trị cực tiểu vào khoảng tháng 2 hoặc tháng 3 năm sau.
3.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
3.1.2.1. Tài nguyên đất
Đất của Tân Yên được hình thành do hai nguồn gốc phát sinh gồm: Đất hình
thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa sông bồi tụ. Do đó có
thể chia đất của huyện thành các nhóm đất chính sau:
- Nhóm đất phù sa.
- Đất phù sa không được bồi hàng năm trung tính ít chua, đất phù sa ít được bồi
hàng năm trung tính ít chua, đất phù sa không được bồi hàng năm, chua, Gley yếu.
Được phân bố trên các xã nằm ở phía Tây và phía Nam của huyện.
- Nhóm đất xám bạc màu.
Tổng diện tích đất xám, bạc màu trên địa bàn huyện là 8.882,49 chiếm
43,47% tổng diện tích tự nhiên được chia thành 3 loại như sau: Đất bạc màu phát
triển trên đất phù sa cũ, đất bạc màu phát triển trên phù sa cũ có Feralitic, đất dốc tụ
bạc màu có sản phẩm Feralitic. Được phân bố trên hầu hết các xã.
- Nhóm đất Feralitic.
Bao gồm có 4 đơn vị đất và chiếm 23,03% diện tích tự nhiên bao gồm: Đất
Feralitic biến đổi do trồng lúa, đất Feralitic nâu vàng trên phù sa cổ, đất Feralitic
nâu tím phát triển trên phiến thạch sét.



24
3.1.2.2. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước của huyện gồm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm
* Nguồn nước mặt:
Tài nguyên nước mặt của huyện bao gồm các sông chính như hệ thống
sông Giang, sông Cầu, sông Thương, suối Cầu Đông, ngòi Đình Vòng, kênh 5 và
còn có 78 hồ đập lớn nhỏ nằm rải rác trong huyện cung cấp nước phục vụ sản xuất
và nước sinh hoạt cho nhân dân trong toàn huyện.
* Nguồn nước ngầm:
Hiện chưa có tài liệu cụ thể nghiên cứu về trữ lượng nước ngầm, nhưng qua
khảo sát bộ tại một số giêng nước trong vùng cho thấy mực nước ngầm nằm ở độ
sâu 6-15 m, có thể khai thác dùng cho sinh hoạt của nhân dân.
3.1.2.3. Tài nguyên rừng.
Tài nguyên rừng của huyện Tân Yên, theo kết quả kiểm kê và kiểm kê đất
đai năm 2010 diện tích đất lâm nghiệp của huyện có 667,56 ha chiếm 5,16% diện
tích tự nhiên, trong đó rừng sản xuất chiếm 86,75% diện tích đất lâm nghiệp, rừng
phòng hộ chiếm 7,67%, rừng đặc dụng chiếm 5.58%.
3.1.2.4. Tài nguyên nhân văn
Hiện tại trên địa bàn huyện có nhiều dân tộc anh em đang định cư và sinh
sống chủ yếu có dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Hoa... Tân Yên luôn là vùng đất có
truyền thống văn hoá, truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng. Đó là
những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế xã
hội chung của vùng.
3.1.2.5. Tài nguyên khoáng sản:
Kết quả điều tra cho thấy trên địa bàn huyện Tân Yên khoáng sản rõ nhất là Barít
được phân bổ chủ yếu ở Lăng Cao-xã Cao Xá với trữ lượng nhỏ khoảng từ 30.000 50.000 tấn, quặng Barít thuộc loại quặng giàu đạt những chỉ tiêu công nghiệp.
3.1.2.6. Cảnh quan môi trường
Cũng như các vùng trung du, núi thấp ở phía Bắc, huyện Tân Yên có cảnh
quan thiên nhiên đa dạng, trên địa bàn các xã miền núi có nhiều thắng cảnh tự nhiên

đẹp tạo ra nhiều tiềm năng lớn cho phát triển du lịch.


×