Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ,TRƯỚC HẾT LÀ ĐẦU TƯ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.98 KB, 26 trang )

TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ,
TRƯỚC HẾT LÀ ĐẦU TƯ CÔNG
TS. Trần Du Lịch
Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Hồ Chí Minh

LỜI NÓI ĐẦU
Chủ đề của Báo cáo chuyên đề này được thực hiện theo sự phân
công của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội để trình bày tại cuộc Hội thảo
“Kinh tế Việt nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế”. Trong vài năm gần đây tôi đã có nghiên cứu từng mảng
các vấn đề có liên quan đến tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có một số
tham luận tại các cuộc hội thảo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khoá
12 và trình bày trên một số tạp chí nghiên cứu khoa học. Kế thừa những
công trình nghiên cứu có liên quan của chính mình và tham khảo các
công trình nghiên cứu khác, tôi khái quát, phát triển và hệ thống lại
thành 15 điểm, bao quát 3 nội dung: (i) tái cơ cấu đầu tư trong tổng thể
tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế; (ii) quan điểm
định hướng tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công; và (iii) kiến nghị
chính sách, giải pháp và bước đi.
Về cách trình bày, tôi không theo cách trình bày nội dung chương,
mục, mà trình bày theo dạng kiến nghị với 15 điểm. Ở mỗi điểm thể
hiện quan điểm của tác giả đối với từng vấn đề có liên quan, bao gồm
việc nhận định thực trạng và phương cách giải quyết vấn đề đặt ra:
1. Cần đặt nội dung tái cơ cấu đầu tư trong tổng thể Đề án “Tái
cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế v.v…” theo Nghị
quyết số 11/2011/QH13 ngày 9/11/2011 của Quốc hội.
Tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập với kinh tế toàn cầu và khu vực đang là chủ trương
397



lớn của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế
- xã hội 2011-2020. Nghị quyết số 11/2011/QH13 ngày 9/11/2011 của
Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã giao cho
Chính phủ khẩn trương hoàn thành đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh; thực hiện đồng bộ theo lộ trình thích
hợp trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và báo
cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ Ba”.79 Nghị quyết TW 3 (khoá XI) tháng
10/2011 đề ra nhiệm vụ phải tập trung ưu tiên trong giai đoạn 20112015, tái cơ cấu 3 lĩnh vực: đầu tư công; thị trường tài chính, trọng tâm
là hệ thống ngân hàng thương mại và doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm
là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước. Như vậy về mặt quan điểm,
vấn đề tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công không phải là nhiệm
vụ riêng biệt, mà là một bộ phận trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế,
được thực hiện với lộ trình và bước đi thích hợp.
Trong tổng thể nội dung tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư,
mà trước hết là đầu tư công đang được lựa chọn như là một trong các
nhân tố “đột phá”, nhưng thực tiễn 10 năm gần đây cho thấy: hiệu quả
đầu tư của nền kinh tế ngày càng giảm, cả khu vực nhà nước lẫn khu
vực tư nhân có liên quan đến môi trường và chính sách kinh tế vĩ mô;
chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, tức liên quan đến thể chế kinh
tế. Do đó, không thể tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ
cấu đầu tư nói riêng, nếu không bắt đầu từ việc đổi mới thể chế kinh tế.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng rất đúng đắn khi xem đây là một trong
3 đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2011-2020. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực dù đầu tư ít tốn kém nhất, mang
lại hiệu quả nhất, nhưng cũng khó làm nhất, vì liên quan đến lợi ích của
từng địa phương, từng ngành và từng “nhóm lợi ích”.
Nếu hiểu “đầu tư công” bao gồm đầu tư của Nhà nước và đầu tư
của các tổ chức kinh tế nhà nước80 thì vấn đề tái cơ cấu đầu tư công phải

79Nghị

quyết số 11/2011/QH13 ngày 9/11/2011, trang 2,3.
Luật Quản lý nợ công, thì nợ công chỉ bao gồm: nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo
lãnh và nợ của chính quyền địa phương, không bao gồm nợ của DNNN.
80Theo

398


bao gồm cả 2 bộ phận trên, nên việc tái cơ cấu đầu tư công không thể
tách rời với tái cơ cấu DNNN (các tập đoàn, tổng công ty nhà nước). Do
đó, cách tiếp cận vấn đề tái cơ cấu đầu tư công phải đặt trong mối quan
hệ và gắn với nội dung tái cơ cấu DNNN. Hơn thế nữa, khi giải quyết
vấn đề tái cơ cấu DNNN, mà trọng tâm là các tổng công ty và tập đoàn
kinh tế nhà nước không thể tách rời với việc làm rõ chức năng kinh tế
của Nhà nước trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường. Do đó,
vấn đề trước tiên là phải xây dựng một hệ thống quan điểm đồng bộ để
làm cơ sở cho việc ban hành cách chính sách phục vụ cho mục tiêu tái
cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế dài hạn, trong đó sử
dụng các chính sách thúc đẩy quá trình tái cơ cấu đầu tư như một bước
đột phá trong giai đoạn trước mắt.
2. Sự lồng ghép mục tiêu ngắn hạn với mục tiêu trung - dài hạn
trong chính sách kinh tế vĩ mô là cần thiết, nhưng cũng đang thể hiện
sự lúng túng trong chính sách kinh tế - tài chính hiện nay. Nguyên
nhân sâu xa là trong một quá trình dài chúng ta quan tâm nhiều đến
kết quả, mà thiếu quan tâm đến phương tiện tạo ra kết quả.
Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 đề ra mục
tiêu “phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng năng cao chất lượng, hiệu

quả sức cạnh tranh” với chỉ tiêu tăng GDP bình quân hàng năm 6,5-7%,
đến năm 2015 quy mô GDP đạt khoảng 180-184 tỷ USD; GDP/người
đạt khoảng 1.965-2.000 USD. Trong bối cảnh các chính sách kinh tế tài chính của Chính phủ phải tập trung vào nhiệm vụ kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, mà trong suốt 4 năm qua phải liên tục ứng phó
bằng những giải pháp tình thế, thì các mục tiêu nêu trên đang thực sự là
những thách thức lớn.
Thật vậy, sau 20 năm (1991-2010) tiến hành sự nghiệp công nghiệp
hóa nền kinh tế, với mô hình tăng trưởng kinh tế dựa lao động rẻ, khai
thác tài nguyên thô; tăng trưởng theo chiều ngang dựa chủ yếu vào tăng
vốn đầu tư, mở rộng nền công nghiệp gia công hướng vào xuất khẩu
v.v… tuy đã thực hiện tốt sứ mệnh đưa nước ta từ một nền kinh tế kém
phát triển trở thành quốc gia có thu nhập trung bình( ngưỡng thấp), chỉ
số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình của thế giới, thành
399


công ấn tượng trong mục tiêu giảm nghèo và cải thiện đáng kể kết cấu
hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những yếu kém
từ nội tại cơ cấu của nền kinh tế, trở thành nguyên nhân bên trong của
tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô hiện nay.
Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng (GDP) liên tục trong 20 năm
đứng thứ nhì khu vực châu Á, nhưng lại rơi vào tình trạng “người béo
nhưng không khoẻ, ốm bệnh liên miên” phải có nguyên nhân sâu xa của
nó. Sau Đại hội Đảng lần thứ XI và nhất là sau Nghị quyết TW 3 (khoá
XI), nguyên nhân được thừa nhận rõ ràng hơn là từ sự bất cập của mô
hình tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong 20 năm qua chưa tuân thủ nguyên tắc cố hữu và bản chất nhất của
kinh tế thị trường là: sử dụng các yếu tố sản xuất hữu hạn (tài nguyên tự
nhiên, lao động và vốn) nhằm tạo ra lợi ích cao nhất. Chỉ số TPF đóng
góp vào tốc độ tăng GDP ngày càng giảm, nhất là giai đoạn 2001-2010

là sự minh chứng rõ nét nhất về mối quan hệ giữa việc sử dụng các yếu
tố sản xuất với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế Việt nam.
Thật vậy, thử nhìn lại 4 kế hoạch 5 năm 1991-2010 sẽ thấy rõ hơn
điều này: Tính từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng
trưởng cao nhất là trong 5 năm đầu (1991-1995, riêng năm 1995 GDP
tăng 9,5% mức cao nhất cho đến nay) và kéo dài đến hết năm 1996
(GDP tăng 9,3%), trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực (1997- 1999). Có thể nói giai đoạn này là thời kỳ nền kinh tế có
sức bật mạnh nhất, nhờ động lực đổi mới thể chế kinh tế (chuyển từ
cơ chế cũ sang cơ chế mới - như sự bung ra của chiếc lò xo bị đè nén).
Nhưng thời gian tăng trưởng chỉ được 4 năm (1992-1996), cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực đã kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 1997
đến năm 2000, mà năm 1999 được xem là đáy của suy giảm (GDP tăng
4,8%). Tại sao một nền kinh tế mới chớm bước vào thời kỳ đầu của tăng
trưởng, có ưu thế về tài nguyên, lao động và lợi thế tự nhiên về nông
nghiệp, chưa hội nhập với nền tài chính khu vực, nhưng lại chịu ảnh
hưởng mạnh như vậy? Có thể lý giải bằng 2 nguyên nhân chính: (i) tăng
trưởng dựa vào nguồn đầu tư trực tiếp của các nước trong khu vực và
xuất khẩu dựa vào sự trung gian của các quốc gia này; (ii) thể chế kinh
tế chưa đồng bộ và đủ mạnh để phát huy năng lực nội sinh của nền kinh
tế (nội lực), nên dù quy mô nền kinh tế còn quá nhỏ vẫn không “trụ”
400


được. Trong thời kỳ này nhà nước đề ra chủ trương phát huy nội lực,
dựa vào nội lực là chủ yếu để phát triển, nhưng trên thực tế việc đổi mới
thể chế kinh tế không kịp thời và cũng không đáp ứng được chủ trương
trên, nên thực chất nền kinh tế vẫn lệ thuộc vào thị trường nước ngoài.
Bước qua giai đoạn 2001-2005, tình hình kinh tế khu vực và thế
giới diễn biến thuận lợi, cùng với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm

2000, nền kinh tế nước ta như có một luồng sinh khí mới để phục hồi
tốc độ tăng trưởng, nhưng chưa lấy lại được tốc độ của giai đoạn 19921996. Năm 2005, tốc độ tăng GDP đạt mức cao nhất của thời kỳ này
cũng chỉ 8,4% và bắt đầu suy giảm dần từ 2006 (tăng 8,2%) cho đến
chạm đáy vào năm 2009 (5,32%), do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Năm 2010 nền kinh tế có hồi phục
tăng trưởng nhờ “gói kích thích kinh tế” áp dụng trong 2 năm 20092010, nhưng bước vào năm 2011 nền kinh tế lâm vào tình trạng tái lạm
phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô và dấu hiệu trì trệ.
Như vậy trong 4 kế hoạch 5 năm từ 1991 đến 2010, thì trong 5 năm
đầu (1991-1995), nhờ vào cải cách đột phá về thế chế (chuyển sang thể
chế thị trường) nền kinh tế đã tự vượt qua cuộc khủng hoảng từ bên trong
(1986-1988) và đặc biệt là vượt qua sự hụt hẫng do mất chỗ dựa từ khối
XHCN; trong 5 năm tiếp theo (1996-2000) do động lực tạo ra sức bật
giảm dần cùng với khủng hoảng tài chính khu vực, nền kinh tế trở nên
trì trệ; trong 5 năm kế tiếp (2001-2005) nhờ vào sự tiếp tục cải cách thể
chế (nổi bật là Luật Doanh nghiệp năm 2000 và Luật Đất đai năm 2003
v.v…), sự phát triển mạnh mẽ khu vực tư nhân trong nước (tốc tộ tăng
trưởng của khu vực tư nhân cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài).
Tuy nhiên, cũng chính giai đoạn này nền công nghiệp gia công phát triển
mạnh mẽ, tỷ trọng giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất (VA/GO) trong
các ngành công nghiệp giảm sút; thị trường tiêu thụ hàng ngoại nhập
(thành phẩm và bán thành phẩm) tăng mạnh; tính chất tiêu thụ của một
nền kinh tế hiện ra rõ nét. Bên cạnh đó, do sự yếu kém về thể chế (luật
pháp, quản trị công, tiêu cực trong quản lý nhà nước v.v…) đã tạo ra
bong bóng của 2 thị trường: chứng khoán và bất động sản, mà sự bùng
nổ của nó diễn ra trong 2 năm 2006-2007. Suốt trong năm 2006 cho đến
quý 1/2007, cơn sốt chứng khoán đã làm đảo lộn mọi hoạt động kinh tế,
401


khi chỉ số VN-Index lên đến gần 1.200 điểm vào tháng 3/2007; giá đất

đô thị tăng đến 4-5 lần (cá biệt có nơi tăng 7-8 lần) chỉ trong 6 tháng cuối
năm 2007. Hậu quả của 2 bong bóng này là nguyên nhân chủ yếu gây
nên cuộc “tiểu khủng hoảng” vào giữa năm 2008, khi bắt đầu có dấu hiệu
của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong kế
hoạch 5 năm cuối cùng (2006-2010) của 20 năm thực hiện công nghiệp
hóa - hiện đại hóa (1991-2010), thì mất 3 năm tập trung sức để đối phó
với tác động từ bên ngoài và khắc phục sự bất ổn từ bên trong của nền
kinh tế, nên những kết quả đạt được chỉ là những thành công ngắn hạn,
những lại bộc lộ rõ nét hơn về những bất ổn từ cơ cấu kinh tế.
3. Kinh tế Việt Nam đang ở đâu khi tiến hành tái cơ cấu và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng: cốt lõi của tái cơ cấu kinh tế là
chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất
Điểm qua một vài nét chấm phá của 4 kế hoạch 5 năm vừa qua ở
phần trên, để có thể rút một số nhận định:
+ Thứ nhất, chúng ta đã đi 2/3 đoạn đường của sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước do Đại hội VII (1991) đề ra, với 4 kế
hoạch 5 năm, nhưng nền kinh tế chưa ra khỏi giai đoạn 1 của 4 giai đoạn
trong quá trình công nghiệp hóa: (i) gia công, lắp ráp; xuất khẩu thô, lao
động rẻ, dựa vào nước ngoài; (ii) hình thành công nghiệp phụ trợ, sản
xuất linh kiện phụ kiện, xuất khẩu tinh, phụ thuộc một phần nước ngoài
(như Thái Lan, Malaysia v.v…); (iii) làm chủ công nghệ và quản lý, có
năng lực tự sản xuất hàng hóa chất lượng cao, quan hệ tương thuộc với
nước ngoài (như Hàn Quốc, Đài Loan v.v...); (iv) các nền kinh tế công
nghiệp hóa hàng đầu thế giới.
+ Thứ hai, từ Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) chúng ta đã chủ
trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia các tổ chức kinh
tế khu vực và định chế kinh tế - tài chính quốc tế, mà đỉnh cao là gia
nhập WTO cuối năm 2006. Đây là chủ trương đúng đắn để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa (rút ngắn 4 giai đoạn nêu trên), nhưng trên thực
tế đường như chúng ta không có hành động gì mang tính “chủ động”

có hiệu quả nhằm tạo ra sức mạnh nội lực để tham gia “cuộc chơi” này.
Hệ quả là càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, thì nền kinh tế
dễ bị tổn thương trước sự biến động của kinh tế thế giới. Mọi mục tiêu
402


của các kế hoạch 5 năm dường như chỉ chú trọng vào tốc độ tăng GDP,
mà không chú trọng vào chất lượng tăng trưởng. Sự tăng đột biến về
đầu tư từ 2001 đến nay, làm tăng nhanh hệ số ICOR, cho thấy trong
10 năm vừa qua chúng ta đã “trả giá” quá đắt cho mục tiêu tăng GDP
(năm 1991, yếu tố vốn đóng góp 8,4% vào tốc độ tăng trưởng; lao động
16,9%; năng suất tổng hợp 74,7% thì các con số trên vào năm 2000 là:
47,4%; 13,8% và 38,8%; năm 2005 là: 59,8%; 16,4% và 23,8%; năm
2007 là: 59,5%; 14,8% và 27,7% v.v…). Như vậy, từ năm 1991 đến nay,
yếu tố vốn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế giảm đi 7 lần, nhưng
sự tăng đầu tư đã không tạo được sự chuyển biến đáng kể tính chất của
nền kinh tế. (Chúng ta thường giải thích sự tăng nhanh hệ số ICOR là do
đầu tư vào hạ tâng kỹ thuật và xã hội. Điều đó là có thật, nhưng chính hạ
tầng kỹ thuật ngày càng tụt hậu so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.).
+ Thứ ba, trong tất cả các kế hoạch 5 năm đều có nội dung “đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế”, nhưng trên thực tế không có chính
sách (thể hiện qua hệ thống luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô)
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dường như chúng ta cứ an tâm
rằng, mỗi năm giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp trong cơ cấu GDP
giảm và 2 khu vực còn lại tăng lên chút ít là cơ cấu kinh tế chuyển dịch,
mà ít quan tâm đến sự chuyển dịch cơ cấu giá trị trong từng nhóm ngành
kinh tế hay sự thay đổi về giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ trong
cơ cấu giá trị sản xuất của mỗi sản phẩm. Nếu xét về phương diện chính
sách kinh tế và sự điều tiết vĩ mô, thì trong suốt 20 năm qua, không thể
hiện ý đồ về mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa của Nhà nước. Sự

điều hành các kế hoạch 5 năm hoàn toàn không có tác dụng định hướng
cho sự vận động của thị trường, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp,
mà chỉ đối phó với sự tự phát của thị trường (trong và ngoài nước), nên
không đạt được các mục tiêu dài hạn.
Những điều rút ra như trên cho thấy, những bất ổn kinh tế vĩ mô
tiềm ẩn từ nội tại của nền kinh tế đang đặt ra hiện nay, là hệ quả không
tránh khỏi của quá trình 20 năm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa,
nhưng không đạt được mục tiêu chiến lược (mục tiêu có ý nghĩa quyết
định để nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững trên con đường công
nghiệp hóa - là chuyền nền kinh tế từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 trong
4 giai đoạn nói trên).
403


4. Tiến hành đồng bộ 7 nhóm nội dung tái cơ cấu nền kinh tế
Để nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và bền vững cần phát triển
trên 3 trụ cột: thể chế kinh tế; nguồn nhân lực chất lượng cao và kết cấu
hạ tầng đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và cải thiện dân sinh.
Thực hiện chiến lược 10 năm 2001-2010, nền kinh tế Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng khá so với nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng do sự kéo
dài quá lâu tình trạng tăng trưởng dựa trên lao động rẻ, tăng nhanh vốn
đầu tư, khai thác tài nguyên thô và phát triển nền công nghiệp gia công
đã tạo nên sự bất ổn từ nội tại cơ cấu của nền kinh tế. Do đó trong 4 năm
qua dưới tác động không thuận lợi của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế
Việt Nam càng bộc lộ những yếu kém, mà thể hiện rõ nét là tình hình
bất ổn kinh tế vĩ mô, phải liên tục áp dụng các biện pháp tình thế để ứng
phó. Ba đột phá chiến lược trong Chiến lược 10 năm 2011-2020, do Đại
hội XI của Đảng đề ra chính là những giải pháp chủ yếu nhằm vào trọng
tâm của bài toán phát triển.
Năm 2012 đã là năm thứ 2 của Kế hoạch 5 năm 2011-2015, phải

đồng thời giải quyết cả những vấn đề ngắn hạn và tính đến trung và
dài hạn. Nhưng trên thực tế thì những giải pháp trung và dài hạn phải
“nhường chỗ” cho những giải pháp tình thế nhằm ứng phó với lạm
phát. Trong hơn 4 năm qua chúng ta vừa chống chọi với khó khăn do
tác động từ bên ngoài và bất ổn từ nội tại cơ cấu kinh tế, để duy trì mức
tăng trưởng kinh tế tối thiểu, giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh
nên chủ yếu vẫn tập trung cho các vấn đề ngắn hạn. Nhưng đã mất một
năm của Kế hoạch 5 năm 2011-2015, nên cần sớm có chính sách căn
cơ để triển khai 3 khâu đột phá, trong đó ưu tiên khâu thể chế kinh tế.
Chính đột phá vào khâu thể chế kinh tế mới tạo ra “lợi thế động” nâng
cao sức cạnh tranh.
Với thực trạng nền kinh tế hiện nay, nhiệm vụ tái cấu trúc và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế cần có lộ trình và bước đi cần thiết,
nhưng trước mắt cần tập trung làm nhanh 7 nhóm vấn đề và mỗi nhóm
có hệ thống chính sách riêng:
+ Thứ nhất là phải tái cơ cấu nền công nghiệp, chuyền từ nền công
nghiệp gia công sang sản xuất (bao gồm cả công nghiệp chế biến sản
phẩm nông nghiệp);
404


+ Thứ hai, tái cơ cấu đầu tư, trong đó ưu tiên đầu tư công dựa trên
hai nguyên tắc là phí tổn cơ hội và tính lan tỏa, tính đồng bộ; gắn liền
với chính sách phân bố lại nguồn lực để nâng cao hiệu quả sử dụng đối
với mọi thành phần kinh tế;
+ Thứ ba, là tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó ưu tiên hệ
thống ngân hàng thương mại và phát triển các định chế tài chính - tín
dụng phi ngân hàng;
+ Thứ tư, tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó ưu tiên tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước và phải sớm ban hành cho được luật về quản lý

vốn kinh doanh của nhà nước;
+ Thứ năm là tái cơ cấu thị trường xuất khẩu và thị trường nội
địa. Đã tới lúc không phải cái gì xuất khẩu được là xuất, không chạy
theo kim ngạch đơn thuần mà phải tính toán giá trị nội địa hóa trong cơ
cấu giá trị xuất khẩu và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Cần phát triển thị
trường nội địa, tạo ra sức mua từ bên trong, đặc biệt khuyến khích các
doanh nghiệp trong nước làm chủ mạng phân phối nội địa;
+ Thứ sáu, tái cơ cấu thị trường lao động, gắn liền với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục đào
tạo;
+ Thứ bảy cơ cấu lại các vùng và địa bàn kinh tế trọng điểm; xóa
bỏ tư duy và phương thức quy hoạch phát triển kinh tế địa phương theo
ranh giới hành chính tỉnh.
Hiện nay đang thực hiện chủ trương ưu tiên tái cấu trúc 3 lĩnh vực,
trong đó có đầu tư là đúng đắn, nhưng tôi cho rằng cần có đề án tổng
thể tái cấu trúc nền kinh tế gồm nhiều lĩnh vực và qua đó phân kỳ chính
sách ưu tiên cho từng lĩnh vực trong từng giai đoạn từ nay đến năm
2020, trong đó vấn đề cơ cấu lại thị trường cũng cần được ưu tiên thực
hiện đồng bộ ngay trong kế hoạch 5 năm này.
5. Đổi mới nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường: vấn đề tiên quyết để tái cơ cấu trúc đầu tư,
trong đó có đầu tư công
Trước hết cần xác định rõ chức năng của Nhà nước trong kinh tế
thị trường. Đây là cơ sở để đổi mới nội dung thể chế kinh tế nói chung
405


và tái cấu trúc đầu tư công nói riêng. Về lý luận cũng như thực tiễn cho
thấy, không phải lúc nào thị trường cũng đúng trong việc phân bố nguồn
lực của nền kinh tế; sự thất bại của thị trường sẽ mang đến những hệ

quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, tạo nên những cuộc khủng hoảng
kinh tế; thị trường không thay nhà nước thực hiện chức năng xã hội;
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây với các cơn “sốt”
nhà đất, chứng khoán, lương thực, thực phẩm v.v… là minh chứng rõ
nét về sự thất bại của thị trường trong việc phân bố nguồn vốn đầu tư,
làm méo mó thị trường, lãng phí nguồn lực xã hội. Do đó, nhiều nhà
kinh tế đã ví mối quan hệ giữa thị trường với Nhà nước như “hai bánh
xe” của một cỗ xe vận hành nền kinh tế; sự thiếu đồng bộ trong quá
trình vận hành của “hai bánh xe” này chính là điều, mà chúng ta thường
nói là sự bất cập trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của các
nền kinh tế, vai trò của Nhà nước càng đặc biệt quan trọng. Sự cạnh
tranh doanh nghiệp, cạnh tranh sản phẩm đã trở thành cạnh tranh quốc
gia và 3 giác độ cạnh tranh này ngày càng không thể tách rời, mà yếu
tố cạnh tranh quốc gia đã và đang trở thành nhân tố quyết định đối với
quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh sản
phẩm trong quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế. Sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và sản phẩm, trước hết dựa vào sức cạnh tranh của nền
kinh tế và trong mối quan hệ tác động qua lại giữa 3 chủ thể này, thì sức
cạnh tranh của nền kinh tế có vai trò là chủ thể dẫn đường. Do đó, có
thể nói rằng chức năng quản lý kinh tế của nhà nước là tạo ra các yếu tố
dẫn dắt thị trường phát triển.
Hiện nay, dường như trong một số chính sách và quan niệm của
một số người đi lệch theo hướng cường điệu hóa vai trò của thị trường
trong phát triển, mà chưa thấy hết vai trò của Nhà nước. Thị trường hoạt
động theo quy luật của “bàn tay vô hình”, mà các quy luật đó giống
như quy luật “nước chảy xuống chỗ trũng”. Còn vai trò của Nhà nước
can thiệp vào thị trường, là dẫn dắt dòng nước chảy theo mục đích của

406


mình (như đắp đê, khai mương, đặt máy bơm v.v…). Tức là quan hệ
giữa nhân tố khách quan của quy luật thị trường với ý muốn chủ quan
trong mục tiêu phát triển của Nhà nước không làm triệt tiêu lẫn nhau.
Đây chính là điểm khó khăn nhất về phương diện tư duy, cũng như hành
động trong suốt quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường và cũng chính là điều bất
cập trong cơ chế quản lý kinh tế hiện nay.
6. Một thể chế kinh tế ưu việt là có khả năng giải quyết tốt nhất
những khuyết tật của thị trường
Về thuộc tính của kinh tế thị trường, cho đến nay vẫn bộc lộ 3
khuyết tật lớn: (i) luôn luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra
các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; (ii) vì mục tiêu lợi
nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích toàn cục, lợi
ích cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn tránh luật pháp
gian lận thương mại v.v…) là những điển hình; (iii) kinh tế thị trường
về bản chất là mô hình làm giàu cho thiểu số; tự nó không thể làm giàu
cho mọi người.
Những khuyết tật trên, các quốc gia, tuỳ theo điều kiện lịch sử và
đặc điểm của mình và tùy theo mục tiêu của nhà nước đó đề ra những
công cụ quản lý khác nhau. Ngày nay, khi nói đến phát triển bền vững,
tức là sử dụng vai trò của Nhà nước để khắc phục 3 khuyết tật của thị
truờng nói trên.
Nhà nước không bao cấp rủi ro cho doanh nghiệp, nhưng cũng
không tạo ra những rủi ro cho doanh nghiệp bằng các quyết định hành
chính của mình. Hiện nay, hệ thống pháp luật của nước ta trong quản
lý kinh tế thị trường, tuy chưa hoàn thiện, nhưng cũng đã phủ kín hầu
hết các lĩnh vực. Nhưng thực tế hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước

về kinh tế chưa cao là do sự can thiệp của Nhà nước, ở nhiều cấp chính
quyền khác nhau, không phù hợp với sự vận động của thị trường. Nhưng
mặt khác Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo
đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã
đề ra. Đầu tư công chính là nhà nước sử dụng công cụ ngân sách để bổ
khuyết cho thị trường nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
407


7. Tiếp tục thực hiện chính sách tài chính công tích cực, nhưng
phải có điều kiện
Trong nhiều năm nữa, nước ta còn phải thực hiện chính sách chủ
động bội chi ngân sách bằng con đường vay nợ để đầu tư phát triển hạ
tầng kỹ thuật và xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất
nước. Đó là chính sách tài chính công tích cực trong điều kiện tích lũy
của nền kinh tế còn thấp, tiết kiệm nội địa chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư
phát triển bền vững. Nhưng chính sách này phải kèm theo các điều kiện
rất nghiêm ngặt như: phải có chiến lược nợ Chính phủ và nợ quốc gia rõ
ràng; những điều kiện bảo đảm hiệu quả trong đầu tư; khả năng trả nợ
hàng năm, cả về VND lẫn ngoại tệ; tuân thủ nguyên tắc “phí tổn cơ hội”
và tính đồng bộ trong đầu tư; chi tiêu nhà nước thật sự tiết kiệm; cơ chế
phân bố vốn đầu tư minh bạch; cơ chế giám sát dòng vốn đầu tư chặc
chẽ v.v… Tuy nhiên, thực tế trong các năm qua, việc bội chi ngân sách
nhà nước chưa thật sự tuân thủ các điều kiện nêu trên và nhiều điều kiện
khác nữa, nên chính sách “tài chính công tích cực” đã trở thành nhân tố
tiêu cực, có nguy cơ gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Nếu tiếp tục đầu tư như cách làm trong những năm qua thì hệ quả
không chỉ tăng rủi ro cho hệ thống tài chính, mà còn góp phần gây bất
ổn vĩ mô (lạm phát, nhập siêu v.v…).
Trong nhiều năm qua, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa 12,

đã liên tục tăng mức bội chi và phát hành trái phiếu Chính phủ (nhưng
không tính vào bội chi) để phân bố cho các ngành và địa phương đầu tư
vào các lĩnh vực mà Quốc hội cho phép. Tuy nhiên, chưa có sự đánh giá
mang tính định lượng nào về hiệu quả của các dự án và công trình đã sử
dụng nguồn vốn này. Khi phân bố nguồn vốn đầu tư Bộ Kế hoạch Đầu
tư có đưa ra tiêu chí để phân bổ, nhưng chưa thấy có sự đánh giá về kết
quả thực hiện một cách cụ thể. Tình trạng các ngành và địa phương đưa
ra quá nhiều dự án, trong khi đó nguồn vốn rất hạn chế, nên nơi nào,
ngành nào “chạy” thủ tục sớm thì được chấp thuận và giải ngân sớm,
nơi nào chậm thì để lại. Cách làm này dẫn đến hệ quả là phá vỡ tính ưu
tiên và tính đồng bộ của đầu tư, tình trạng “vốn nằm” khắp nơi; ngân
sách phải trả lãi, nhưng dự án thì phơi sương phơi gió. Với cách phân
bố vốn đầu tư như hiện nay, tôi có cảm tưởng là chúng ta lâm vào tình
408


trạng “phóng lao phải theo lao”, vì nếu dừng lại chương trình hay dự án
nào, thì tiền đã bỏ ra trở thành “của đổ”.
Đất nước ta khó khăn mọi điều, lĩnh vực nào, địa bàn nào cũng cần
phải đầu tư, chứ không chỉ ở địa bàn khó khăn hay ngành nào. Dĩ nhiên,
phải có địa bàn và lĩnh vực cần phải ưu tiên, nhưng phải kèm theo điều
kiện. Nếu chúng ta nhìn ở giác độ toàn cục, thì ở địa bàn khó khăn việc
đầu tư là vì mục tiêu chính trị, xã hội; còn ngay địa bàn có lợi thế như
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thì cũng phải đầu tư để nuôi nguồn
thu chung cho đất nước, chứ không chỉ vì nơi đó. Ví dụ, ưu tiên cho
nông thôn, miền núi, biên giới thì nên thực hiện theo chương trình quốc
gia, có sự hỗ trợ của TW trong quá trình thực hiện, kể cả giai đoạn thiết
lập dự án, triển khai thực hiện, đánh giá kết quả, chứ không nên khoán
trắng cho địa phương, theo cách phân cấp như hiện nay; đầu tư cho dạy
nghề phải tính đến “phần mềm” tức là sự đồng bộ của việc chuẩn bị đội

ngũ giáo viên, đối tượng tuyển sinh, sử dụng sau đào tạo, chứ không chỉ
việc xây dựng trường lớp; ngành y tế cũng vậy v.v… Do đó, không thể
phân bố đầu tư với một cách nhìn khá đơn giản là ngành hay địa bàn, mà
phải cụ thể đến từng dự án; thời điểm đầu tư, cách thực hiện v.v… để
cân đối nguồn vốn với phương châm: làm dự án nào phải dứt điểm đưa
vào sử dụng; phải bảo đảm tính đồng bộ và tính lan tỏa của từng dự án.
Chúng ta chưa có cơ chế trách nhiệm về đầu tư kém hiệu quả.
8. Vay nợ Chính phủ đến ngưỡng nào là an toàn?
Cơ cấu nợ công (theo khái niệm nợ công đã được định nghĩa trong
Luật quản lý nợ công) của nước ta hiện nay, chủ yếu là nợ dài hạn, nên
chưa có áp lực lớn về khả năng trả nợ. Ví dụ năm 2011 bố trí 85 nghìn tỷ
đồng để trả nợ so với 590 nghìn tỷ đồng thu ngân sách (tỷ lệ gần 15%),
thì vẫn an toàn. Tuy nhiên, nếu phần thu còn lại sau khi trả nợ và chi
thường xuyên ngày càng giảm tiếp cận đến 0, thì việc vay nợ đã đến
ngưỡng mất an toàn. Nếu một nền tài chính công, mà việc bội chi liên tục
để đầu tư trong 10 năm, mà không tạo ra được hiệu quả của một nền kinh
tế có khả năng tạo ra giá trị cao hơn (tính tương đối) thể hiện sự thặng dư
cho “tái sản xuất mở rộng” (căn cứ mức chênh lệch giữa nguồn thu và
chi thường xuyên và trả nợ đến hạn), thì nguy cơ mất an toàn thực sự xảy
ra. Nói cụ thể: nếu năm 2001 bắt đầu bội chi bằng nguồn vay dưới nhiều
hình thức để đầu tư, ở thời điểm chưa có thặng dư giữa nguồn thu và chi
409


thường xuyên, thì vào thời điểm 2010, phải có thặng dư ngân sách cho
đầu tư, sau khi chi thường xuyên và trả nợ đến hạn. Với cách tính như
vậy, tôi đề nghị phân tích và đánh giá tình hình vay nợ trong 10 năm qua
và xây dựng chiến lược tài chính công trong 10 năm tới, khi đó mới có sở
đánh giá về tính an toàn. Do đó, nếu không có dự báo xa ở tầm quốc gia
cũng như doanh nghiệp nhà nước, mà đến khi thấy sự mất an toàn xuất

hiện, thì thể chống đỡ kịp. Tình trạng này được gọi là “vỡ nợ”.
9. Giải quyết mối quan hệ giữa đầu tư và sự vận động của thị
trường tài chính
Trong giai đoạn 2001- 2005, nền kinh tế Việt Nam phục hồi sau tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, tốc độ tăng GDP bình
quân 7,5%/năm. Trong giai đoạn này tổng dư nợ tín dụng của hệ thống
NHTM tăng trung bình 23-24%/năm; bội chi ngân sách dưới 5% GDP;
tổng đầu tư xã hội/GDP khoảng 38%. Tình hình diễn ra tương đối bình
thường trong năm 2006 (GDP tăng 8,3%; dư nợ tín dụng tăng 24%; bội
chi ngân sách 5% GDP v.v…). Nhưng từ 2007, hiện tượng bất thường
đã xảy ra: Dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM tăng đột biến và thậm
chí ngược chiều với tốc độ tăng GDP (năm 2007: GDP tăng 8,6%; dư
nợ tín dụng tăng 53,4%; năm 2008: GDP tăng 6,4%, dư nợ tín dụng tăng
27,6%; năm 2009: GDP tăng 5,3%, dư nợ tín dụng tăng 37,3%; năm
2010: GDP tăng 6,78%; dư nợ tín dụng tăng 31,19%) và bội chi ngân
sách ở mức 6-7%GDP; tổng đầu tư xã hội đạt mức 42% GDP.
Qua quan sát thực tiễn tình hình, tôi có 3 nhận xét về nguyên nhân
sau đây:
+ Thứ nhất, bong bóng của thị trường chứng khoán và thị trường
bất động sản từ cuối năm 2006 đến cuối năm 2007 đã tạo đột biến thị
trường tín dụng và nó đã hình thành lượng tài sản ảo so với nền kinh tế
thực (sự chênh lệch giữa tài sản tài chính với tài sản thực) mà lạm phát
trong 2 năm 2007-2008 đã san bằng khoảng chênh lệch đó bằng một
mặt bằng giá mới. Sự tăng tín dụng các năm đó không tạo ra sự tăng tài
sản thực đáng kể của nền kinh tế, mà chỉ biểu hiện ở GDP danh nghĩa.
Mặt khác, tăng nhập siêu đột biến trong 3 năm qua cũng làm tăng tổng
cung tiền (quan hệ hàng - tiền), nhưng do nền kinh tế gia công, tỷ trọng
giá trị giá tăng trong cơ cấu giá trị hàng hóa thấp, nên dù tăng khối
410



lượng tiền tệ, nhưng không làm tăng GDP (ước khoảng 70- 80% giá trị
nhập siêu vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị chỉ chuyển hóa vào giá
trị xuất khẩu, chứ không làm tăng trực tiếp GDP).
+ Thứ hai, trong 3 năm qua 2008-2010, TTCK chủ yếu hoạt động
ở thị trương thứ cấp, mọi nguồn vốn hoạt động của hầu hết các doanh
nghiệp đều dựa vào hệ thống NHTM. Chính trong giai đoạn này là thời
kỳ mất cân đối cung - cầu “dịch vụ tín dụng ngân hàng”, nên cũng là
giai đoạn tạo ra “mảnh đất màu mỡ” cho các NHTM cổ phần nhỏ ra
đời hoạt động, đua tranh làm bùng nổ tín dụng và nghiêm trọng hơn
là gây rối thị trường tín dụng; làm cho chính sách tiền tệ mất phương
hướng, phải liên tục đối phó ngắn hạn, nguy cơ bất ổn tăng cao. Trong
bối cảnh đó, cộng thêm tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến sự mất niềm tin của nhà đầu tư, nên cả
chứng khoán vốn lẫn chứng khoán nợ trên TTCK đều bế tắc. NHTM
“một mình một chợ”. Lợi nhuận của NHTM tăng, nhưng rủi ro của cả
hệ thống và yếu tố bất ổn kinh tế vĩ mô không giảm, mà chỉ chuyển hóa
hình thức mà thôi.
+ Thứ ba, tình trạng bội chi ngân sách triền miên ngày càng lớn như
“chiếc thùng không đáy”; đầu tư công thiếu đồng bộ và không tuân thủ
nguyên tắc chi phí cơ hội đã góp phần tăng nhanh hệ số ICOR. Trong
năm 2009 - 2010, để thúc đẩy tăng GDP, khu vực đầu tư công, bao gồm
đầu tư ngân sách nhà nước và DNNN tăng nhanh, thu hút một khối lượng
tín dụng khá lớn; trong đó một phần bội chi ngân sách dựa vào tín dụng
và phát hành. Ngay cả cả trái phiếu của Chính phủ cũng dựa chủ yếu
vào NHTM, phần huy động trực tiếp từ công chúng chiếm tỷ trọng nhỏ.
Nhìn chung, từ mọi thành phần kinh tế lẫn ngân sách nhà nước đều dựa
chủ yếu vào hệ thống NHTM. Một khối lượng tiền khá lớn đưa vào khu
vực này, nhưng do tiến độ đầu tư kéo dài, thiếu đồng bộ nên không tạo ra
khối lượng tài sản tương ứng, kéo chậm vòng quay của đồng tiền.

Ba nguyên nhân trên có thể giải thích hiện tượng tăng tín dụng bất
thường trong 3 năm qua và sự mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu của thị
trường tài chính. Dĩ nhiên, nguyên nhân sâu xa từ cơ cấu của nền kinh
tế, nhưng chính sách tài chính - tiền tệ, đặc biệt là chính sách tài khoá;
sử dụng công cụ đầu tư công có ảnh hưởng rất quan trọng đến định
hướng tái cơ cấu nền kinh tế, mà dường như chúng ta chưa sử dụng
411


có hiệu quả. Do đó, vấn đề đang đặt ra là: Phải sử dụng công cụ chính
sách tài khoá nói chung và đầu tư công nói riêng để định hướng cho thị
trường tài chính cấu trúc lại; buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế phải tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp; phải giảm “nhiệt”
hệ thống NHTM trong cơn lốc tăng huy động vốn, tăng tín dụng; phát
huy chức năng huy động vốn trực tiếp của TTCK.
10. Tái cấu trúc lực lượng doanh nghiệp nhà nước theo hướng sử
dụng như công cụ để bổ khuyết những “khuyết tật” của thị trường
Vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là “tái cấu
trúc” lực lượng này để làm tốt vai trò tham gia điều tiết thị trường, cung
cấp tốt hơn các loại “hàng hoá và dịch vụ công cộng” phục vụ mục tiêu
phát triển bền vũng.
Nếu đứng trên quan điểm này để phân tích lực lượng DNNN hiện
hữu, thì đang tồn tại 3 vấn đề sau đây: (i) nhập nhằng giữa doanh nghiệp
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận (hình thức công ty) với định chế công
phi lợi nhuận (phi lợi nhuận không có nghĩa là bản thân tổ chức đó hoạt
không sinh lời, mà chủ sở hữu không thu lợi nhuận); (ii) mặc dù tất cả
các DNNN hiện nay đều được chủ sở hữu (nhà nước) cho được hưởng cơ
chế phi lợi nhuận (nhà nước không lấy lợi nhuận sau thuế như khu vục tư
nhân chia cổ tức chẳng hạn), nhưng trong hầu hết các ngành có DNNN
đều không “dẫn dắt” được thị trường, nếu bỏ cơ chế độc quyền. Điều này

cho thấy việc quản trị kém hiệu quả và (iii) hai nhóm lãnh vực cần sự
can thiệp mang tính chủ đạo của lực lượng kinh tế nhà nước là: cung cấp
hàng hoá và dịch vụ công cộng và các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời
thấp, nhưng cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo,
công nghiệp phụ trợ, đầu tư cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên
cứu, ứng dụng và phát triển công nghiệp công nghệ cao v.v… nhưng
dường như nhà nước lại “nhường” cho thị trường. Nhà nước đầu tư phát
triển lĩnh vực nào phải thể hiện quyết tâm chính trị của nhà nước, chứ
không phải để mặc DNNN cân nhắc hiệu quả tài chính đơn thuần.
Tái cấu trúc lực lượng DNNN để lực lượng này thực sự là sức mạnh
vật chất, cùng với thể chế kinh tế trở thành công cụ điều tiết thị trường
có hiệu quả. Đây là một nội dung rất quan trọng, không chỉ nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, mà còn gắn kết được vấn đề
412


đề kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Một đạo luật để chế định vấn
đề trên đang là vấn đề bức xúc đối với các nhà lập pháp Việt Nam.
11. Chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất: vấn đề
cốt lõi của chuyển đổi mô hình tăng trưởng: Cần một đạo luật về
vấn đề này
- Chủ trương tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của nền
kinh tế trong điều kiện hội nhập với kinh tế toàn cầu và khu vực là chủ
trương lớn của Đảng (Đại hội XI). Mặc dù Nghị quyết TW 3 (khoá XI)
đề ra yêu cầu tập trung tái cấu trúc 3 lĩnh vực: đầu tư công, hệ thống
NHTM và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong những năm trước
mắt, nhưng để có thể chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ
yếu dựa vào khai thác tài nguyên thô, lao động rẻ, tăng vốn đầu tư, phát
triển công nghiệp gia công v.v… sang nền kinh tế tăng trưởng dựa vào

tăng giá trị gia tăng, năng suất, hiệu quả v.v… thì một trong các mục
tiêu phải đạt được là: chuyển nền công nghiệp gia công sang sản xuất;
chuyển nền nông nghiệp xuất khẩu sản phẩm thô sang chế biến. Do đó,
vấn đề khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành các “cụm
liên kết sản xuất - cluster” đang là vấn đề cần ưu tiên trong lộ trình thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.
- Vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ đã được Chính phủ đặt ra
trong nhiều năm qua, nhưng thiếu một hệ thống chính sách đồng bộ
để dẫn dắt thị trường nên hệ quả là sự thất bại của nhiều ngành công
nghiệp sau nhiều năm thu hút đầu tư đầu tư, nhất là FDI mà điển hình
nhất là công nghiệp ô-tô và công nghiệp điện tử. Ngày 24/12/2011,
Thủ tướng ban hành Quyết định số 12/2011QĐ-TTg về chính sách phát
triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ, nhưng nội dung và địa vị pháp
lý của Quyết định này không đủ sức để thực hiện mục tiêu phát triển
như nền kinh tế đang đòi hỏi. Chính sách khuyến khích phát triển phải
được chế định dưới hình thức một đạo luật đủ sức tác động dẫn dắt thị
trường, định hướng đầu tư cho các thành phần kinh tế theo nguyên tắc:
thông qua chính sách kinh tế Nhà nước tác động vào thị trường, chính
thị trường sẽ tác động vào hoạt động của doanh nghiệp. Chính sách kinh
tế chỉ có thể đi vào cuộc sống, khi đã được luật hoá.
413


- Phạm vi điều chỉnh: Luật này quy định các chính sách khuyến
khích phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ: (i) cơ khí; (ii) điện
tử - viễn thông; (iii) cao su - plastic và (iv) hoá chất. Công nghiệp hỗ trợ
của 4 nhóm ngành trên phục vụ cho tất cả ngành sản xuất công nghiệp
của nền kinh tế; khuyến khích phát triển các “cụm liên kết sản xuất”.
- Đối tượng áp dụng: Các doanh nghiệp, nhà đầu tư; tổ chức, cơ
quan nhà nước có liên quan đến công nghiệp hỗ trợ; các dự án đầu tư

phát triển công nghiệp hỗ trợ và xây dựng các “cụm liên kết sản xuất”.
Cần nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về nội dung của luật (trong đó
các quốc gia và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan khá thành công
trong lĩnh vực này). Trước mắt có thể xác định một số nội dung như :
- Xác định nội dung của khái niệm công nghiệp hỗ trợ và “cụm liên
kết sản xuất”.
- Những loại hình doanh nghiệp khuyến khích và không khuyến
khích sản xuất các ngành công nghiệp hỗ trợ (gắn với chính sách phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ).
- Nội dung các chính sách khuyến khích phátr triển công nghiệp hỗ
trợ; đặc biệt là chính sách thuế; đất đai, tín dụng; nội địa hoá sản phẩm v.v…
- Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan; vai trò của
các định chế hỗ trợ v.v…
12. Khuyến khích phát triển mô hình đối tác công tư (PPP):
khâu đột phá để thực hiện “đột phá chiến lược” về xây dựng đồng
bộ kết cấu hạ tầng
Loại hình đấu tư theo hình thức đối tác công tư (Private-PublicPartnership- PPP) là mô hình huy động nguồn vốn khu vực tư nhân đầu
tư vào lĩnh vực cung cấp dịch vụ và hàng hoá công cộng, đặc biệt trong
lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật và xã hội, xử lý môi trường đã phát triển mạnh
mẽ ở nhiều quốc gia trong vài thập niện qua. Đây là một hình thức xã
hội hoá đầu tư nhằm mục đích vừa giảm gánh nặng của ngân sách nhà
nước, vừa đẩy nhanh tiến độ cung cấp dịch vụ hạ tầng kỹ thuật và xã hội
đáp ứng kịp thời (và kể cả đi trước một bước) yêu cầu phát triển kinh tế
và cải thiện dân sinh.
414


Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương “xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ” là một trong 3 đột phá chiến lược trong
giai đoạn 2011-2020, nên cần tập trung huy động mọi nguồn lực, có thể

có được để thực hiện mục tiêu trên. Bên cạnh sự rất hữu hạn của nguồn
vốn ngân sách, ước chỉ bảo đảm 20-30% nhu cầu đầu tư, nên cần có
chính sách để huy động các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào
hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô
thị. Nguồn lực này chì có thể huy động bằng chính sách và cơ chế mang
tính đột phá đủ sức hấp dẫn khu vực tư nhân đầu tư, xây dự khuôn khổ
pháp lý bảo đảm cho qua trình xây dựng, triển khai thực hiện và sự vận
hành của dự án đầu tư.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg
ngày 09/11/2010, kèm theo Quy chế thí điểm, nhưng với địa vị pháp
lý của một quyết định do Thủ tướng ban hành nên tác dụng rất hạn chế
về mặt chính sách và cơ chế hoạt động của hình thức “đối tác công tư”.
Trên thực tế, Quyết định nói trên không đủ bảo đảm một khuôn khổ
pháp lý để vận hành mô hình trên và không đủ mức hấp dẫn đối với nhà
đầu tư. Mặt khác nếu các địa phương và các ngành có điều kiện thực
hiện hình thức đầu tư này bắng các chính sách “sáng tạo” riêng của
mình sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong chính sách và không bảo đảm sự an
toàn về pháp lý cho các bên. Do đó, một đạo luật do Quốc hội ban hành
là yêu cầu cấp thiết để thực hiện một chủ trương lớn của Đảng về xã hội
hoá đầu tư, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh:
+ Lĩnh vực được thực hiện theo hình thức công tư đối tác.
+ Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư được hưởng chính sách ưu đãi
đầu tư.
+ Quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có liên quan.
Nội dung luật:
Việc xác định nội dung luật cần phải được nghiên cứu trong quá
trình xây dựng dự án luật, kể cả nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài.
Tuy nhiên, trước mắt có thể xác định một số nội dung như sau:


415


+ Xác định mô hình đầu tư “đối tác công tư”; loại hình doanh
nghiệp hoạt động;
+ Xác định lĩnh vực thực hiện mô hình trên.
+ Chính sách bù đắp cho nhà đầu tư để bảo đảm sinh lời trong quá
trình đầu tư như về đất đai, thuế, tín dụng ưu đãi, bảo lĩnh tín dụng,
tham gia vốn của nhà nước, cơ chế thu phí hoàn vốn và sinh lời v.v…
+ Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
+ Quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có liên quan: dự án
thuộc Bộ, ngành TW, thuộc chính quyền địa phương.
+ Cơ chế vận hành của dự án như quy trình thủ tục, ký kết hợp
đồng v.v…
13. Xây dựng Luật về thể chế tài chính công thay Luật ngân
sách nhà nước hiện hành. Chuyển Nghị quyết của Quốc hội về ngân
sách nhà nước hàng năm thành Luật ngân sách hàng năm theo quy
trình làm luật của Quốc hội
Trong điều kiện của Việt Nam, cần xây dựng một hệ thống quan
điểm đồng bộ về xây dựng một nền tài chính quốc gia dựa trên quan
điểm “tài chính công tích cực”; sử dụng công cụ chính sách tài khoá
bội chi chủ động để xây dựng kết cấu hạ tầng và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế; nhưng chính sách trên là “con dao hai lưỡi”, nếu cơ chế quản
trị công yếu kém sẽ có tác dụng ngược lại. Để tái cơ cấu đầu tư công
trước hết phải đổi mới căn bản phương thức quản trị tài chính công, mà
phương thức này liên quan đến cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; phương thức phân bố đầu tư; cơ chế giám sát và đánh giá hiệu
quả; quan điểm về vị trí vai trò, chức năng của DNNN v.v… nên đặt vấn
đề tái cơ cấu đầu tư công trong mối quan hệ hệ thống để có bước đi cụ
thể. Một trong những ưu tiên là: sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo

hướng tách biệt 2 loại ngân sách: ngân sách quốc gia và ngân sách địa
phương, theo hướng trở thành Luật về thể chế tài chính công. Nhà nước
thống nhất về thể chế tài chính công, còn thiết lập và thực thi ngân sách
thì giao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương đối với ngân sách
địa phương (HĐND quyết định); ngân sách quốc gia do Quốc hội quyết
416


định (bao gồm phần trợ cấp cho địa phương); tiến tới việc xây dựng
Luật Ngân sách hàng năm theo quy trình xây dựng luật của Quốc hội,
như thông lệ quốc tế; bảo đảm sự giám sát của Quốc hội đối với ngân
sách quốc gia và Hội đồng nhân dân đối với ngân sách địa phương.
14. Cải cách thể chế tài chính công theo hướng: minh bạch hóa
quyền hạn và trách nhiệm các cấp chính quyền
Đổi mới công tác kế hoạch nhằm xác định rõ những nội dung kinh
tế - xã hội mà mỗi cấp chính quyền cần hoạch định; đồng thời tính toán
sự cân đối các nguồn lực tương ứng với các mục tiêu đã xác định, nhằm
định hướng cho thị trường phát triển. Đổi mới công tác kế hoạch và quy
hoạch thực chất là xác định lại vai trò của Nhà nước trong suốt quá trình
dẫn dắt thị trường phát triển theo mục tiêu của mình. Do đó, một trong
các nhiệm vụ quan trọng của công tác quy hoạch kế hoạch là chỉ dẫn và
dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển.
Cần đổi mới nội dung và phương thức xác định các chỉ tiêu kinh
tế - xã hội hiện nay theo hướng chuyển từ tính chất pháp lệnh sang tính
chất chỉ dẫn (Indicated plan). Ví dụ như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy
động vốn đầu tư, chỉ số tăng giá v.v… mang tính chất dự báo để định
hướng cho nhà đầu tư, không cần xem đó là những trói buộc trong điều
hành nền kinh tế của Nhà nước. Trọng tâm của công tác kế hoạch là Nhà
nước đưa ra những tín hiệu mang tính chỉ dẫn để dẫn dắt thị trường;
đồng thời xác định các chính sách, biện pháp, giải pháp nhằm bảo đảm

các mục tiêu đề ra.
Về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần tập trung vào các chỉ
tiêu phát triển bền vững như các chỉ tiêu về an sinh xã hội, môi trường
v.v… nhằm trói buộc các cấp chính quyền phải thực hiện nhiệm vụ của
mình. Các chỉ tiêu về kinh tế, xét cho cùng, chỉ là phương tiện; còn các
chỉ tiêu về an sinh - xã hội mới là mục tiêu của phát triển.
Thực hiện nguyên tắc phân quyền trong quản lý kinh tế của Nhà
nước nhằm bảo đảm tính linh hoạt của thị trường là xu hướng chung của
kinh tế thị trường thế giới ngày nay. Xu hướng này ở nước ta thường gọi
là mở rộng việc phân cấp của Chính phủ cho chính quyền địa phương.
Việc phân cấp cần được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau:
417


- Mở rộng phân cấp, nhưng đồng thời phải tạo cơ chế để tăng
cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của chính quyền Trung ương đối với
chính quyền địa phương. Cụ thể là Chính phủ cần tập trung vào 3 nhiệm
vụ: (i) hoạch định chính sách; (ii) ban hành các quy định và (iii) kiểm
tra giám sát chế tài vi phạm. Còn các quyết định cụ thể liên quan đến
đời sống kinh tế ở mỗi địa phương, nên để địa phương thực hiện.
- Việc phân cấp cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của nền hành
chính quốc gia, bảo đảm tính chất của một Nhà nước đơn nhất, nhưng
phải đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh,
năng lực cạnh tranh của các địa phương, các vùng kinh tế và các đô thị.
Xu hướng chung của thế giới là mở rộng quyền tự quản về ngân sách và
cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị.
- Việc phân cấp cần được thực hiện theo hướng việc gì cấp dưới,
địa phương làm tốt thì giao cho cấp đó thực hiện; cấp nào giải quyết sát
thực tế hơn, có điều kiện thực hiện và có hiệu quả hơn thì giao nhiệm
vụ, thẩm quyền cho cấp đó.

- Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm toàn bộ, có
thẩm quyền đầy đủ (tự quyết, tự quản đối với công việc được giao;
không trùng lắp giữa việc do Trung ương làm với việc của địa phương
làm và công việc giữa các cấp chính quyền trong phạm vi một địa
phương với nhau nhằm tránh sự đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo, lẫn
lộn, cản trở trong hoạt động).
Từ các nguyên tắc nêu trên, để nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý
nhà nước cần tiến hành nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các đạo luật liên
quan đến tổ chức bộ máy hành chính nhà nước như Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Ngân sách nhà nước v.v…
Cần xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương, trong đó bao gồm
sự đặc thù của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo như đã được xác
định tại Nghị quyết Đại hội Đảng X.
- Chuyển nền hành chính đang mang nặng mục tiêu quản lý, bao
cấp trách nhiệm dân sự của công dân sang nền hành chính mang tính
chất phục vụ. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không quản lý xã
hội theo phương thức bao cấp trách nhiệm dân sự của công dân hay nói
cách khác là hành chính hóa các quan hệ dân sự, mà Nhà nước cần nâng
418


cao vai trò trách nhiệm của công dân trong các quan hệ dân sự. Điển
hình là trong các loại thủ tục hành chính tư pháp của nước ta dường như
Nhà nước đã làm thay trách nhiệm của công dân trong các quan hệ dân
sự như: hoạt động công chứng, thi hành án dân số, hộ tịch v.v… Tư duy
bao cấp trách nhiệm của Nhà nước trong các quan hệ dân sự đang để
lại dấu ấn rất nặng nề trong hệ thống pháp luật có liên quan. Cách quản
lý này vừa không phù hợp với tính chất của nền kinh tế thị trường, vừa
làm cho bộ máy quản lý hành chính nhà nước ngày càng “phình to”
nhưng bất cập.

Xây dựng nền hành chính phục vụ dựa trên cơ sở hình thành các
tổ chức cung cấp dịch vụ công, các định chế yểm trợ. Hiện nay luật
pháp nước ta chưa chế định các định chế cung cấp dịch vụ công phi lợi
nhuận. Cần xác định rõ bản chất của định chế cung cấp dịch vụ công
phi lợi nhuận là các tổ chức cung cấp các dịch vụ công cho xã hội như:
y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, dịch vụ đô thị, hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ
thông tin; các tổ chức khuyến nông, khuyến ngư v.v… do các thành
phần kinh tế và Nhà nước đầu tư; không phân biệt ai là chủ sở hữu được
thành lập để phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng, mà
nhà đầu tư không thu lợi nhuận về cho mình (nhà đầu tư không thu lợi
nhuận không có nghĩa là tổ chức đó không hoạt động kinh doanh, mà
phải mang tính chất kinh doanh nhằm tích tụ vốn để không ngừng phát
triển). Để thực hiện vai trò này của Nhà nước cần sớm xây dựng một
đạo luật về các tổ chức dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật này,
thì vai trò quản lý nhà nước chính là giám sát sự hoạt động của các tổ
chức trên, chứ không phải làm thay các tổ chức này.
15. Lành mạnh hóa thị trường bất động sản
Việt Nam là một trong những nước có diện tích đất tính theo đầu
người thấp của thế giới (0,37 ha đất tự nhiên/người và 0,28 ha đất nông
nghiệp/người). Trong số hơn 33 triệu ha đất tự nhiên, thì có hơn 90%
đã đưa vào khai thác sử dụng, chỉ còn hơn 9% chưa khai thác. Diện tích
đất nông nghiệp chiếm 79,2% và đất phi nông nghiệp chiếm 11,2% diện
tích đất tự nhiên. Theo số liệu thống kê đến 31/12/2010 Nhà nước đã
giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng theo
Luật Đất đai là 24,996 triệu ha chiếm 75,53% diện tích đất tự nhiện.
419


Hiện nay, chưa có số liệu chính xác có bao nhiêu phần trăm trong tổng
số diện tích đất nêu trên có đủ điều kiện để tham gia vào thị trường

quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo quy định của Luật đất đai hiện hành
và trên thực tế giao dịch thì phần lớn các chủ thể có quyền sử dụng đất
được giao dịch trên thị trường quyền sử dụng đất dưới cách hình thức
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp v.v… nên có thể nói: thị trường
quyền sử dụng đất là thị trường có quy mô lớn nhất trong các loại thị
trường ở nước ta và có tác động mạnh nhất đối với đời sống kinh tế của
đất nước. Kể từ khi ban hành Luật Đất đai năm 1993 (thay thế Luật Đất
đai năm 1988) thừa nhận 5 quyền của người sử dụng đất (quyền chuyển
đổi; chuyển nhượng; cho thuê; thế chấp và thừa kế) thì quyền sử dụng
đất đã trở thành một loại “hàng hoá đặc biệt”, thực hiện việc mua - bán
trên thị trường với những điều kiện hạn chế của pháp luật, chịu sự kiểm
soát của Nhà nước (thông qua các quyết định thu hồi đất và giao đất).
Đến Luật Đất đai năm 2003 (hiện hành) thì quyền sử dụng đất trở thành
bất động sản chủ yếu tham gia thị trường bất động sản (trước đó vẫn là
bộ phận chủ yếu của thị trường bất động sản nhưng chưa chính thức).
Vấn đề này liên quan trực tiếp đến quan điểm của Đảng về đất đai trong
quá trình đổi mới, với sự thừa nhận thị trường bất động sản ở Việt Nam
(Văn kiện Đại hội IX của Đảng năm 2001).
Từ Đại hội IX của Đảng đến nay, nhiều lần TW yêu cầu phải lành
mạnh hoá và phát triển thị trường bất động sản, mà trong đó quyền sử
dụng đất là bộ phận chính yếu, nhưng có thể nói: trong những bất cập
về quản lý kinh tế của đất nước, thì sự bất cập trong quản lý thị trường
bất động sản là điển hình nhất. Nguyên nhân sâu xa của sự bất cập
trong quản lý thị trường bất động sản xuất phát từ sự thiếu minh bạch
và “không chính danh” trong các quy định liên quan đến quyền sở hữu
và quyến sử dụng đất. Cho đến nay, về mặt vĩ mô, Nhà nước chưa có
chính sách tài chính đồng bộ để điều tiết thị trường bất động sản. Chưa
sử dụng công cụ thuế và phí để điều tiết lợi nhuận siêu ngạch trong kinh
doanh bất động sản trong nhiều năm và chống đầu cơ đất. Các công
trình hạ tầng kỹ thuật xã hội Nhà nước đầu tư nhằm chỉnh trang và phát

triển đô thị, nâng giá trị sử dụng đất, tạo ra địa tô cấp sai rất lớn, nhưng
người hưởng lợi không chịu một nghĩa vụ tài chính nào. Khi tiến hành
quy hoạch thì nảy sinh vấn đề như sẽ có một số người hưởng lợi và sẽ
420


có một số người bị thiệt hại một cách vô lý. Một số người có nhà đang
ở trong hẻm được giải tỏa ra mặt tiền, khi đó giá đất và giá nhà tăng
vọt, trong khi một số người đang ở mặt tiền thì bị giải tỏa với giá đền
bù nhiều khi chưa bù đắp được giá cả theo hiện trạng. Đây là sự bất
công. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có chính sách thuế và phí để điều tiết
tình hình này. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta sử dụng chính sách
thuế và phí để giải quyết sự bất công đó. Hay như trong vấn đề chống
đầu cơ nền nhà, nhiều nước được quy định rất chặt chẽ và dùng chính
sách thuế để buộc nhà đầu tư phải đảm bảo cơ sở hạ tầng công cộng
được xây dựng hoàn thiện, trước khi bán nền cho người xây dựng nhà
ở và tăng thuế bất động sản để chống lại hiện tượng mua đất bỏ hoang
trong các khu đô thị, làm chậm tiến độ xây dựng theo quy hoạch. Để
phát triển thị trường bất động sản cần phải sửa đổi đồng bộ các đạo luật
có liên quan như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Xây dựng, Luật Kinh
doanh bất động sản và kể cả Luật về các tổ chức tín dụng. Tác động đến
thị trường bất động sản bao gồm hệ thống pháp luật liên quan đến đất
đai quy hoạch, xây dựng và pháp luật về tài chính, nên việc hoàn thiện
thị trường bất động sản không thể chỉ dựa vào những đạo luật riêng rẽ.
Hiện nay, đang tổng kết để sửa đổi Luật Đất đai là cần thiết và quan
trọng nhất, nhưng cần rà soát tất cả các pháp luật có liên quan, như đã
nêu trên để kiến nghị Quốc hội sửa đổi bổ sung một cách đồng bộ; đồng
thời nên chế định loại hình Quỹ đầu tư tín thác BĐS (REIT) thành một
định chế đầu tư giúp những nhà đầu tư bất động sản không chuyên có
thể tham gia vào định chế này.

Kết luận
Tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công tuy đang là vấn đề bức
xúc, nhưng nó không thể giải quyết riêng rẽ, mà phải được đặt vào một
hệ thống quan điểm đồng bộ nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, với ít nhất
7 nội dung như đã nêu trên. Gắn liền với đề án tái cơ cấu tổng thể nền
kinh tế cần phải làm rõ những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung hoàn
thiện các quy định của pháp luật hiện hành mang tính đồng bộ. Không
thể chống đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, nếu chúng ta vẫn duy trì cách
thiết lập và phân bố ngân sách nhà nước, cách phân cấp quản lý đầu tư
như hiện nay.
421


×