Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Lý luận của mác – enghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tác phẩm “tuyên ngôn đảng cộng sản” và ý nghĩa của nó trong xây dựng đội ngũ công nhân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.64 KB, 42 trang )

MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự lớn mạnh
của chủ nghĩa tư bản thì gia câp công nhân ngày một lớn mạnh và họn đã sớm
nhận thức được sự mệnh lịch sử của mình .Và lý luận vê giai cấp công nhân
được Mac-Ăngghen trình bày khá rõ trong tác phẩm Tuyên Ngôn của Đảng
Cộng Sản. Và lý luân về sứ mệnh lịch sử cuả giai cấp công nhân được rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt là những học giả về chủ nghĩa xã hội
khoa học . Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự
phát triển của nền kinh tế tri thức thì có những biến đổi của gia cao công nhân
, giai cấp công nhân không được biểu đơn thuần như ngày trước .
Đã có một bộ phận giai cấp công nhân đã có sở hữu trong các công ty
của tư bản dưới hình thức cổ phần .Vì vậy những nhà phi mac xit cho rằng
giai cấp công nhân ngày nay không còn đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử của mình
nữa .
Chính vì thế, bảo vệ và phát triển học thuyết về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết. Nghiên cứu tác
phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, trực tiếp là nghiên cứu lý luận của Mác –
Enghen về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sẽ
giúp chúng ta khẳng định lại một lần nữa giá trị của học thuyết Mác, đồng
thời là cơ sở để soi sáng lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam. Qua đó,
chúng ta sẽ có sự vận dụng sáng tạo và đúng đắn học thuyết Mác về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân vào xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân
Việt Nam nhàm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
nói chung và công nhân Việt Nam nói riêng.
Với lí do trên cùng với vốn kiến thức hạn hẹp về tác phẩm “Tuyên ngôn
Đảng cộng sản” cũng như học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
của Mác – Enghen, em xin chọn đề tài: “Lý luận của Mác – Enghen về sứ
1



mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản” và ý nghĩa của nó trong xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay.
Tiểu luận chắc chắn chưa được hoàn chỉnh nên em rất mong được sự
góp ý của thầy (cô). Em xin chân thành cảm ơn!
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ
1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận của Mác – Enghen trong tác phẩm “Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản” về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, về vai trò của Đảng cộng sản trong việc bảo đảm cho giai cấp
công nhân hoàn thành thắng lợi sự mệnh lịch sử của mình. Trên cơ sở đó, làm
rõ thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam cũng như sứ mệnh lịch sử của họ
trong giai đoạn hiện nay.Từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam nhằm thực hiện thành công sứ mệnh lịch
sử của họ hiện nay.
2. Nhiệm vụ
- Làm rõ lý luận của Mác – Enghen trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”
về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Làm rõ lý luận của Mác – Enghen về vai trò của Đảng cộng sản trong
việc bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của họ.
- Đề ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân Việt Nam nhằm thực hiện thành công sứ mệnh
lịch sử của họ trong giai đoạn hiện nay.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: một số phương pháp khác như phân tích, chứng
minh, đánh giá...

2



2. Phạm vi nghiên cứu
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học - Hội đồng Trung ương biên
soạn giáo trình các bộ môn lý luận Mác – Lênin.
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Giáo trình Tuyên ngôn Đảng Cộng của Đảng cộng sản. Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội, 1976.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X, số 20 NQ/TW, ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
- Một số tài liệu khác viết về “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” như: Tạp
chí cộng sản, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam…cùng các website của
các báo.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA MÁC – ENGHEN VỀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN
NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN”
1.1. Khái quát về tác giả và tác phẩm
1.1.1. Sơ lược tiểu sử của Mác và Enghen
1.1.1.1 C. Mác (1818 – 1883)
C.Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình
luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830), Mác vào học trường trung
học ở Tơriơ. Sức học của Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt Mác nổi bật ở những

lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán
học. Mùa thu 1835, Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu, tháng
mười 1835, Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau
theo lời khuyên của bố Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở
trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Mác bắt đầu
đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ
những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết
học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 Mác tập trung nghiên cứu
những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng 4 năm 1841, khi mới 23
tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau
giữa triết học tự nhiên của Đêmocrite, và triết học tự nhiên của Êpicure tại
trường Iêna. Tháng năm 1843, Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng
Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vônVestphalen.
Lần đầu tiên, Mác gặp Enghen vào cuối tháng 11 năm 1842, khi
Enghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische Zeitung
(Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Enghen đến thăm Mác ở Pa-ri. Hai
ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong
tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Chính phủ Pháp đã trục xuất Mác.Ngày
4


3 tháng 2 năm 1845, Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Enghen cũng đến
đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau.Sau khi cách mạng năm
1848 ở Pháp nổ ra, Chính phủ Bỉ trục xuất Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư
1848, Mác cùng với Enghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập
tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ
đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác.Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ
lưu lại ba tháng.Tháng Tám 1849, từ Pa-ri, Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối
đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba ở Luân Đôn.
1.1.1.2. P.Enghen (1820 – 1895)

P.Enghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
nước Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Enghen đã bộc lộ tính
cách độc lập.Năm 14 tuổi, Enghen học ở trường tại thành phố
Barmen.Enghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng mười 1834,
Enghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất
ở Phổ thời bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Enghen buộc phải rời
bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở
văn phòng của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học,
triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Enghen đến làm
việc tại văn phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839,
Enghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen. Tháng 9- 1841,
Enghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn
luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn
lui tới trường Đại học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia
hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa xuân 1842, Enghen bắt đầu cộng tác với tờ
Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm
1842, trên tờ báo Enghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của
Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm
1842, Enghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về
Barmen, một tháng sau, Enghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường
5


sang Anh, Enghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông
đã gặp Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh hai năm.Enghen tham
gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844).Tiếp đó năm
1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm Mác và
Enghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Tại Pháp, Enghen trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong
những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức (Tháng 3-1848) do Ban chấp hành

Trung ương Liên đoàn những người cộng sản lập ra. Tháng 3- 1848, cùng với
Mác, Enghen thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban chấp
hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản thông qua như là văn kiện
có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Từ tháng 4
năm 1948 đến tháng 1 năm 1949, Enghen tham gia tích cực các cuộc cách
mạng. Tháng 11/1849, Enghen đến Luân đôn và được bổ sung vào Ban chấp
hành Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà Mác đã cải tổ sau khi
đến đây. Enghen sống ở Luânđôn một năm, trong thời gian đó ông đã viết các
tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở
Đức. Tháng 11-1850, Enghen buộc phải chuyển dến Manchester và lại bắt đầu
làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Enghen có thể
giúp đỡ về vật chất cho Mác hoạt động cách mạng. Cùng với Mác, Enghen
tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9-1870, Enghen đến Luân Đôn
và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Enghen kiên trì đấu
tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Prudong,... Sau khi Mác
qua đời (1883), Enghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ
nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà Mác
chưa kịp hoàn thành. Enghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng: Chống Đuyrinh
(1818), Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích
Phoi-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự
nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).

6


1.1.2. Hoàn cảnh ra đời, nội dung và tư tưởng cơ bản của tác phẩm
1.1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Đầu năm 1848, văn kiện lịch sử chấn động thế giới ra đời.Đó là bản
“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”.
Những năm 30 của thế kỉ XIX, cách mạng công nghiệp hoàn thành ở

Anh và phát triển sang Pháp và một số nước Tây Âu khác. Lực lượng sản xuất
phát triển mạnh, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trỏ thành quan hệ sản xuất
thống trị ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Lúc này mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với lực lượng sản xuất phát triển gay
gắt và biểu hiện ra thành mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Trong lúc này giai cấp vô sản đã bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, trở thành
một lực lượng chính trị độc lập tiến hành các phong trào đấu tranh chống lại
giai cấp tư sản, tiêu biểu là phong trào Hiến chương ở Anh (1838 – 1848),
phong trào của công nhân Lion Pháp (1834),… Tuy nhiên, cuộc đấu tranh
chưa hình thành một khối thống nhất, chưa có sự lãnh đạo của một chính đảng
cách mạng, giai cấp vô sản chưa hiểu rõ lý thuyết khoa học về bản chất của
chủ nghĩa tư bản, về nguồn gốc bị bóc lột, về sứ mệnh lịch sử và con đường
tự giải phóng mình. Do đó, các cuộc đấu tranh của họ luôn bị thất bại.
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân, Mác và
Enghen đã tiến hành nghiên cứu lý luận khoa học và xây dựng mối liên hệ
rộng rãi với các đoàn thể công nhân các nước. Mác – Enghen đặc biệt chú
trọng đến một doàn thể cách mạng bí mật của những công nhân thủ công Đức
sống lưu vong ở Pari, có tên là “Đồng minh những người chính nghĩa”. Sau
khi Pari trở thành trung tâm, đoàn thể bí mật này mở rộng sang Luôn Đôn,
sau đó phát triển ở Thụy Sĩ, Đức và Pháp, bắt đầu trở thành một tổ chức công
nhân mang tính chất quốc tế.
Mùa xuân năm 1847, Mác – Enghen gia nhập “Đồng minh những
người cộng sản” và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau Đồng minh triệu
tập Đai hội đại biểu lần thứ nhất. Tại Đại hội này, căn cứ vào đề nghị của Mác
7


và Enghen, “Đồng minh những người chính nghĩa” đổi tên thành “Liên đoàn
những người cộng sản” và thông qua cương lĩnh mới với khẩu hiệu “Vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại” thay cho khẩu hiệu “Mọi người đều là anh em”.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Liên đoàn những người cộng
sản triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai.Các đại biều đều thấy cần phải có
một tuyên ngôn là cương lĩnh cho hoạt động của Liên đoàn. Mác và Enghen
đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn. Tháng 2/1848, Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản hoàn thành và được gửi sang Pháp xuất bản. Sự ra đời của “Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản đã gây chấn động toàn thế giới.Đây là tác phẩm kinh điển rất
quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.1.2.2. Nội dung của tác phẩm
Tuyên ngôn gồm lời mở đầu và 4 chương.
Lời mở đầu nêu lên mục đích, nguyện vọng của những người cộng sản:
“Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước
toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên
ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng
sản” (Trang 41 – Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật).
Bốn chương của Tuyên ngôn bao gồm:
Chương 1: Tư sản và vô sản. Chương này khái quát lại quy luật phát
triển của lịch sử xã hội loài người là đấu tranh giai cấp.Tuyên ngôn cũng luận
giải, làm rõ sự hình thành, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản cũng
như giai cấp tư sản và sự đối kháng giữa hai giai cấp này.
Chương 2: Những người vô sản và những người cộng sản. Mác Enghen nêu lên mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và Đảng cộng sản.Qua đó,
nêu lên mục đích, nhiệm vụ của Đảng cộng sản và những biện pháp để thực
hiện nhiệm vụ đó.Đồng thời chống lại sự vu khống của giai cấp tư sản đối với
Đảng cộng sản.

8


Chương 3: Văn hóa xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Mác –
Enghen đã phân biệt chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lưu tư tưởng xã hội
chủ nghĩa khác: chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội không tưởng...

Chương 4: Lập trường của những người cộng sản đối với các đảng dối
lập. Chương này trình bày, làm rõ tư tưởng cách mạng không ngừng, tinh thần
cách mạng triệt để về liên minh giai cấp, sự đoàn kết đấu tranh của những
người cộng sản đối với các đảng phái dân chủ trong cuộc đấu tranh chống thế
lực phản động đương thời như: chế độ quân chủ chuyên chế ở Đức,…
1.1.2.3. Tư tưởng cơ bản
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1884 đã nhấn mạnh
tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn gồm ba vấn đề chính sau: một là, chính sản
xuất kinh tế cùng với cơ sở xã hội tương ứng của nó là nền tảng cho toàn bộ
lịch sử chính trị gắn với lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại; hai là, lịch sử xã
hội từ khi có giai cấp là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
giai cấp bị trị với giai cấp thống trị; ba là, đấu tranh giai cấp đến giai đoạn tư
bản chủ nghĩa thì giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình bằng cách giải
phóng vĩnh viễn toàn xã hội.
1.2. Lý luận về giai cấp công nhân - Sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”
1.2.1. Giai cấp công nhân
1.2.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
“Tuyên ngôn Đảng cộng sản” nêu rõ: “giai cấp vô sản là giai cấp công
nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân nên phải bán
sức lao động của mình để sống” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản
Sự thật – Trang 42). Từ quan điểm trên ta có thể xét giai cấp công nhân trên
hai phương diện: một là, về phương thức lao động: họ là những người dùng
sức lao động của mình để trực tiếp hay gián tiếp sử dụng công cụ sản xuất của
chủ tư bản để tạo ra lợi nhuận cho nó; hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa: giai cấp công nhân là những người lao động mất tư liệu sản
9


xuất nên phải bán sức lao động cho nhà tư bản hay nói cách khác phải làm

thuê để kiếm sống.
Quan điểm này của Mác – Enghen tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã khái
quát được cơ bản vị trí của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
là: những người lao động làm thuê. Đây là kết quả của quá trình hoạt động
cách mạng và gắn bó lâu dài với phong trào công nhân quốc tế của Mác và
Enghen.
1.2.1.2. Sự ra đời và đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân
Cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp
tư sản đã ra đời và có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt Tuyên ngôn đã khẳng định rằng: “Giai cấp tư sản trong
quá trình thống trị của mình chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng
sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại” ( Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật - Trang 51).
Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hóa cao, xuất hiện mâu thuẫn về
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa,
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.Khi lực lượng sản xuất phát
triển nhưng quan hệ sản xuất vẫn như cũ thì đã xuất hiện giai cấp mới giải
phóng quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân. Chính sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của nền đại công nghiệp, của lực
lượng sản xuất đã đưa tới sự ra đời của giai cấp công nhân mà như Mác –
Enghen đã nói: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ
phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng
giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy – những công nhân hiện đại, những người vô
sản”.( Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật - Trang 54).
Như vậy, sự ra đời của giai cấp công nhân gắn liền với nền đại công
nghiệp và trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
tồn tại song song với giai cấp tư sản với tư cách là một mặt đối lập.
10



Từ sự phân tích quá trình hình thành của giai cấp vô sản, Mác –
Enghen đã khái quát được một số đặc điểm cơ bản của học trong xã hội tư
bản chủ nghĩa:
Trước hết, như Mác nói họ là sản phẩm của nền đại công nghiệp.Thành
phần của giai cấp công nhân rất da dạng, họ được “tuyển mộ trong tất cả các
giai cấp của dân cư”. Đó là “những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương nghiệp
và người thực lợi nhỏ, thợ thủ công và nông dân là những tầng lớp dưới của
tầng lớp trung đẳng xưa kia” ( Tuyên ngôn Đảng cộng sản - Nhà xuất bản Sự
thật – Trang 56). Những tầng lớp này do yếu về kinh tế nên bị tư bản cạnh
tranh, đánh bại và đẩy vào hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Như vậy, đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những
người sản xuất hàng hóa nhỏ, góp phần bổ sung lực lượng cho giai cấp công
nhân đồng thời thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành nghề khác nhau
như công nghiệp, thủ công nghiệp,…tạo nên lực lượng hùng mạnh cho giai
cấp công nhân.
Mác và Enghen cũng đã chỉ rõ: vì giai cấp công nhân là sản phẩm của
nền đại công nghiệp nên họ cũng là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến
nhất, hiện đại nhất. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng
của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại
diện. Khi chủ nghĩa tư bản được xác lập thì nó lại làm xuất hiện mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (đại diện là giai cấp tư
sản) với lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa cao ( đại diện là giai cấp
công nhân). Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản
xuất trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất “chế độ
tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được
tạo ra trong lòng nó nữa” ( Tuyên ngôn Đảng cộng sản - Nhà xuất bản Sự thật
– Trang 53). Do đó, nó sẽ phá vỡ qua hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để phát
triển. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
với giai cấp tư sản biểu hiện ra thành cuộc đấu tranh giai cấp.Như vậy, giai

11


cáp công nhân gắn liền với nền sản xuất vật chất, đi liền với sự phát triển của
nền công nghiệp ngày càng hiện đại.Vì là đại diện cho nền sản xuất tiên tiến
và là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nên giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất.
Mặt khác, về địa vị kinh tế - xã hội, do không có tư liệu sản xuất, giai
cấp công nhân phải bán sức lao động làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá
trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào nhà tư bản.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, công nhân bị xem như một hàng hóa
“phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường”. Không những phải bán sức lao động của mình, công nhân thậm chí
còn trở thành hàng hóa để trao đổi, mua bán và chịu sự chi phối của quy luật
canhj tranh, quy luật thị trường. Nền đại công nghiệp càng phát triển, lực
lượng sản xuất càng hiện đại, đặc biệt là sự phát triển máy móc và sự phân
công lao động nên công nhân càng bị bóc lột nặng nề, đời sống càng cực khổ.
Mác – Enghen miêu tả điều kiện làm việc của giai cấp công nhân trong nền
sẩn xuất tư bản chủ nghĩa “Những khối đông đảo công nhân, chen chúc nhau
trong công xưởng, được tổ chức theo lối quân sự. Là những người lính trơn
của công nghiệp, họ bị đặt dưới quyền giám sát của cả một hệ thống cấp bậc
sĩ quan và hạ sĩ quan. Họ không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của nhà
nước tư sản, mà hàng ngày, hàng giờ, còn là nô lệ của máy móc, của người
đốc công và trước hết là của chính nhà tư sản chủ công xưởng” (Tuyên ngôn
Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 55) Chính môi trường làm
việc như vậy cũng đã rèn luyện cho giai cấp công nhân tính tổ chức và kỷ luật
cao và tác phong công nghiệp.
Không những bị bóc lột ở điều kiện làm việc cực khổ mà giai cấp công
nhân còn bị bóc lột về giá lương. Giá của sự làm việc cực khổ, của sự bóc lột
nặng nề là “ chỉ còn là số tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống và nòi

giống” của họ mà thôi. Mặt khác, công nhân bị bóc lột nặng nề hơn khi máy
móc hiện đại được sử dụng ngày càng nhiều vào quá trình sản xuất. Lúc này,
12


lao động của công nhân hoàn toàn phụ thuộc vào máy móc, công việc hết sức
giản đơn, thụ động. Mác viết: “…lao động của người vô sản mất hết tính chất
độc lập, do đó họ mất hết hứng thú. Người công nhân trở thành một vật phụ
thuộc giản đơn của máy móc, người ta chỉ đòi hỏi người công nhân làm được
một công việc đơn giản nhất, đơn điệu nhất, dễ học nhất mà thôi” (Tuyên
ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 54). Khi máy móc được
sử dụng nhiều thì lao động của công nhân cũng tăng lên theo, do đó chủ tư
bản tìm mọi cách tăng giờ lao động của công nhân lên tức tăng lượng lao
động của công nhân lên nhằm thu được lợi nhuận nhiều hơn. Đây là hình thức
bóc lột hết sức tinh vi của giai cấp tư sản và công nhân ngày càng bị bóc lột
nặng nề hơn là vì lẽ đó.
Có thể khẳng định lại một lần nữa là giai cấp công nhân do không có tư
liệu sản xuất nên phải bán sức lao động của mình và trở thành công nhân làm
thuê, bị boc lột sức lao động. Họ trở thành hàng hóa đặc biệt bị nhà tư bản
bóc lột thậm tệ, tạo ra giá trị lớn cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt
giá trị thặng dư. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
hoàn toàn lệ thuộc vào quá trình phân phối sản phẩm lao động mà không có
bất cứ quyền gì. Họ không được làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều
này đã dẩy giai cấp công nhân đến con đường phải đứng lên đấu tranh bởi lợi
ích của họ đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản. Họ trở thành giai cấp có tinh
thần cách mạng triệt để.Đồng thời, tính cách mạng triệt để này còn xuất phát
từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại xã hội cũ, tầng lớp quý tộc.
Mác viết “Giai cấp tư sản sống trong một trạng thái chiến tranh không ngừng:
trước hết chống lại quý tộc; sau đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai
cấp tư sản mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối

cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư sản của tất cả các nước ngoài. Trong hết
thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi
giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do đó, lôi cuốn họ vào phong trào
chính trị.Thành thử giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản một
13


phần những tri thức chính trị và những tri thức phổ thông của bản thân nó,
nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản –
Nhà xuất bản Sự thật – Trang 59). Khi giai cấp vô sản bị lôi cuốn vào phong
trào đấu tranh của giai cấp tư sản, họ đã được tập dượt, rèn luyện trong đấu
tranh và qua đó được củng cố tri thức về mục tiêu cách mạng, về cách đánh,
cách phòng vệ… Chính ví thế giai cấp vô sản trưởng thành hơn và tinh thần
cách mạng càng mạnh mẽ hơn.
Giai cấp vô sản trong quá trình tiến hành cách mạng cũng thể hiện rõ
bản chất quốc tế của mình. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không
phải chỉ nhằm giải phóng mỗi bản thân họ, chỉ trong phạm vi quốc gia dân
tộc mình mà cao hơn đó là sự đoàn kết với các cuộc đấu tranh khác mà giai
cấp công nhân đang trong quá trình thực hiện, có sự liên kết giữa công nhân
nhiều ngành, nhiều địa phương trong các quốc gia dân tộc khác nữa. Chính
vì thế, Mác đã khẳng định: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân
tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là
trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản
nước mình đã”(Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang
62). Mác – Enghen yêu cầu cuộc đấu tranh của vô sản mỗi nước phải đoàn
kết với nhau để cùng đánh bại giai cấp tư sản và để thực hiện nhiệm vụ quốc
tế đó, việc quan trọng hàng đầu là giai cấp vô sản mỗi nước hoàn thành
nhiệm vụ của vô sản nước mình đã.
1.2.2. Sứ mênh lịch sử của giai cấp công nhân

Vai trò của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa thể hiện
rất rõ thông qua cuộc đấu tranh của họ chống lại giai cấp tư sản.Cuộc đấu
tranh này bắt đầu ngay từ khi họ mới ra đời.Thông qua cuộc đấu tranh này
cũng thể hiện được quá trình phát triển của giai cấp công nhân.
Trong “ Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Mác – Enghen phân chia rất rõ
các giai đoạn đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác viết: “Thoạt đầu, cuộc
14


đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ; kế đến, bởi những
công nhân cùng một công xưởng; và sau đó, bởi những công nhân cùng một
ngành công nghiệp, cùng một địa phương, chống lại người tư sản trực tiếp
bóc lột họ” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang
56).Đây là giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tuy
nhiên, đấu tranh của giai cấp công nhân chủ yếu diễn ra dưới các hình thức
như phá hàng hóa bên ngoài, đập phá máy móc, đốt phá công xưởng nhằm
giành lại địa vị trước đây của họ trong thời trung cổ.
Nhìn chung cuộc đấu tranh của công nhân giai đoạn này bước đầu đã
có sự đoàn kết song đó “vẫn còn là một khối quần chúng sống tản mạn trong
cả nước và bị cạnh tranh chia nhỏ. Nếu có lúc quần chúng công nhân tập hợp
nhau lại thì đó cũng chưa phải là kết quả của sự liên hợp của chính họ, mà là
kết quả của sự liên hợp của giai cấp tư sản” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản –
Nhà xuất bản Sự thật - Trang 56) nhằm thực hiện mục đích chính trị của
chúng là đánh đổ những tàn dư của chế độ phong kiến, đánh đổ bọn địa chủ,
…Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không những chưa đánh vào
giai cấp tư sản mà còn bị giai cấp tư sản lợi dụng thực hiện ý đồ trên, vì thế
thắng lợi của cuộc đấu tranh là thắng lợi của giai cấp tư sản. Như vậy, ở giai
đoạn đầu của cuộc cách mạng chống lại giai cấp tư sản, giai cấp công nhân
tuy đã biết đoàn kết và có đấu tranh dưới hình thức này hay hình thức khác
nhưng còn mang tích chất tự phát, hình thức đấu tranh giản đơn. Do chưa

nhận thức được kẻ thù của mình nên chưa có hình thức và biện pháp đấu tranh
phù hợp dẫn tới chưa giành được thắng lợi cho riêng mình.
Giai cấp công nhân ra đời cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp, khi đại công nghiệp càng phát triển thì giai cấp công nhân càng phát
triển về số lượng cũng như chất lượng. Mác đã viết: “sự phát triển của công
nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại
thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản
tăng thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn” ( Tuyên ngôn Đảng cộng
15


sản – Nhà xuất bản Sự thật - Trang 57). Mặt khác, đại công nghiệp phát triển,
máy móc ngày càng được cải tiến hiện đại hơn thì đời sống công nhân ngày
càng cực khổ hơn.Tư bản ngày càng cạnh tranh với nhau trên cơ sở cải tiến
máy móc bằng cách hạ tiền công của công nhân xuống tiến tới mọi công nhân
đều ngang bằng nhau về lợi ích và đời sống công nhân ngày càng bấp bênh.
Tất cả đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày
càng phát triển gay gắt như Mác nói: “những cuộc xung đột cá nhân giữa
công nhân và tư sản ngày càng có tính chất những cuộc xung đột giữa hai giai
cấp” ( Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 57). Như
vậy, sự phát triển của nền đại công nghiệp không chỉ làm tăng số lượng công
nhân tập hợp thành những khối quần chúng trong cuộc đấu tranh chống lại
giai cấp tư sản mà còn đẩy mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư
sản ngày càng phát triển, nhận thức của công nhân về kẻ thù của mình càng rõ
rệt hơn. Từ đây, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân có bước phát triển
mới.Công nhân bắt đầu lập những hội đồng minh với mục đích bảo vệ lợi ích
của mình, cao hơn nữa là tổ chức thành những đoàn thể thường trực để tiến
hành đấu tranh cách mạng.
Như vậy, giai đoạn này, phong trào đấu tranh của công nhân đã có bước
chuyển biến rõ rệt: công nhân bước đầu nhận thức được nguồn gốc của nỗi

khổ của giai cấp mình nên đã có ý thức tự giác đấu tranh, đã biết thành lập tổ
chức để đoàn kết nhau đấu tranh chống lại kẻ thù.
Chính sự phát triển của giai cấp công nhân trong nhận thức cũng như
hành động đã đưa tới cho giai cấp công nhân một số thắng lợi nhất định. Thứ
nhất như Mác nói đó là “Kết quả thật sự của những cuộc đấu tranh của họ là
sự đoàn kết ngày càng rộng của những người lao động, hơn là sự thành công
tức thời”( Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 58).
Chính trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, giai cấp vô sản trong xã
hội tư bản chủ nghĩa ngay từ giai đoạn đầu đã đoàn kết lại với nhau và đại
công nghiệp phát triển, đặc biệt là sự phát triển của phương tiện giao thông
16


làm cho sự đoàn kết đó càng chặt chẽ hơn và rộng lớn hơn. Thắng lợi thứ hai
đó chính là thắng lợi trong đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế “Nó lợi dụng
những bất hòa trong nội bộ giai cấp tư sản để buộc giai cấp tư sản phải thừa
nhận, bằng luật pháp, một số quyền lợi của giai cấp công nhân.Chẳng hạn như
đạo luật ngày lao động 10 giờ ở Anh” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất
bản Sự thật – Trang 58).
Tóm lại, trải qua quá trình đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, giai cấp
công nhân đã phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng. Cùng với sự tăng lên
của đông đảo công nhân là sự trưởng thành về ý thức giác ngộ về chính trị. Ý
thức giai cấp thông qua quá trình đấu tranh chống giai cấp tư sản: ban đầu là
đấu tranh về kinh tế trước mắt, đã từng bước chuyển sang hoạt động chính trị,
đấu tranh từ tự phát với quy mô nhỏ sang đấu tranh thông tự giác thông qua tổ
chức, nghiệp đoàn, công đoàn và có sự đoàn kết trên phạm vi toàn quốc và
mặc dù “sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó
thành chính đảng, luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ.
Nhưng nó luôn luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn,
hùng mạnh hơn” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang

58).Qua đấu tranh, họ gắn bó hơn, trưởng thành hơn. Qua sự phân tích trên
chúng ta thấy rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản được bắt đầu ngay từ
khi họ mới ra đời và trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau nhưng cuối
cùng nó kết thúc bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp vô sản
phải lãnh đạo những người lao động bị áp bức dùng bạo lực để lật đổ quyền
thống trị của giai cấp giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền.
Trải qua cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản, bản chất và vai trò cách mạng của giai cấp vô sản càng được khẳng định.
Thông qua phân tích thái độ cách mạng của các giai cấp trong xã hội, ông
nhận thấy rằng: các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu
thương, thợ thủ công, nông dân là không cách mạng, nếu có chỉ bởi họ chỉ
nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của mình, thậm chí họ còn “phản động” tìm cách
17


quay ngược bánh xe lịch sử. Hay như tầng lớp vô sản lưu manh mà Mác goi
là “ sản phẩm tiêu cực của sự thối nát của những tầng lớp thấp trong xã hội
cũ” có tinh thần cách mạng nhưng giả vờ, cải lương vì lợi ích kinh tế. Từ đó,
Mác khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư
sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng” (Tuyên ngôn
Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 60). Mác đã thấy được vai trò
to lớn, bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Xuất phát từ quy luật tất yếu trong mọi xã hội có giai cấp là giai cấp
nào giành được chính quyền đều tìm mọi cách củng cố và đảm bảo cho sự tồn
tại của địa vị của họ, trực tiếp ở đây là đảm bảo cho sự tồn tại phương thức
chiếm hữu của giai cấp đó. Vì thế, Mác viết: “Những người vô sản chỉ có thể
giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xóa bỏ phương thức
chiếm hữu hiện nay của chính mình, và do đấy, xóa bỏ toàn bộ phương thức
chiếm hữu nói chung đã tồn tại từ trước đến nay. Những người vô sản chẳng
có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì, từ

trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu” ( Tuyên ngôn Đảng
cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 61). Ở đây Mác đã thấy được sứ
mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu cùng toàn
bộ những thế chế chính trị để áp bức, bóc lột con người. Hay nói cách khác,
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng sản văn minh. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo. Cuộc cách mạng
này như Tuyên ngôn đã nêu rõ phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất
giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, sau đó dùng sự thống trị
của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản và tạp
trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước; giai đoạn thứ hai

18


là xây dựng và củng cố chính quyền mới của giai cấp vô sản bằng những biện
pháp về kinh tế, chính trị…
Như vậy, có thế nói thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ở đây chính là:
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư
hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất. Nội
dung này được Mác – Enghen cụ thể hóa ở 10 biện pháp sau: “Tước đoạt sở
hữu ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước; 2. Đánh thuế cao
theo mức luỹ tiến thật cao; 3.Xoá bỏ quyền thừa kế; 4. Tịch thu tài sản của tất
cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn; 5. Tập trung tín dụng
vào tay nhà nước bằng một ngân hàng quốc gia mà vốn liếng sẽ thuộc về Nhà
nước và Ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn; 6. Tập trung tất cả các
phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước; 7. Tăng thêm số công xưởng

quốc doanh và công cụ sản xuất; vỡ đất hoang và cải tạo đất trồng trọt trong
một kế hoạch chung; 8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi
người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp; 9. Kết hợp
lao động nông nghiệp với lao động công nghiệp, thi hành những biện pháp
nhằm làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn; 10. Giáo dục công
cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em.Xoá bỏ việc sử dụng trẻ em làm
trong các khu công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật
chất,...” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – nhà xuất bản Sự thật – Trang 79,80).
Nhìn chung, các biện pháp này đã tập trung sản xuất vào nhà nước và cùng
với phát triển kinh tế đã chú trọng đến giáo dục góp phần xây dựng xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của
chế độ người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân
tư liệu sản xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ tư hữu;
sau khi xoá bỏ chế độ tư hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản
xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với yêu
19


cầu sản xuất. Chính Mác – Enghen đã viết: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà
lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có
thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu
lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo” (Tuyên ngôn
Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật - Trang 54). Chính lao động làm thuê,
lao động của người vô sản đã tạo ra tư bản, tạo ra chế độ sở hữu bóc lột lao
động làm thuê, “cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất
mãi mãi ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó” (Tuyên
ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 68).
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội: giai cấp công nhân phải trở thành giai
cấp thống trị trong xã hội. Khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp công nhân

thông qua bạo lực cách mạng tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, tức là tiêu diệt sự
tồn tại của chế độ chiếm hữu tư sản đồng thới với việc tiêu diệt luôn cả những
điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Như vậy, giai cấp nói chung đã bị xóa bỏ
và không còn sự bóc lột giai cấp.
Như vậy, từ sự phân tích về địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã
hội chính trị của giai cấp công nhân như trên cùng quá trình đấu tranh chống
lại giai cấp tư sản, chính là những cơ sở khách quan để Mác – Enghen khẳng
định giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ tư
bản chủ nghĩa và từng bước xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
1.2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân
Ngoài việc bản thân giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh cả về
số lượng lẫn chất lượng thì việc thành lập ra chính đảng của giai cấp: Đảng
Cộng s ản, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quyết định,
đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình.

20


Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, trải qua
nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác.Yếu tố có ý nghĩa
quyết định sự chuyển biến về chất là sự phát triển về mặt lý luận nhận thức
trong giai cấp công nhân mà như phần trên đã nói là sự trang bị về tri thức
cách mạng thông qua đấu tranh chính trị của công nhân.Sự kết hợp giữa lý
luận cách mạng cùng với bản thân giai cấp công nhân đã đưa đến sự hình
thành chính Đảng của giai cấp công nhân.Sau khi ra đời, Đảng cộng sản đóng
vai trò hết sức to lớn trong việc đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.Đồng thời, trong cuộc đấu tranh chống

giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của
mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có thể đảm bảo giành được thắng lợi
trọn vẹn.
Trong “ Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Mác – Enghen đã nêu rõ mối
liên hệ mật thiết giữa giai cấp vô sản với Đảng cộng sản. Đảng cộng sản sinh
ra từ phong trào công nhân nên mang bản chất của giai cấp công nhân. Mác –
Enghen viết: “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối
lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào
tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Họ không đặt ra những nguyên
tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy”
(Tuyên ngôn Đảng cộng sản –Nhà xuất bản Sự thật – Trang 66). Như vậy,
Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân.Mục đích
và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống nhất. Mặt khác, Đảng
cộng sản luôn luôn là đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân
và lợi ích dân tộc trong phạm vi một nước, đồng thời cũng vì lợi ích chung
của phong trào cộng sản và quốc tế, không phân biệt ngành nghề, địa phương,
dân tộc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản không những mang tính chất của giai
cấp vô sản mà còn mang tính chất quốc tế.
Sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản và mọi kẻ thù khác, không phải
chỉ là ở số lượng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu là
21


ở trình độ tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Tuyên ngôn có viết: “Vậy là về
mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên;
về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” (Tuyên
ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất bản Sự thật – Trang 67). Có thể khẳng định
rằng Đảng Cộng sản có hai đặc điểm cơ bản sau: thứ nhất, về thực tiễn: Đảng

cộng sản là bộ phận có tinh thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, là bộ phận lôi kéo, cổ vũ các bộ phận khác cùng
đấu tranh chống giai cấp tư sản, hay nói cách khác đây là tổ chức tiên phong
lãnh đạo cuộc đấu tranh của vô sản; thứ hai, về thực tiễn: đây là bộ phận giác
ngộ nhất của giai cấp vô sản một tổ chức bao gồm những người hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình, kết quả chung của phong trào vô sản. Vì vậy Đảng cộng
sản luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và của toàn xã hội
có nhiệm vụ phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn
cách mạng, đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối, chính sách đúng, phù
hợp với yêu phát triển khách quan của đất nước. Từ đó khẳng định sự thống
nhất về mục đích và lợi ích giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân song
không được đồng nhất Đảng cộng sản với giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản với tư cách là đội tiên phong chính trị phải lãnh đạo giai
cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, cụ thể là là
hoàn thành mục tiêu trước mắt “ Mục đích trước mắt của những người cộng
sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai
cấp vô sản giành lấy chính quyền” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản – Nhà xuất
bản Sự thật – Trang 67), tiến tới hoàn thành mục tiêu cuối cùng là “xóa bỏ chế
độ tư hữu”. Như vậy, mục tiêu của Đảng cộng sản cũng chính là mục tiêu của
giai cấp vô sản, thực hiện được mục tiêu đó chính là giai cấp vô sản đã hoàn
thành được sư mệnh lịch sử của mình.
22


CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN CỦA MÁC – ENGHEN VỀ SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG VIỆC XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Giai cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam

2.1.1. Giai cấp công nhân Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam
Nghị quyết Trung ương sáu khóa X của Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã xác định: “giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to
lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” (Nghị
quyết số 20 – NQ/TW, ngày28/1/2008).
2.1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp vào đầu thế kỷ XX. Tầng lớp công nhân đầu
tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thác thuộc địa lần thứ nhất vào năm
1897 và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp (1924-1929). Trước chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân nước ta mới chỉ có 10 vạn người,
trình độ thấp kém.Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ 2 (1924-1929), số
công nhân đã tăng lên 22 vạn.Và hiện nay, số lượng công nhân nước ta là
khoảng 10 triệu người.
Vừa mới ra đời và cùng với quá trình phát triển của đất nước, giai cấp
công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế hiện đại
nên cũng mang những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế:
Một là giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của nền sản
xuất ngày càng hiện đại và quốc tế hóa cao.Mỗi bước tiến của quá trình hiện
23


đại hóa và quốc tế hóa nền sản xuất công nghiệp cũng là mỗi bước trưởng
thành của giai cấp công nhân về cả số lượng và chất lượng.Vì thế, giai cấp
công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, giữ vai trò quyết định nhất đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội.

Hai là trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản
xuất đại công nghiệp, bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích đối lập trực
tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản vì thế họ có tinh thần cách mạng triệt để
nhất chống lại giai cấp bóc lột.
Ba là giai cấp công nhân có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác Lênin phản
ánh cuộc đấu tranh của mình nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới:
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Giai cấp công nhân có đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản,
Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân, của dân tộc và của loài người
tiến bộ. Nhờ đó, giai cấp công nhân mang trong mình những phẩm chất cần
thiết của một giai cấp cách mạng: tính tổ chức, kỉ luật, tính tiên phong và tính
triệt để cách mạng….
Bốn là giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.Bản chất quốc tế của
công nhân xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc mà phát
triển lên. Giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với dân tộc và phát huy bản sắc
dân tộc mỗi nước nhằm thực hiện lý tưởng, mục tiêu của giai cấp công nhân
là tiến tới chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa, thực hiện độc lập dân tộc
với đoàn kết quốc tế trên lập trường của giai cấp công nhân.
Bên cạnh những đặc điểm chung trên, do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã
hội, văn hóa…đặc thù của Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam còn mang
những đặc điểm riêng sau:
Một là: sinh trưởng trong một dân tộc vốn là thuộc địa nửa phong kiến,
có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm nên giai cấp công nhân
Việt Nam đã thể hiện rõ tinh thần cách mạng triệt để quyết tâm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp.
24


Hai là: giai cấp công nhân việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân lao
động, lại thường xuyên có mối liên hệ với nông dân, tầng lớp trí thức vì vậy

tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng khối liên minh công nông vững chắc và
khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, bảo đảm cho sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong suốt quá trình cách mạng nước ta.
Ba là: ra đời và trưởng thành trước giai cấp tư sản dân tộc, sớm tiếp thu
chủ nghĩa Mác-Lênin, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và
thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục đã sớm giác ngộ mục tiêu lý
tưởng chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Bốn là: giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau cách mạng tháng Mười
Nga năm 1917, khi chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II bị phá sản, phong trào
cách mạng thế giới phát triển mạnh. Vì vậy giai cấp công nhân Việt Nam
không bị ảnh hưởng của các trào lưu cơ hội xét lại. Phong trào công nhân Việt
Nam luôn gắn bó chặt chẽ với phong trào công nhân thế giới và được sự ủng
hộ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới.
Năm là: ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu và
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa, xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức
hiện đại.
Giữ vững lòng trung thành với học thuyết Mác, giai cấp công nhân
Việt Nam luôn luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống chế độ
áp bức, bóc lột và các thế lực phản động trong cách mạng dân tộc, dân chủ
và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất,
cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dân.
Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản
quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng và tin
cậy nhất của nhân dân”.

25



×