Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh ninh bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.42 KB, 131 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................4
Chương

1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
VÀ NĂNG LỰC THAM MƯU CỦA CÁN BỘ TUYÊN GIÁO.........10
1.1. Cán bộ tuyên giáo, các lĩnh vực hoạt động và nhiệm vụ của cán bộ
tuyên giáo..................................................................................................10
1.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ tuyên giáo................................10
1.1.2. Các lĩnh vực hoạt động và nhiệm vụ của cán bộ tuyên giáo.14
1.2.1. Năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo: khái niệm và các
đặc trưng....................................................................................24
1.2.2. Những yếu tố cấu thành năng lực tham mưu của cán bộ tuyên
giáo hiện nay .............................................................................34
1.3.1. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và sự đòi hỏi phải
nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo.................49
1.3.2. Yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác
tuyên giáo trong thời kỳ mới đòi hỏi phải nâng cao năng lực
tham mưu cho cán bộ tuyên giáo...............................................51
1.3.3. Chức năng, nhiệm vụ tham mưu của cán bộ tuyên giáo đối
với cấp uỷ ngày càng tăng lên...................................................54
Chương 2...............................................................................................57
NĂNG LỰC THAM MƯU CỦA CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
TỈNH NINH BÌNH - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
...............................................................................................................57


2


2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội ảnh; cán bộ tuyên giáo ảnh hưởng đến năng
lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay.................57
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ảnh
hưởng đến năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh
Bình hiện nay.............................................................................57
2.1.2. Một số đặc điểm của cán bộ tuyên giáo ở tỉnh Ninh Bình....60
2.2. Thực trạng năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình
hiện nay.....................................................................................................63
2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân......................................................63
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân.......................................................72
2.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng năng lực tham mưu của cán bộ
tuyên giáo tỉnh Ninh Bình.........................................................................80
Chương

3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THAM
MƯU CỦA CÁN BỘ TUYÊN GIÁO TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY.
...............................................................................................................89
3.1. Phương hướng nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo
tỉnh Ninh Bình hiện nay............................................................................89
3.1.1. Nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo phải chú
ý đến tính đồng bộ, toàn diện, đồng thời phải có trọng tâm,
trọng điểm..................................................................................89
3.1.2. Nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo trong
thời kỳ mới phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, gắn với nhiệm
vụ chính trị của đất nước, của địa phương và thông qua phong
trào cách mạng của quần chúng.................................................90



3

3.1.3. Nâng cao năng lực tham mưu gắn liền với việc trau dồi phẩm
chất đạo đức cách mạng cho cán bộ tuyên giáo của tỉnh Ninh
Bình...........................................................................................91
3.1.4. Cơ chế, chính sách đối với cán bộ tuyên giáo là nhân tố có ý
nghĩa quan trọng tác động trực tiếp đến năng lực tham mưu của
cán bộ tuyên giáo.......................................................................93
3.1.5. Nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo phải do
chính bản thân từng cán bộ tuyên giáo quyết định....................95
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ
tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay...........................................................95
3.2.2. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về năng lực làm căn cứ cho
việc tuyển chọn, rèn luyện, sử dụng cán bộ tuyên giáo của tỉnh
Ninh Bình..................................................................................97
3.2.3. Tích cực, chủ động tạo nguồn cán bộ tuyên giáo...............100
3.2.4. Nâng cao chất lượng công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo
tỉnh Ninh Bình.........................................................................101
3.2.5. Tạo cơ chế, chính sách phù hợp cho cán bộ tuyên giáo nâng
cao năng lực tham mưu, nắm bắt nguồn thông tin thường xuyên,
liên tục.....................................................................................106
3.2.6. Kết hợp chặt chẽ sự giáo dục của tổ chức với ý thức tự giáo
dục nâng cao năng lực tham mưu của bản thân mỗi cán bộ tuyên
giáo..........................................................................................109
KẾT LUẬN.................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................107
PHỤ LỤC...................................................................................111



4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác
định công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ
hoạt động của Đảng. Bởi công tác tư tưởng là hoạt động có định hướng nhằm
xác lập, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
xây dựng và định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan
khoa học, tư tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống, tri thức, đảm bảo cho nhân
dân ta có hành động tích cực, chủ động, sáng tạo thực hiện thắng lợi lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình mới, Đảng ta chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ công tác
tư tưởng, lý luận là: kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo
và các nguyên tắc hoạt động của Đảng, quán triệt đường lối đổi mới, phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, từ Trung ương đến cơ sở. Đổi
mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; đồng thời triển khai liên tục và sâu rộng công tác tuyên truyền giáo
dục nhằm phát huy chủ nghĩa yêu nước, phẩm chất đạo đức cách mạng, năng
lực sáng tạo, ý chí tự lực tự cường đi đôi với tinh thần quốc tế chân chính;
khơi dậy và nâng cao ý chí cách mạng tiến công, tinh thần đại đoàn kết toàn
dân tộc, quyết tâm nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, cổ vũ phong trào thi
đua yêu nước, động viên khí thế và tinh thần chủ động, sáng tạo trong lao
động, học tập và công tác, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh.



5

Để hoàn thành sứ mệnh cao cả đó cần phải huy động mọi nguồn lực,
mọi lực lượng, mọi phương tiện, nhưng nguồn lực quan trọng nhất, quyết định
nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng của Đảng. Sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có hai mặt: vật chất
và tư tưởng. Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có người, mà trong số người
muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và cốt cán” [22-6], “cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính
sách cho đúng”. “Cán bộ quyết định mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng” [22-7].
Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương
3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới, Tỉnh uỷ Ninh Bình đã
chỉ đạo củng cố, kiện toàn bộ máy Ban Tuyên giáo, tích cực đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ tuyên giáo. Đội ngũ cán bộ
tuyên giáo đa số được đào tạo bài bản, phần lớn có trình độ đại học, lý luận
chính trị cao cấp, có nhiều năm công tác, có kinh nghiệm và có vốn hiểu biết
thực tiễn khá sâu sắc. Song đội ngũ này vẫn bộc lộ một số hạn chế như: khả
năng tham mưu thiếu nhạy bén, khả năng phát hiện, đề xuất giải pháp xử lý
các vấn đề liên quan đến tình hình chưa thường xuyên, việc xây dựng chương
trình công tác có lúc bị động…Nhiệm vụ đặt ra cho cán bộ tuyên giáo là phải:
“đi đầu, đi trước một bước, tập trung toàn bộ lực lượng, trí tuệ và kinh
nghiệm”, đổi mới cách thức làm việc, có khả năng tư duy sáng tạo và năng
lực tham mưu nhạy bén…
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Năng lực tham mưu của
cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình. Đề tài không chỉ là đòi hỏi khách quan trước sự nghiệp công



6

nghiệp hoá - hiện đại hoá của cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng
mà còn là đòi hỏi khách quan của việc nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng
trong thời kỳ mới.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cấp bách,
khách quan mà Đảng ta luôn coi trọng. Điều đó được thể hiện qua các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng như:
- Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII, Nghị quyết Trung
ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ.
Trong đó chỉ ra trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc phấn đấu tự tu
dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, nhất là về tư tưởng chính trị, phẩm chất lối
sống, năng lực công tác; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư
tưởng chính trị và đạo đức, lối sống…
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX (18/3/2002) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới. Trong đó xác định một trong số những giải pháp lớn đối với công
tác tư tưởng là: tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận.
Giải pháp này tiếp tục được khẳng định trong Kết luận Hội nghị Trung ương
lần thứ 12 khoá IX về tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay.
- Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, báo chí trước
thời kỳ mới…
Bên cạnh đó, trên các sách và tạp chí có một số công trình nghiên cứu
của các tác giả liên quan đến vấn đề năng lực của đội ngũ cán bộ như:
- “Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và văn hoá ” của GS.
Nguyễn Đức Bình (NXb, CTQG, Hà Nội, 2001); “Đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng” của PGS. Hà Ngọc Hợi (chủ biên) (NXb,



7

CTQG, Hà Nội, 2002);“Một số vấn đề về công tác tư tưởng” của TS. Đào Duy
Tùng; cuốn Nguyên lý Công tác tư tưởng tư tưởng tập II do TS. Đào Duy Quát
và TS. Lương Khắc Hiếu đồng chủ biên (NXb, CTQG, Hà Nội, 2002), trong
bài Xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng có phân tích các mục tiêu và giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo hiện nay; “Về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam” của TS. Đào Duy Quát (NXb, CTQG, Hà Nội, 2004).
- “Về công tác tư tưởn,g lý luận trong giai đoạn hiện nay” của GS.TS
Nguyễn Ngọc Long , Tạp chí Cộng sản, số 10/1987; “Đổi mới tư duy về công
tác cán bộ tuyên giáo” của TS. Lương Khắc Hiếu và TS. Nguyễn Viết Thông,
đăng trên Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá số 02/2002; “Đổi mới công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động báo cáo viên trong tình hình mới” của TS. Ngô Văn
Thạo đăng trên Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá số 07/2002; “Nâng cao năng lực
hoạt động thực tiễn của đội ngũ báo cáo viên ở Hà Nội hiện nay” do TS. Lương
Khắc Hiếu (Chủ nhiệm đề tài - Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Phân viện, 2003).
Một số luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ cũng đã nghiên cứu vấn đề
năng lực cán bộ như: “Nâng cao năng lực của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã vùng Đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay” của Mai Đức Ngọc năm 2002;
“Nâng cao năng lực của đội ngũ báo cáo viên tỉnh Tiền Giang hiện nay” của
Phan Thanh Dũng năm 2005…
Các công trình trên cho thấy, hầu hết các tác giả đi sâu phân tích về năng
lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; một số
công trình có đề cập đến năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ tuyên giáo
nhưng đó mới chỉ là những định hướng bước đầu cho việc nghiên cứu. Đề tài “
Năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay” mà học
viên thực hiện là sự nghiên cứu tổng hợp những vấn đề đã được đề cập và
những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đội ngũ cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình,

trong đó có tham khảo, kế thừa ít nhiều kết quả nghiên cứu của các công trình


8

nói trên nhằm nâng cao năng lực tham mưu của đội ngũ này, qua đó đáp ứng
những đòi hỏi từ việc nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong tình hình mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực
tham mưu, đặc trưng hoạt động tham mưu và các yếu tố cấu thành năng lực
tham mưu của cán bộ tuyên giáo, đề tài đề xuất phương hướng và giải pháp
nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích khái niệm năng lực, năng lực tham mưu, đặc trưng hoạt
động tham mưu của cán bộ tuyên giáo.
- Phân tích những yếu tố cấu thành năng lực tham mưu của cán bộ
tuyên giáo.
- Khảo sát thực trạng năng lực tham mưu trong hoạt động của cán bộ
tuyên giáo tỉnh Ninh Bình, chỉ rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực
tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh Ninh Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo
cấp tỉnh, cấp huyện (thành phố), cấp xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Ninh Bình.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo. Đồng thời trong quá trình nghiên

cứu tác giả còn sử dụng các tài liệu của các cấp uỷ Đảng và chính quyền tỉnh
Ninh Bình có liên quan đến đề tài.


9

Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp logic, lịch sử,
phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, phương pháp quan sát, so sánh,
nghiên cứu tài liệu.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học
Về mặt khoa học đề tài đã có những đóng góp, phát hiện mới trong việc
làm rõ những yếu tố cấu thành năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo
đồng thời phân tích cụ thể thực trạng năng lực tham mưu của cán bộ tuyên
giáo tỉnh Ninh Bình và những vấn đề đặt ra trong năng lực này. Đề tài dành
sự quan tâm đặc biệt cho việc phân tích, lý giải tính khoa học, tính mới mẻ
trong các giải pháp nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo tỉnh
Ninh Bình, đó là các giải pháp có đặc điểm riêng phù hợp với đặc trưng riêng
của cán bộ tuyên giáo và điều kiện đặc thù ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên chính trị học chuyên ngành công tác tư tưởng. Mặt khác, đề tài là cơ sở
để các cấp lãnh đạo, quản lý tỉnh Ninh Bình có điều kiện nắm bắt về số lượng,
chất lượng, năng lực của cán bộ tuyên giáo trong tỉnh qua đó kịp thời hoàn
thiện, điều chỉnh, bổ sung nhân tố mới nhằm hoàn thiện và nâng cao năng lực
của đội ngũ này để họ có thể đáp ứng những đòi hỏi từ thực tiễn công tác
tuyên giáo của tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
VÀ NĂNG LỰC THAM MƯU CỦA CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
1.1. Cán bộ tuyên giáo, các lĩnh vực hoạt động và nhiệm vụ của cán
bộ tuyên giáo
1.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ tuyên giáo
* Cán bộ:
Ngay từ năm 1844, khi bắt đầu nghiên cứu triết học, C. Mác đã khẳng
định một tư tưởng lớn: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” [26- 181]. Con người sử dụng lực lượng thực
tiễn với tư cách là con người hoạt động là gạch nối tất yếu giữa tư tưởng và
hiện thực, là nhân tố quyết định hiện thực hoá mọi tư duy. “Những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” ở đây, theo nghĩa rộng nhất, cần được hiểu là
con người - hành động tham gia vào các quá trình hoạt động vật chất hiện
thực xã hội. Với nghĩa đó “những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”
không chỉ là cán bộ, mà còn bao hàm đội ngũ “cán bộ”. Thậm chí cán bộ còn
được coi là lực lượng chủ chốt, bởi cán bộ là “cái khung, sườn” - “bộ phận
nòng cốt” trong các quá trình hoạt động của xã hội.
Trong Từ điển tiếng Việt, từ cán bộ được định nghĩa là:
“ Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đoàn thể.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ” [47-128].
Trong quan niệm của người Việt Nam, danh xưng “cán bộ” càng có ý
nghĩa cao đẹp. Đó là một lớp người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng mọi gian
khổ, hy sinh cho cách mạng, phấn đấu vì lợi ích cho nhân dân và dân tộc; là



11

những người lãnh đạo và tổ chức các phong trào cách mạng đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng đất nước. Như vậy, có thể nói trong mọi trường hợp,
“cán bộ” chính là lực lượng chủ chốt trong đội ngũ những người “sử dụng
lực lượng thực tiễn” để hiện thực hoá các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng
trong cuộc sống. Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, “cán bộ” là những người
“đứng mũi chịu sào” trong việc hoạch định, thực thi các chính sách, quyết
định không chỉ của riêng lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, mà hơn thế nữa,
họ là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về sự phát triển của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam cũng
nhiều lần khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [8-269, 273].
Luận điểm này được nhắc đến nhiều lần và được thể hiện bằng những hình
ảnh khác nhau. Người coi cán bộ là tiền vốn của Đảng: “có vốn mới làm ra
lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có
lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [6-46]…. Coi cán bộ là
“gốc” là “vốn”, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh, cán bộ không chỉ là
một lực lượng chủ đạo, chủ công, tiên phong của cách mạng, mà hơn thế, họ
chính là những người “làm ra” và nuôi dưỡng cách mạng, tổ chức thực hiện
các phong trào cách mạng và chịu trách nhiệm về sự thành bại của cách mạng.
“Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo”, cũng như “sông phải có nguồn,
không có nguồn thì sông cạn” [6-38], vì vậy “công việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Ở đây, người cán bộ không chỉ xuất hiện với
“tầm quan trọng” vốn được ghi nhận từ lâu, mà còn cả với sứ mệnh và trách
nhiệm đối với toàn bộ tiến trình vận động của sự nghiệp cách mạng.
Đặt trong mối liên hệ trách nhiệm với nhiệm vụ chính trị của mình,
người cán bộ là “… dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, …
dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính

sách hay cũng không thể thực hiện được” [28 - 54].


12

Tên gọi cán bộ đã từng để lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng nước
ta từ khi có Đảng lãnh đạo. Hiện nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được dùng
với nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức Đảng và đoàn thể thường được dùng với hai nghĩa: một
là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến
Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên bình thường, đoàn
viên, hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách hưởng lương
trong các tổ chức Đảng, đoàn thể.
- Trong quân đội là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội
trưởng trở lên (cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung
đoàn, sư đoàn…)
- Trong hệ thống bộ máy nhà nước, khái niệm cán bộ về cơ bản được
hiểu với nghĩa trùng với khái niệm công chức, chỉ những người làm việc
trong cơ quan nhà nước thuộc ngạch hành chính, tư pháp, lập pháp, kinh tế,
văn hoá, xã hội. Đồng thời, cán bộ được hiểu là những người có chức vụ chỉ
huy, phụ trách, lãnh đạo. Dù cách hiểu, cách dùng trong các trường hợp, các
lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản thuật ngữ cán bộ bao hàm
nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt, là lãnh đạo, là chỉ huy.
Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất “Cán bộ là khái niệm
chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức,
có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự nghiệp phát triển
của tổ chức” [40- 20].
* Cán bộ tuyên giáo:
Nói đến cán bộ tuyên giáo, trước tiên chúng ta phải hiểu khái niệm cán

bộ tư tưởng. Cán bộ tư tưởng là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng
và Nhà nước ta, là người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá.


13

Đội ngũ cán bộ tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta xét theo lĩnh vực và
hoạt động nghề nghiệp, bao gồm: cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận, cán
bộ tuyên giáo, cán bộ báo chí, xuất bản, cán bộ văn hoá - thông tin, cán bộ
hoạt động văn hoá - nghệ thuật, cán bộ chính trị trong lực lượng vũ trang….
Đó là một đội ngũ đông đảo có đến hàng vạn người. Ở đây chỉ đề cập đến đội
ngũ cán bộ tuyên giáo - những cán bộ có chức năng tham mưu, giúp cấp ủy
chỉ đạo, quản lý, kiểm tra các mặt hoạt động của công tác tư tưởng và công
tác khoa giáo.
Trong lịch sử Đảng ta, cán bộ tư tưởng, cán bộ tuyên giáo xuất hiện
trước và trưởng thành cùng với quá trình phát triển, trưởng thành của Đảng.
Trước khi Đảng ta ra đời, một bộ phận tiên tiến đại diện cho giai cấp công
nhân nước ta đã tiếp thu và tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng vào ngày 3/2/1930. Họ chính là những cán
bộ tuyên giáo mà người đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc. Những cán bộ tuyên
giáo này đã trưởng thành, lớn mạnh cùng với quá trình phát triển của Đảng.
Sau khi Đảng ta giành được chính quyền, lực lượng làm công tác tư tưởng và
khoa giáo chuyên nghiệp được tập hợp lại trong Ban Tuyên giáo, trong cơ
quan tư tưởng - văn hoá và khoa giáo các cấp, các ngành, các đoàn thể và trở
thành bộ phận hữu cơ trong đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ tham mưu của
Đảng và Nhà nước.
Như vậy: Cán bộ tuyên giáo bao gồm cán bộ tư tưởng và cán bộ khoa
giáo của Đảng và Nhà nước ta; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định,
làm và giữ các chức vụ khác nhau tại Ban Tuyên giáo các cấp, các ngành,

các đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội; có chức năng tham mưu, giúp
cấp uỷ chỉ đạo, quản lý, kiểm tra và tác chiến trên các mặt hoạt động của
công tác tuyên giáo.


14

1.1.2. Các lĩnh vực hoạt động và nhiệm vụ của cán bộ tuyên giáo
Cán bộ tuyên giáo là đội ngũ thực hiện một kênh thông tin quan
trọng của công tác tư tưởng, trực tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, hình
thành và củng cố niềm tin, huy động sức mạnh của quần chúng nhân dân
vào phong trào đấu tranh cách mạng, thực hiện nhiệm vụ của cách mạng
do Đảng lãnh đạo. Thông qua hoạt động của mình, cán bộ tuyên giáo góp
phần định hướng tư tưởng, uốn nắn nhận thức lệch lạc, đấu tranh với
những quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, góp phần xây dựng
đạo đức, lẽ sống nhằm xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Cán bộ
tuyên giáo không chỉ thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến quần chúng mà còn là tấm gương sáng trong
việc thực hiện các chủ trương, chính sách. Họ là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, nhân dân với Đảng. Cán bộ tuyên giáo là nhân tố chính trong
việc phối hợp đồng bộ hoạt động của tất cả các lực lượng, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của các binh chủng tư tưởng phục vụ thắng lợi từng
nhiệm vụ chính trị.
* Các lĩnh vực hoạt động của cán bộ tuyên giáo
Cán bộ tuyên giáo hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực, có thể khái quát
thành hai lĩnh vực chính là lĩnh vực công tác tư tưởng và công tác khoa
giáo. Đối với từng lĩnh vực, cán bộ tuyên giáo thực hiện chức năng tham
mưu của mình cụ thể như sau:

+ Lĩnh vực công tác tư tưởng gồm:
- Nghiên cứu và giáo dục lý luận chính trị, sưu tầm, biên soạn, giáo
dục lịch sử Đảng địa phương


15

Cán bộ tuyên giáo trực tiếp chủ trì triển khai kế hoạch quán triệt các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị, các đơn vị cơ sở.
Phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị, các phòng, ngành chức
năng, Mặt trật tổ quốc và các đoàn thể tham mưu Ban Thường vụ cấp ủy định
hướng nội dung xây dựng và triển khai kế hoạch tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên của địa phương hàng năm.
Chuẩn bị nội dung xây dựng đề án, chương trình, kế hoạch tập huấn, đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên của tỉnh và cơ sở,
cán bộ phụ trách tuyên giáo cơ sở, đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội hàng
năm trước khi trình Ban Thường vụ, Thường trực cấp ủy phê duyệt.
Chủ trì, phối hợp với phòng giáo dục và đào tạo, Trung tâm Bồi dưỡng
chính trị, các chi đảng bộ cơ sở thuộc lĩnh vực giáo dục tham mưu Ban
Thường vụ cấp ủy xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch bồi dưỡng chính
trị cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trên địa bàn hàng năm. Thẩm định
các đề cương học tập lý luận chính trị, đề cương tuyên truyền, nội dung đào
tạo, bồi dưỡng của các ban xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trước khi triển khai thực hiện.
Sưu tầm tư liệu, tổ chức biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương, hướng
dẫn các ngành, đoàn thể, phường và đơn vị cơ sở triển khai việc biên soạn lịch
sử, truyền thống của từng đơn vị theo sự chỉ đạo của cấp ủy. Phối hợp với
phòng Giáo dục và đào tạo, Đảng ủy các phường định hướng tuyên truyền,
giảng dạy, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng của địa phương trong cán

bộ, đảng viên, thanh niên, học sinh và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn.
Phối hợp với các ngành chức năng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, lịch sử
tăng cường quản lý, kiểm tra nội dung trước khi in ấn phát hành các tài liệu,
ấn phẩm, kỷ yếu, lịch sử ngành do cấp ủy quản lý. Giúp cấp uỷ tổng kết


16

những vấn đề về lịch sử Đảng bộ, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học,
công tác lãnh đạo, chỉ đạo và giáo dục truyền thống cách mạng ở địa phương.
Tham mưu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác nghiên cứu,
biên soạn lịch sử Đảng bộ của các huyện, thị, thành phố, ngành và Đảng bộ
trực thuộc; thẩm định các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng bộ các cấp, các
ngành ở địa phương. Tham mưu biên soạn các chuyên đề, biên niên sự kiện
lịch sử, đồng thời xác minh, cung cấp các tư liệu, tài liệu cho việc nghiên cứu
lịch sử. Tham mưu, đề xuất với Thường trực cấp uỷ thẩm định các sự kiện, di
tích, các cá nhân có liên quan đến hoạt động của từng Đảng bộ theo yêu cầu
của cơ quan có trách nhiệm ở địa phương và sự phân công của lãnh đạo Ban.
Tiến hành sưu tầm, khai thác, xác minh các loại tư liệu về lịch sử Đảng
bộ, có kế hoạch lưu trữ, bảo quản các tư liệu lịch sử. Giải đáp nhu cầu của cán
bộ, đảng viên và nhân dân tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tuyên truyền - cổ động trong đó có tuyên truyền miệng
Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, đề cương định hướng nội dung công
tác tuyên truyền, cổ động kỷ niệm các ngày lễ lớn; các sự kiện chính trị, văn
hoá nổi bật gắn với giáo dục truyền thống tới cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân. Xây dựng đề cương, định hướng tuyên truyền về phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp và tình hình, kết quả phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng của đất nước, của địa phương. Định hướng tuyên truyền
những luật mới hoặc những Luật xét thấy cần thiết.
Trực tiếp tuyên truyền, hướng dẫn triển khai thực hiện nghị quyết,

quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng;
- Hướng dẫn, kiểm tra công tác báo chí - xuất bản
Theo dõi hoạt động báo chí, đặc biệt là tư tưởng đội ngũ cán bộ làm
công tác báo chí; tham mưu cho cấp ủy những giải pháp đảm bảo cho công tác
báo chí, xuất bản hoạt động theo đúng định hướng chính trị, tư tưởng của


17

Đảng. Tổng hợp báo tuần, tháng; phối hợp với Báo, Đài giải quyết những khiếu
nại, tố cáo, phản ánh của công dân liên quan lĩnh vực báo chí của địa phương.
- Hướng dẫn, kiểm tra công tác văn hóa - văn nghệ
Theo dõi, nắm tình hình hoạt động văn hoá - văn nghệ, đặc biệt là tư
tưởng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá - văn nghệ, xu hướng sáng tác văn
học nghệ thuật trên địa bàn, tham mưu cho cấp ủy những giải pháp đảm bảo
cho công tác văn hoá - văn nghệ hoạt động đúng định hướng chính trị, tư
tưởng của Đảng.
Theo dõi phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”,
tham mưu xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở, bảo tồn và phát huy vai trò giáo
dục của các di sản văn hoá trên địa bàn; phối hợp xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ văn hoá - văn nghệ.
Tham dự các hội nghị thẩm định nội dung kịch bản, các tác phẩm văn
học, nghệ thuật khi được lãnh đạo Ban phân công.
Chuẩn bị nội dung báo cáo giúp cấp ủy tổ chức các hội nghị sơ kết,
tổng kết trong lĩnh vực văn hoá - văn nghệ.
Phối hợp với phòng Tuyên truyền và Phòng Thông tin công tác Tuyên
giáo chuẩn bị nội dung tổ chức các cuộc giao ban của khối tư tưởng - văn hoá
và lĩnh vực an ninh tư tưởng - văn hoá.
- Nắm tình hình tư tưởng và điều tra dư luận xã hội
Quản lý đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội; chủ trì tổ chức giao ban

tổ cộng tác viên dư luận xã hội của địa phương định kỳ hàng tháng hoặc mời
cấp ủy chủ trì. Tổng hợp báo cáo tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, phản ánh
trực tiếp, kịp thời tới cấp ủy.
Định hướng và giải đáp những vấn đề dư luận quan tâm đề cập khi có
đủ căn cứ được cơ quan, cá nhân có trách nhiệm liên quan cung cấp bằng văn
bản hoặc được đã trả lời, giải thích trước công chúng.


18

Nghiên cứu xây dựng và triển khai đề án, kế hoạch điều tra xã hội học
trên một số lĩnh vực khi xét thấy cần thiết trình Ban Thường vụ, Thường trực
cấp ủy phê duyệt.
Thực hiện các phương án, biện pháp nhằm kịp thời định hướng đấu
tranh tư tưởng, phê phán những quan điểm sai trái, phản động, tin đồn, bịa
đặt, tài liệu xấu, thư nặc danh, mạo danh độc hại lan truyền trên địa bàn.
Duy trì chế độ cập nhật thông tin, điểm báo, kịp thời báo cáo Ban
Thường vụ, Thường trực cấp ủy chỉ đạo, định hướng giải quyết.
+ Lĩnh vực công tác khoa giáo gồm:
Khoa giáo là gọi tắt của cụm từ khoa học và giáo dục. Tuy vậy, khoa
giáo còn bao gồm các lĩnh vực rộng lớn hơn: khoa học và công nghệ; giáo dục
và đào tạo; dân số - kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em;
chăm sóc sức khỏe nhân dân; thể dục thể thao.
- Giáo dục và đào tạo:
Cán bộ tuyên giáo tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo công tác giáo dục đào tạo tại địa phương trước hết là tham mưu trong quá trình xây dựng nghị
quyết của cấp ủy địa phương về giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở khảo sát thực
trạng phát triển giáo dục - đào tạo của địa phương đề xuất những ý kiến tham
mưu nhằm giúp cấp ủy xây dựng được nghị quyết về giáo dục - đào tạo theo
tinh thần cụ thể hóa nghị quyết của cấp ủy cấp trên phù hợp với thực tiễn địa
phương. Tham mưu trong quá tình tổ chức triển khai đưa nghị quyết vào cuộc

sống. Thẩm định các văn bản có liên quan đến phát triển giáo dục và đào tạo
do các cấp chính quyền, đoàn thể, hội quần chúng… trước khi trình cấp ủy
phê duyệt. Đề xuất ý kiến tham mưu về xây dựng bộ máy và cán bộ thuộc
ngành mình phụ trách, nhằm tạo điều kiện để thực hiện tốt nhất chủ trương,
đường lối, quan điểm của Đảng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Tích cực
tham mưu để cấp ủy ban hành quy chế chính thức quy định mối quan hệ giữa
ban tham mưu của cấp ủy về giáo dục - đào tạo với các ban, ngành (đặc biệt


19

với ngành giáo dục), các đoàn thể, hội quần chúng. Thường xuyên phối hợp
với ngành phát hiện và tìm giải pháp cho những vấn đề bức xúc trong giáo
dục - đào tạo ở địa phương.
- Khoa học và công nghệ:
Tham mưu cho cấp ủy trong việc lãnh đạo và chỉ đạo khoa học - công
nghệ tại địa phương; tham mưu cho cấp ủy ra các nghị quyết, chỉ thị về lĩnh
vực khoa học - công nghệ dựa trên hai căn cứ đó là đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tình hình thực tế ở cơ sở địa phương về khoa học - công
nghệ. Tham mưu giúp cấp ủy có chính sách, biện pháp quan tâm, giúp đỡ,
động viên đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để họ phấn đấu yên tâm công tác,
đóng góp thiết thực vào việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tham
mưu giúp cấp ủy tổ chức mạng lưới cán bộ, cân nhắc và xem xét đội ngũ cán
bộ thực hiện công tác khoa giáo nói chung, hình thành đội ngũ cán bộ chuyên
trách hoặc kiêm nhiệm theo dõi lĩnh vực khoa học - công nghệ. Tham mưu
cho cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của các đoàn thể
trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, để hoạt động của các tổ chức này gắn
kết với hoạt động của công tác khoa giáo.
- Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Trên cơ sở nắm vững đường lối của Đảng về chăm sóc sức khoẻ, tổ chức

quán triệt các quan điểm đó trong đảng viên và nhân dân, cán bộ tuyên giáo
tham mưu giúp cấp ủy xây dựng các chương trình hành động của địa phương
về chăm sóc sức khoẻ, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết và chỉ thị. Nắm bắt tình hình công tác tư tưởng của đội ngũ cán bộ và các
tầng lớp nhân dân khi thực hiện các chính sách về chăm sóc sức khoẻ và xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng
này một cách thích hợp. Góp phần theo dõi và xây dựng cơ sở Đảng trong các
đơn vị y tế, công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế,
đặc biệt việc phát triển Đảng trong các bác sỹ về công tác tại y tế cơ sở; công


20

tác xây dựng các chi bộ Đảng vững mạnh gắn kết với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của đơn vị. Góp phần vào việc nâng cao năng lực cho cán bộ tuyên
giáo các cấp trong địa phương thông qua các buổi tập huấn, giao ban
- Thể dục, thể thao:
Tham mưu lãnh đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển thể dục
thể thao. Tham mưu lãnh đạo về chính trị, tư tưởng đối với hoạt động thể dục
thể thao. Bảo đảm các hoạt động thể dục thể thao phục vụ các nhiệm vụ kinh
tế, xã hội; gắn hoạt động thể dục thể thao với công tác tuyên truyền và công
tác chính trị - xã hội, xây dựng con người, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Tham mưu lãnh đạo công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
về vị trí, mục tiêu và tác dụng của thể dục thể thao làm cho quần chúng có
nhận thức đúng về vị trí và tác dụng của thể dục thể thao. Tham mưu tổ chức
và xây dựng lực lượng nòng cốt về thể dục thể thao. Tham mưu tạo điều kiện
về cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao. Tham mưu phát triển các nội
dung và hình thức hoạt động thể dục thể thao phù hợp. Thường xuyên kiểm
tra, đánh giá tình hình hoạt động thể dục thể thao. Tham mưu cho các cán bộ
chủ chốt của cấp uỷ và chính quyền xây dựng kế hoạch để kiểm tra, đánh giá

tình hình công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động thể dục thể thao để
kịp thời động viên khuyến khích phong trào và có thể chỉ đạo và điều chỉnh
những hoạt động lệch lạc.
- Dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Tham mưu cho lãnh đạo tổ chức quán triệt các quan điểm về công tác
dân số trong đảng viên và nhân dân. Tham mưu cho cấp uỷ xây dựng các văn
bản chỉ đạo, chương trình hành động của địa phương về lĩnh vực dân số,
hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết và chỉ thị.
Nắm bắt tình hình công tác tư tưởng và xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tư
tưởng, tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ cán bộ và các tầng lớp nhân dân.


21

Nâng cao năng lực tham mưu về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình cho
cán bộ tuyên giáo địa phương thông qua nhiều hình thức đào tạo đa dạng (tập
huấn, giao ban, hội thảo...). Tuyên truyền những kiến thức cơ bản về dân số sức khoẻ sinh sản. Tuyên truyền để mọi người hiểu đúng khái niệm sức khoẻ
sinh sản. Tuyên truyền vai trò gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong thực
hiện chương trình dân số.
- Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em:
Nắm vững và tổ chức quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về trẻ em. Tham mưu xây dựng các văn bản chỉ đạo
mới về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hướng dẫn, giám sát,
kiểm tra, tổng kết tình hình cấp uỷ cấp dưới trong việc triển khai thực hiện
các văn bản chỉ đạo về lĩnh vực này. Góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ
tuyên giáo các cấp ở địa phương trong công tác tham mưu về lĩnh vực bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Xây dựng và phát triển các hội khoa học:
Tham mưu giúp cấp ủy củng cố, phát triển tổ chức và đẩy mạnh hoạt
động của các hội khoa học; xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ, giáo

dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xoá đói
giảm nghèo. Tham mưu giúp cấp ủy ban hành các chỉ thị nghị quyết khuyến
khích các hội đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; chuyển
giao các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống và bảo vệ môi
trường. Có cơ chế, chính sách đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, đào tạo và
dạy nghề, góp phần xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Tham gia các hoạt động phát triển cộng đồng, xoá
đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
* Nhiệm vụ của cán bộ tuyên giáo


22

Một là, nghiên cứu, đề xuất
Nghiên cứu, theo dõi, tổng hợp tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, những thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thù địch chống
phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá; dự báo
những diễn biến và xu hướng tư tưởng có thể xảy ra, kịp thời báo cáo, kiến
nghị với cấp uỷ phương hướng, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp giải quyết.
Chủ trì và tham gia chuẩn bị các đề án, các nghị quyết, quyết định của
Ban Thường vụ, Thường trực cấp uỷ về công tác tư tưởng - văn hoá, khoa
giáo và biên soạn lịch sử Đảng bộ.
Giúp cấp uỷ trong việc đánh giá hoạt động và nghiên cứu đề xuất
phương hướng, chính sách, cơ chế và giải pháp trên lĩnh vực công tác tư
tưởng - văn hoá và khoa giáo.
Tham gia ý kiến với cơ quan chính quyền địa phương trong việc vận
dụng, thể chế hoá các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Trung ương và cấp
uỷ trên các lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, khoa giáo.
Hai là, thẩm định
Chủ trì hoặc tham gia thẩm định các đề án của cơ quan Đảng, Nhà

nước và các tổ chức đoàn thể có liên quan đến lĩnh vực tư tưởng - văn hoá,
khoa giáo và lịch sử Đảng bộ.
Ba là, hướng dẫn, kiểm tra, sơ kết, tổng kết
Giúp cấp uỷ tổ chức nghiên cứu, quán triệt, hướng dẫn, triển khai thực
hiện các nghị quyết của Đảng; kiểm tra các tổ chức đảng, các ban, ngành,
đoàn thể trong việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và của
cấp uỷ về công tác tư tưởng - văn hoá, khoa giáo và Lịch sử Đảng.
Tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị, thời sự, chính sách, theo các
chương trình của Ban Tuyên giáo Trung ương và chỉ đạo của cấp uỷ cho cán
bộ, đảng viên.


23

Tổ chức mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở;
hướng dẫn, kiểm tra nội dung thông tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng, các cơ quan xuất bản do cấp uỷ quản lý.
Hướng dẫn tuyên truyền về các ngày lễ lớn, các phong trào thi đua yêu
nước trong Đảng và trong toàn xã hội.
Tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ công tác khoa giáo, nghiệp
vụ công tác nghiên cứu dư luận xã hội, nghiệp vụ công tác sưu tầm và biên
soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở, ngành… cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cơ sở.
Sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử ngành, đoàn thể của tỉnh
và của các địa phương.
Chỉ đạo và tham gia tổng kết thực tiễn, phát hiện và nhân rộng những
mô hình mới, nhân tố mới trên địa bàn. Tổng kết kinh nghiệm công tác tuyên
giáo cơ sở và định kỳ có báo cáo Ban Thường vụ cấp uỷ.
Bốn là, tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ
Tuyên giáo, trí thức khoa học và văn nghệ sỹ.
Tham gia ý kiến trong việc bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ

luật cán bộ trong khối theo quy định.
Đề xuất với cấp uỷ về cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng, quản lý và đãi ngộ với đội ngũ cán bộ tuyên giáo, văn nghệ sỹ và trí
thức khoa học.
Phối hợp với các cơ quan chức năng, tham gia công tác xây dựng Đảng
đối với các chi, đảng bộ cơ sở thuộc các ngành trong khối tư tưởng -văn hóa
và khoa giáo.
Thực hiện các mặt về công tác tổ chức và cán bộ của Ban theo thẩm
quyền.
Năm là, thực hiện một số nhiệm vụ do Ban Thường vụ cấp uỷ uỷ quyền:


24

Chủ trì, phối hợp, chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt
động của các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá - văn nghệ, các cơ quan
thông tin tuyên truyền ở tỉnh, Hội Văn học - Nghệ thuật, Hội Nhà báo, đảm
bảo cho các Hội này hoạt động theo đúng định hướng và tính chất là tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp.
Chủ trì, chỉ đạo nội dung giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước; các chương trình bồi dưỡng, đào tạo ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị
và hệ thống giáo dục phổ thông trên địa bàn.
Lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng, lãnh đạo công tác chuyên
môn của khối khoa giáo thực hiện theo chủ trương, nghị quyết của Đảng và cấp
uỷ (Giáo dục, dân số, gia đình và trẻ em, y tế, thể dục thể thao, khoa học công
nghệ và môi trường), định hướng chính trị cho hoạt động của khối.
Giúp cấp uỷ chỉ đạo công tác chính trị tư tưởng trong đội ngũ trí thức,
các nhà khoa học và trong sinh viên, học sinh trên địa bàn. Nghiên cứu, đề
xuất chủ trương đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và đãi ngộ nhân tài.

1.2. Khái niệm, đặc trưng và cấu trúc năng lực tham mưu của cán
bộ tuyên giáo
1.2.1. Năng lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo: khái niệm và các
đặc trưng
* Khái niệm năng lực
Khái niệm “năng lực” đã được nhiều ngành khoa học tiếp cận với
những cấp độ và khía cạnh khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, năng lực là khả năng thực tế mà mỗi con
người có được thông qua trau dồi học vấn, hoạt động thực tiễn, tích luỹ kinh
nghiệm, tự giáo dục và tự đào tạo để đáp ứng một yêu cầu nào đó của công


25

việc được giao nhằm giải quyết những nhiệm vụ hay xử lý những tình huống
đặt ra trong đời sống hàng ngày, trong công tác.
Năng lực là những khả năng của chủ thể hoạt động được sử dụng để
đáp ứng những đòi hỏi của công việc, của đối tượng và khách thể đặt ra. Nó
bao gồm một tập hợp các dấu hiệu hay những chỉ báo cho phép xác định
trình độ của một người nào đó được gọi là năng lực, có khả năng làm việc,
có khả năng lao động. Năng lực phải được hình dung một cách cụ thể ở
những con người cụ thể. Về cơ bản, đó là người đã trưởng thành về mặt xã
hội, định hình được tư cách công dân, vị thế xã hội, là một cá nhân, một chủ
thể mang nhân cách.
Tuỳ thuộc vào nghề nghiệp, vị thế xã hội, chức trách, bổn phận và
những sắc thái riêng của từng cá nhân trong từng quan hệ xác định mà năng
lực con người có những hình thái (hình thức, dạng, kiểu, loại) biểu hiện thành
những khả năng khác nhau một cách sinh động, tinh tế, đa dạng, phức tạp.
Theo Từ điển tiếng Việt “Năng lực là phẩm chất sinh lý và tâm lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng

cao” [46-687] .
Nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động
nào đó. Muốn hoạt động có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm
sinh lý nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Nếu những thuộc
tính tâm sinh lý không phù hợp với yêu cầu của hoạt động thì coi như không
có năng lực. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là
một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Tổ hợp
không có nghĩa là các thuộc tính đó tồn tại song song mà chúng có quan hệ và
tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định.
Mỗi con người có thể tích hợp trong mình nhiều năng lực tiềm ẩn,
những năng lực tiềm ẩn đó được bộc lộ ra hay không, điều đó tuỳ thuộc vào


×