Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chuỗi cung ứng điện tử, thương mại hợp tác và cổng thông tin doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 7. CHUỖI CUNG ỨNG ĐIỆN TỬ, THƯƠNG MẠI
HỢP TÁC VÀ CỔNG THÔNG TIN DOANH NGHIỆP.

I.Chuỗi cung ứng điện tử.
A. Các định nghĩa và khái niệm.
1.Chuỗi cung ứng.
Khái niệm về chuỗi cung ứng xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ
XX. Khi đó, chuỗi cung ứng là đơn lẻ, nhưng khi người ta kết hợp cả việc
cung ứng vật tư, kĩ thuật, nguyên vật liệu.. với việc phân phối sản phẩm,
việc xây dựng các chuỗi cung ứng mang một bộ mặt khác.Dòng các nguyên
vật liệu, thông tin, tiền bạc, và các dịch vụ từ các nhà cung cấp nguyên vật
liệu đầu tiên thông qua các nhà máy, kho hàng cho khách hàng cuối cùng

Chuỗi cung ứng có thể hình dung như một sợi dây xích và những
nhà cung ứng sản phẩm/vật tư, dịch vụ, thông tin và tài chính, các tổ
chức, công ty trung gian cho đến người tiêu dùng cuối cùng là một mắt
xích liên kết chặc chẽ với nhau.
Hay định nghĩa theo một cách dễ hiểu hơn đó là:
Một chuỗi cung ứng là một hệ thống các tổ chức, con người,
công nghệ, hoạt động, thông tin và nguồn lực liên quan đến di chuyển
một sản phẩm hay dịch vụ từ nhà cung cấp cho khách hàng. Các hoạt
động chuỗi cung ứng chuyển đổi các tài nguyên thiên nhiên ,
nguyên liệu và các thành phần vào một sản phẩm thành phẩm được
phân phối đến khách hàng cuối cùng .
2. Chuỗi cung ứng điện tử.
Một chuỗi cung ứng quản lý điện tử, thường là với các công nghệ
Web, công nghệ điện toán đám mây.
3. Các bộ phận Chuỗi cung ứng : bao gồm
Chuỗi cung ứng thượng nguồn được thể hiện bằng hình thức mua
sắm: Quá trình thực hiện của một loạt các hoạt động mà tổ chức thu
hay giành được quyền truy cập vào các nguồn lực (vật liệu, kĩ năng, khả




năng, cơ sở vật chất) mà họ yêu cầu để thực hiện các hoạt động kinh doanh
cốt lõi của họ.

Chuỗi cung ứng nội bộ
Chuỗi cung ứng hạ nguồn
4. Quản lí chuỗi cung ứng (SCM)
Có thể hiểu định nghĩa của quản lí chuỗi cung ứng theo cách này:
SCM là sự phối kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật và khoa học nhằm cải
thiện cách thức các công ty tìm kiếm những nguồn nguyên liệu thô cấu thành
sản phẩm/dịch vụ, sau đó sản xuất ra sản phẩm/dịch vụ đó và phân phối tới
các khách hàng được thực hiện có hiệu quả và hiệu quả cho tất cả các

bên liên quan. SCM nhằm mục đích để giảm thiểu mức hàng tồn
kho, tối ưu hóa sản xuất và tăng năng suất lao động, giảm thời gian sản
xuất, hậu cần tối ưu hóa và phân phối, sắp xếp thực hiện đơn hàng,
và tổng thể giảm các chi phí liên quan với các hoạt động này.
Quản lí chuỗi cung ứng là công việc không chỉ dành riêng cho
các nhà quản lí về chuỗi cung ứng. Tất cả những bộ phận khác của một
tổ chức cũng cần hiểu về SCM bởi họ cũng trực tiếp ảnh hưởng đến sự
thành công hay thất bại của chuỗi cung ứng.
Quản lí chuỗi cung ứng điện tử: Việc sử dụng hợp tác công
nghệ để cải thiện hoạt động của chuỗi cung ứng cũng như quản
lý chuỗi cung ứng.
5. Sự thành công của một chuỗi cung ứng phụ thuộc vào:
Khả năng của tất cả các đối tác trong chuỗi cung ứng để
xem sự hợp tác như là một tài sản chiến lược : đây được xem là yếu
tố quan trong nhất vì hiên nay, trong thời đại nền kinh tế thị trường thì
nguồn nhân lực được xem là yếu tố quyết định cho sự phát triển của

mỗi đất nước và làm sao để có sự phối hợp giữa các nhân tố lao động
thì đó là một vấn đề quan trọng. vì vậy để quản lí chuỗi cung ứng hiệu
quả cũng như để có được thành công thì phải đặt các đối tác và quan hệ
lên đầu. Đây là một trong những trụ cột chính của SCM. Việc có đúng
người với đúng kĩ năng là bước đầu tiên tới sự hoàn hảo trong chuỗi
cung ứng.


Một chiến lược chuỗi cung ứng được xác định rõ:

 Sản phẩm chức năng: là sản phẩm chủ lực có nhu
cầu ổn định, dự đoán được và yêu cầu đơn giản, hiệu
quả, chi phí thấp.
 Sản phẩm sáng tạo: có xu hướng có lợi nhuận cao
hơn, nhu cầu biến động, và chu kỳ đời sản phẩm ngắn.
Những sản phẩm đòi hỏi một chuỗi cung ứng nhấn
mạnh tốc độ, đáp ứng, và tính linh hoạt chứ không phải
là chi phí thấp.
Hoạch định chuỗi cung ứng là một công việc tất yếu trong quá
trình hoạch định chiến lược và vận hành doanh nghiệp. Phạm vi của
hoạch định chuỗi cung ứng bắt đầu ngay từ quá trình định hình chiến
lược cho đến thực thi và triển khai hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam cho rằng hoạch định chuỗi cung ứng chẳng liên quan
gì đến quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh. Đây là một nhận định
sai lầm! Thực tế, nếu doanh nghiệp theo đuổi chiến lược cạnh tranh
bằng giá thì chuỗi cung ứng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tối ưu
hóa chi phí. Hoặc nếu doanh nghiệp theo đuổi chiến lược mở rộng thị
phần, chuỗi cung ứng cũng là yếu tố quyết định trong việc cung ứng
hàng hóa và dịch vụ đi kèm đến thị trường. Vì vậy đê có được hiệu quả
trong quản lí chuỗi cung ứng, chúng ta phải xác định rõ rang chiến lược

chuỗi cung ứng là gì??? Một chiến lược chuỗi cung ứng bao gồm:
+ Hoạch định chiến lược nguồn cung
+ Hoạch định chiến lược sản xuất
+ Hoạch định chiến lược logistic và giao hàng.
Khả năng hiển thị thông tin dọc theo chuỗi cung ứng toàn bộ
Tốc độ, chi phí, chất lượng và dịch vụ khách hàng: Thông
thường hầu hết mọi người đều quan tâm đến việc cắt giảm chi phí
chuỗi cung ứng đến mức thấp nhất có thể. Nhà quản trị phụ trách chuỗi
cung cấp muốn chi phí thấp đế duy trì vị thế cạnh tranh, còn người sử


dụng muốn mua hàng với mức giá thấp nhất có thể. Nhiều tổ chức giảm
thiểu chi phí hậu cần của họ đến những cấp độ có tác động đến hoạt
động của tổ chức ở góc độ tổng quát. Khi doanh nghiệp giảm chi phí
vận chuyển sẽ giúp nó có khả năng bán sản phẩm trên bình diện địa lý
rộng hơn. Các doanh nghiệp Nhật bản gợi ý rằng nếu chi phí vận
chuyển thấp sẽ làm cho giá thành của sản phẩm có tính cạnh tranh hơn
so với các sản phẩm được sản xuất nội địa. Tương tự, vận tải hiệu quả
giúp cho việc vận chuyển sản phẩm một cách nhanh chóng trên khoảng
cách tương đối lớn và điều này dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp không
cần xây dựng các nhà kho truyền thống gần với khách hàng.
Trong khi nỗ lực cắt giảm chi phí, các tổ chức hiển nhiên phải
duy trì mức phục vụ khách hàng. Cải thiện hoạt động hậu cần nghĩa
rằng cung cấp sản phẩm mà khách hàng cần với mức giá mà và mức độ
phục vụ họ sẵn sàng chi trả. Trong nhiều trường hợp thì mức phục vụ
sẽ khác nhau nhưng nhân tố then chốt chính là thời gian đặt hàng (lead
time). Đây chính là tổng thời gian giữa việc đặt hàng nguyên vật liệu
cho đến khi nhận. Đương nhiên là mọi người thích làm cho thời gian
này càng ngắn càng tốt khi có thể. Khi khách hàng quyết định mua sản
phẩm, họ mong muốn sớm nhận được chúng; nhà cung cấp muốn

khách hàng hài lòng với dịch vụ nhanh chóng chứ không phải chạy
lòng vòng hoặc kẹt ở đâu đó trong chuỗi cung cấp. Một cách lý tưởng
là thời gian đặt hàng nên bằng không khi có thể và một cách tiếp cận
đối với điều này chính là dịch chuyển nguyên vật liệu đồng bộ. Điều
này tạo ra sự sẵn sàng thông tin cho tất cả các thực thể trong chuỗi
cung cấp ở cùng một thời điểm, vì thể các doanh nghiệp có thể phối
hợp việc dịch chuyển nguyên vật liệu, hơn là phải ngồi đợi thông tin
đến hoặc đi từ chuỗi cung cấp.
Một nhân tố khác ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của khách hàng
chính là sản phẩm riêng biệt. Ví dụ thay vì mua một cuốn sách chuẩn,
bạn có thể mô tả nội dung mà bạn muốn và nhà xuất bản sẽ phát hành
cuốn sách theo yêu cầu. Điều này gọi là sản xuất theo yêu cầu khách
hàng khối lượng lớn (mass customization), kết hợp lợi ích của sản xuất


khối lượng lớn với tính linh hoạt của sản phẩm theo yêu cầu. Việc này
sử dụng B2C khiến cho chuỗi linh hoạt và giúp cho dịch chuyển
nguyên vật liệu nhanh chóng hơn cũng như đáp ứng được những yêu
cầu hoặc điều kiện khác biệt.
Hãng máy tính Dell là một trong số những công ty đầu tiên sử
dụng sản xuất theo yêu cầu khối lượng lớn. Họ không sản xuất một
chiếc máy tính chuẩn, nhưng đợi cho đến khi khách hàng đặt hàng
trên trang web của công ty. Khi đó họ sản xuất chiếc máy tính cho một
đơn hàng cụ thể. Công tác hậu cần đảm bảo tất cả những nguyên vật
liệu cần thiết luôn sẵn sàng cho hoạt động sản xuất, và phân phối sản
phẩm hòan thành một cách nhanh chóng đến với khách hàng.
Dell liên hệ mật thiết với nhà cung cấp và họ phát triển thành một
“sự tích hợp thực sự” nơi mà tất cả nhà cung cấp lẫn Dell trở thành
những bộ phận cấu thành của cùng một công ty. Điều này chứng tỏ sự
thành công với Dell, công ty sản xuất yêu cầu 50 linh kiện chính,

nhưng liệu điều này có còn chứng tỏ sự thành công với công ty sản
xuất ô tô có khoảng 3000 linh kiện? Sản xuất linh hoạt sẽ tạo ra những
áp lực nghiêm ngặt lên chuỗi cung cấp, nhưng chương trình 3DayCar
gợi ý rằng khoảng 80% xe hơi ở Anh có thể được sản xuất cho đơn đặt
hàng vào năm 2010. vì vậy chúng ta cũng cần phải cân nhắc kĩ và có sự
phối hợp giữa tốc độ, chi phí, chất lượng và dịch vụ khách hàng.
Lồng ghép các chuỗi cung ứng chặt chẽ hơn: Nếu tổ chức chỉ
chăm chú vào hoạt động tác nghiệp riêng biệt của nó thì không cần
thiết phải có ranh giới giữa chúng, và điều này làm cản trở dòng
nguyên vật liệu dẫn đến việc tăng chi phí. Tích hợp bên ngoài loại bỏ
những trở ngại và ranh giới này nhằm cải thiện thành tích của cả chuỗi
cung cấp. Christopher khuyên các doanh nghiệp nên vận dụng điều này
và ông phát biểu rằng” Tất cả những cơ hội để cắt giảm chi phí và gia
tăng giá trị nằm ở mối tương tác giữa các thành tố của chuỗi cung cấp”.
6. Các hoạt động và cơ sở hạ tầng của SCM:
 Chuỗi cung ứng bổ sung


 Việc mua sắm điện tử
 Chuỗi cung ứng theo dõi và kiểm soát sử dụng RFID
 Quản lý tồn kho bằng cách sử dụng các thiết bị không dây
 Hợp tác lập kế hoạch
 Hợp tác thiết kế và phát triển sản phẩm
 Dịch vụ hậu cần điện tử
 Sử dụng trao đổi B2B và mạng cung ứng
- Việc mua sắm điện tử
Việc sử dụng các công nghệ dựa trên Web để hỗ trợ quá trình
mua sắm quan trọng, bao gồm cả việc trưng dụng, tìm nguồn cung ứng,
ký kết hợp đồng, đặt hàng và thanh toán. Việc mua sắm điện tử hỗ trợ
mua của cả hai nguyên vật liệu trực tiếp và gián tiếp và sử dụng một số

web dựa trên các chức năng như danh mục sản phẩm trực tuyến, hợp
đồng, đơn đặt hàng, và vận chuyển thông báo.
- Hợp tác lập kế hoạch
Một hình thức kinh doanh kết hợp kiến thức kinh doanh và dự
báo của nhiều người cùng một chuỗi cung ứng để cải thiện lập kế hoạch
và thực hiện nhu cầu khách hàng .
7. Cơ sở hạ tầng cho SCM :
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) : là việc trao đổi các dữ liệu

dưới dạng có cấu trúc (stuctured form - có cấu trúc nghĩa là các
thông tin trao đổi được với các đối tác thỏa thuận với nhau tuân thủ
theo một khuôn dạng nào đó) từ máy tính điện tử này sang máy
tính điện tử khác, giữa các công ty hoặc đơn vị đã thỏa thuận buôn
bán với nhau, tự động hóa hoàn toàn không cần có sự can thiệp của
con người .Theo Ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL), việc trao đổi dữ liệu điện tử được định nghĩa như
sau:
“Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin
từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương


tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thỏa thuận để cấu
trúc thông tin”.
EDI có thể rút ngắn đáng kể khoảng thời gian từ lúc bắt đầu
giao dịch cho đến khi thanh toán kết thúc, bằng cách gửi đi những
thông tin cần thiết và tránh được sự trùng lặp trong cả quá trình
giao dịch.
Những ích lợi chung nhất của EDI là tốc độ cao, tính kinh tế
và sự chính xác trong việc xử lý chứng từ giao dịch. Cụ thể hơn,
EDI đem lại những lợi ích sau:

Sự tiện lợi của việc trao đổi chứng từ giao dịch cả trong và
ngoài giờ làm việc
Chi phí giao dịch thấp hơn
Dịch vụ khách hàng tốt hơn
Khả năng đối chiếu so sánh chứng từ tự động, nhanh chóng và
chính xác
Dữ liệu được lưu chuyển một cách hiệu quả hơn cả ở mức nội bộ
và liên công ty.
Quan hệ đối tác đem lại hiệu suất cao hơn.
EDI còn được kết hợp cùng với một phương pháp quét điểm
bán hàng gọi là Đáp ứng nhanh. Theo đó, sản phẩm được đánh dấu
bằng mã vạch theo mã sản phẩm chung (UPC – Universal Product
Code). Khi một mặt hàng được bán, thì mã vạch được quét và ghi
vào hệ thống. Thông tin này dùng để cập nhật các biểu ghi tồn kho
ở mức bán lẻ và để tạo ra phiếu đặt mua hàng. Phiếu đặt mua hàng
sau đó được truyền tới nhà cung cấp thông qua EDI. Kết quả là sẽ
nhận biết được xu hướng và các hàng hoá được chuyển nhanh tới
làm đầy lại kho.
Mạng Extranets : An extranet là một mạng máy tính cho phép
truy cập kiểm soát từ bên ngoài, cho doanh nghiệp cụ thể hoặc các mục
đích giáo dục. Một extranet có thể được xem như là một phần mở rộng
của một mạng nội bộ của công ty được mở rộng cho người dùng bên


ngoài công ty, thường là các đối tác, nhà cung cấp, và các nhà cung
cấp. Nó cũng đã được mô tả như là một "trạng thái của tâm, trong đó
Internet được coi là một cách để làm kinh doanh với một tập hợp lựa
chọn của các công ty khác (business-to- kinh doanh, B2B), trong sự cô
lập từ tất cả người dùng Internet khác.
Doanh nghiệp ứng dụng

Trong cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nhiều
ngành công nghiệp bắt đầu sử dụng extranet hạn để mô tả các kho trung
tâm dữ liệu được chia sẻ truy cập thông qua trang web chỉ cho các
thành viên có thẩm quyền của các nhóm làm việc đặc biệt. Tuy nhiên,
các ấn phẩm nhiều người coi Michael Ferro, người sáng lập và giám
đốc điều hành của Click Thương mại, để được "Cha đẻ của Extranet " .
Một số ứng dụng được cung cấp trên một phần mềm như một cơ sở
dịch vụ (SaaS) bởi các nhà cung cấp hoạt động như các nhà cung cấp
dịch vụ ứng dụng ( ASPS).
Extranet đặc biệt bảo đảm được sử dụng để cung cấp các dịch vụ
phòng dữ liệu ảo cho các công ty trong các lĩnh vực (bao gồm cả pháp
luật và kế toán ).
Ví dụ, trong ngành công nghiệp xây dựng, các đội dự án có thể
truy cập vào một dự án extranet để chia sẻ bản vẽ và các văn bản, làm
cho ý kiến yêu cầu vấn đề này, thông tin… Năm 2003 tại Vương quốc
Anh, một số các nhà cung cấp hàng đầu thành lập Mạng lưới
Công nghệ Hợp tác xây dựng Nhà cung cấp (NCCTP) để thúc đẩy công
nghệ và thiết lập các tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu giữa các hệ thống dữ
liệu khác nhau. Cùng một loại công nghệ tập trung xây dựng cũng đã
được phát triển ở Hoa Kỳ , Úc và Trung Âu.
Ưu điểm
• Trao đổi khối lượng lớn dữ liệu bằng cách sử dụng Electronic
Data Interchange (EDI)
• Chia sẻ danh mục sản phẩm độc quyền với các đối tác thương mại


• Phối hợp với các công ty khác về những nỗ lực phát triển phần
• Cùng nhau phát triển và sử dụng các chương trình đào tạo với các
công ty khác
• Cung cấp hoặc truy cập các dịch vụ được cung cấp bởi một công ty

cho một nhóm của các công ty khác, chẳng hạn như một ứng dụng
ngân hàng trực tuyến được quản lý bởi một công ty thay mặt cho
các ngân hàng có liên quan
• Do hoạt động trên môi trường Internet, bạn có thể lựa chọn nhà
phân phối khi lựa chọn và đưa ra phương pháp giải quyết tuỳ theo
nhu cầu của tổ chức.
• Bởi vì một phần Internet-connectivity được bảo trì bởi nhà cung
cấp (ISP) nên cũng giảm chi phí bảo trì khi thuê nhân viên bảo trì.
• Dễ dàng triển khai, quản lý và chỉnh sữa thông tin.

Nhược điểm
• Extranet có thể tốn kém để thực hiện và duy trì trong một tổ chức
(ví dụ, phần cứng, phần mềm, nhân viên chi phí đào tạo), nếu tổ
chức nội bộ chứ không phải là một nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng.
• An ninh của Extranet có thể là một mối quan tâm khi lưu trữ thông
tin có giá trị hoặc độc quyền
• Sự đe dọa về tính an toàn, như bị tấn công bằng từ chối dịch vụ
vẫn còn tồn tại.
• Tăng thêm nguy hiểm sự xâm nhập đối với tổ chức trên Extranet.
• Do dựa trên Internet nên khi dữ liệu là các loại high-end data thì
việc trao đổi diễn ra chậm chạp.
• Do dựa trên Internet, chất lượng dịch vụ cũng không được bảo đảm
thường xuyên.

Mạng Intranets: Một mạng nội bộ là một mạng lưới máy tính
cá nhân sử dụng giao thức Internet , kết nối mạng an toàn chia sẻ một
phần của thông tin hoặc các hoạt động của một tổ chức với nhân viên
của mình . Đôi khi thuật ngữ này chỉ đề cập đến các dịch vụ có thể nhìn
thấy nhất, nội bộ trang web . Các khái niệm và công nghệ của Internet ,



chẳng hạn như khách hàng và máy chủ chạy trên bộ giao thức Internet
được sử dụng để xây dựng một mạng nội bộ. HTTP và các giao thức
Internet khác thường được sử dụng như là tốt, chẳng hạn như FTP. Có
thường là một cố gắng để sử dụng công nghệ Internet để cung cấp giao
diện mới với doanh nghiệp "di sản" dữ liệu và hệ thống thông
tin ngắn gọn, một mạng nội bộ có thể được hiểu là "một phiên bản
riêng của Internet ", hoặc như một phiên bản của Internet giới hạn tổ
chức
+ ưu điểm:
Cho phép các nhân viên của một doanh nghiệp ngay lập tức truy
cập vào tài liệu mà có thể bình thường phải được in ra hàng trăm lần
như các tài liệu đào tạo, chính sách hay hướng dẫn sử dụng nguồn nhân
lực cập nhật. Nó cũng có thể được sử dụng như một phương tiện để
giao tiếp với nhân viên của công ty trên quản lý để có một miễn phí
trao đổi ý kiến và nhận xét.
+ Nhược điểm
Hầu hết các intranets hạn chế quyền truy cập vào phần lớn các
trang web bên ngoài, chẳng hạn như MySpace hay Google, để ngăn
chặn từ các nhân viên lướt web hoặc chơi các trò chơi trực tuyến. Họ
có thể được đặt để cho phép một số trang web trong. Tuy nhiên, như là
một cuốn sách của công ty cho phép truy cập vào Amazon để tìm kiếm
được sử dụng cho một cuốn sách khách hàng
Cổng thông tin doanh nghiệp
Các hệ thống và công cụ quy trình làm việc
Phần mềm nhóm và các công cụ hợp tác khác
Phần mềm nhóm liên quan đến các chương trình giúp nhân dân
cùng làm chung trong khi vị trí từ xa với nhau. Chương trình cho phép
thời gian thực sự hợp tác này được gọi là đồng bộ phần
mềm nhóm . Phần mềm nhóm dịch vụ có thể bao gồm việc chia sẻ lịch,



tập thể bằng văn bản, xử lý e-mail, chia sẻ cơ sở dữ liệu truy cập, các
cuộc họp điện tử với mỗi người có thể nhìn thấy và hiển thị thông tin
cho những người khác, và các hoạt động khác. Đôi khi được gọi là
phần mềm hợp tác, phần mềm nhóm là một thành phần không thể tách
rời của một lĩnh vực nghiên cứu được gọi là làm việc Hợp tác xã được
hỗ trợ máy vi tính hoặc CSCW.
Phần mềm nhóm thường chia nhỏ thành các loại mô tả có hay
không việc các thành viên trong nhóm cộng tác trong thời gian thực
(đồng bộ phần mềm nhóm và phần mềm nhóm không đồng bộ ).
Một số ví dụ sản phẩm của phần mềm nhóm bao gồm Lotus
Notes và Microsoft Exchange, cả hai đều hỗ trợ chia sẻ lịch, xử lý
email, và nhân rộng các tập tin trên một hệ thống phân phối để tất cả
người dùng có thể xem các thông tin tương tự. Điện tử "mặt đối mặt"
cuộc họp được tạo điều kiện thuận lợi bởi CU-SeeMe và Microsoft
NetMeeting.

II. Các vấn đề và cách giải quyết các vấn đề:
Một số vấn đề:


Với toàn cầu hóa ngày càng tăng và gia công, chuỗi cung
ứng có thể rất dài và liên quan đến nhiều đối tác nội bộ
và bên ngoài nằm ở những nơi khác nhau

Sự thiếu thốn về cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu
cần có thể ngăn chặn hàng hoá phải đạt điểm đến của họ về
thời gian



Vấn đề chất lượng với các vật liệu và các bộ phận cũng có
thể đóng góp vào sự thiếu hụt trong chuỗi cung ứng




Hiệu
ứng
bullwhip:
Thay
đổi thất
thường trong đơn đặt hàng lên và xuống chuỗi cung ứng .

Bốn nguyên nhân chính gây ra hiệu ứng Bullwhip:





Cách thức cập nhật dự báo nhu cầu
Dung lượng đơn hàng theo quy mô (order batching)
Sự biến động về giá cả (price fluctuation)
Trò chơi tạo sự hạn chế và thiếu hụt (rationing and shortage
gaming)
 Nhu cầu chia sẻ thông tin dọc theo chuỗi cung ứng
 Giải pháp dọc theo chuỗi cung ứng TMĐT
• Thứ tự dùng
• Thực hiện đơn hàng
• Thanh toán điện tử

• Quản lý rủi ro
• Hàng tồn kho có thể được giảm thiểu
• Hợp tác thương mại

III. Chìa khóa kích hoạt chuỗi cung ứng công
nghệ: RFID và Rubee
1. RFID
Nhận dạng tần số vô tuyến (RFID): Thẻ có thể được gắn hoặc
nhúng vào trong các đối tượng, động vật, hoặc con người và sử
dụng sóng radio để giao tiếp với người đọc một mục đích duy nhất để


phân biệt đối tượng hoặc truyền dữ liệu và / hoặc lưu trữ thông
tin về đối tượng
- Quy trình hoạt động của thẻ RFID từ nhà sản xuất đến nhà bán lẻ:

 CÁC GIỚI HẠN CỦA RFID
 Đối với các công ty nhỏ, chi phí của hệ thống có thể
quá cao
 Các hạn chế của môi trường trong đó các thẻ RFID có thể
dễ dàng đọc
 Mức độ chính xác đọc khác nhau tại các điểm khác nhau
dọc theo chuỗi cung ứng
 Lo ngại về tính riêng tư của khách hàng
 Đồng ý về tiêu chuẩn phổ quát
 Kết nối RFIDs với các hệ thống CNTT


RFID có thể được sử dụng trong một loạt các ứng dụng như:
 Quản lý truy cập (facebook, )

 Theo dõi hàng hoá
 Theo dõi con người và động vật
 Thu phí và thanh toán không tiếp xúc
 Máy có thể đọc được quá trình di chuyển các tài liệu
 Smartdust (đối với các mạng cảm biến phân phối ồ ạt )
 Thể thao theo dõi sự kiện đáng nhớ để xác minh tính xác thực
 Quản lý theo dõi hành lý của hành khách ở Sân bay

2. RuBee: Hai chiều, theo yêu cầu, bình đẳng tỏa giao thức thu phát
đang được phát triển bởi Viện Kỹ sư Điện và Điện tử. Giao thức này
tương tự như giao thức IEEE 802 cũng được biết đến như WiFi ( IEEE
802.11 ), WPAN ( IEEE 802.15.4 ) và Bluetooth ( IEEE 802.15.1 ),
trong đó RuBee được nối mạng bằng cách sử dụng trên yêu cầu, peerto -peer, thu hoạt động bức xạ


So sánh giữa RUBEE và RFID.
so sánh giữa Rubee và RFID
Rubee
Loại tín hiệu

RFID

Tốc độ đọc

Sóng từ (99.9% sóng từ,
Sóng vô tuyến (99.9% sóng vô
0.1% sóng vô tuyến)
tuyến, 0.1% sóng từ)
Thấp (dưới 450 KHz, thông Cao và siêu cao ( HF=13.56
thường 132KHz)

Chậm, 6 đơnvị/ giây
Nhanh

Tuổi thọ pin

Dài (10-15 năm)

Tần số

Ngắn (1-4 năm)

Khả năng hiển thị phù Mục vị trí trong kho, y tế, Theo dõi, kiểm kê tính di chuyển
hợp
chăm sóc sức khỏe, vật
trên bàng tải, đảm bảo hàng tồn
nuôi, có thông tin về lịch sử kho di chuyển dọc theo chuỗi cung
đầy đủ các mục thông qua ứng có kế hoạch
các cửa hàng thông minh,
phòng chống trộm cắp
Gắn thẻ
Mục gắn thẻ
-Khung, thùng, tấm carton gắn thẻ
Khả năng xử lí môi
trường khắc nghiệt

- Làm việc dưới nước, xung - Làm việc không hiệu quả trong
quanh kim loại, các góc
môi trướng khắc nghiệt

Vấn đề an toàn


-rất an toàn, không được
hấp thụ thông qua các mô
của con người, trường
cường độ thấp hơn so với
máy dò kim loại
- Chi phí cơ sở hạn tầng ít
hơn so với RFID. Thẻ chi
phí có thể có cao hơn tùy
thuộc vào số lượng thông
tin dự báo được xây dựng
vào thẻ

Chi phí

- Tương đối an toàn

- Chi phí cơ sở hạn tầng cao hơn,
chi phí thẻ phụ thuộc vào hoạt
động bị động hay chủ động.


IV . HỢP TÁC THƯƠNG MẠI:
1.Hợp tác thương mại (c-commerce)
Việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số cho phép các công ty hợp
tác kế hoạch, thiết kế, phát triển, quản lý, và các sản phẩm nghiên cứu, dịch
vụ, và các ứng dụng sáng tạo của Thương mại điện tử.
- Mục đích:
Một trọng tâm mới cho các tổ chức cố gắng để trở thành lợi nhuận và
cạnh tranh hơn. Hợp tác thúc đẩy quan điểm mới của các nhà cung cấp, đối

thủ cạnh tranh và khách hàng. Mục đích là cho một doanh nghiệp để di
chuyển từ sản xuất và bán hàng, chuyển dịch theo hướng hội nhập của các
doanh nghiệp khác nhau.
Hợp tác thương mại là cần thiết cho quản lý quan hệ khách hàng và
webs hợp tác, tương tác thông minh hơn với khách hàng, nhà cung cấp, các
chi nhánh và các đối tác trong các kênh tương tác khách hàng (email, fax,
internet, điện thoại…) và tương tác quá trình kinh doanh thông qua các tổ
chức tích hợp, mở và thông tin thị trường, trao đổi các đầu mối.
Hợp tác trung tâm.
Điểm trung tâm kiểm soát đối với một thị trường điện tử. Một trung
tâm hợp tác, đại diện cho một thị trường điện tử chủ sở hữu, có thể lưu
trữ nhiều không gian hợp tác, trong đó đối tác thương mại sử dụng khả năng
hợp tác để trao đổi dữ liệu với trung tâm hợp tác.
2. Lưới điện toán
Điện toán lưới là một thuật ngữ chỉ sự kết hợp các tài nguyên máy
tính từ nhiều lĩnh vực hành chính đa dạng để đạt được cùng một mục đích.
Điện toán lưới cũng có thể được nghĩ như là một hệ thống được phân bổ với
khối lượng công việc không tương tác mà nó gồm một số lượng các tập tin.
Đặc điểm để phân biết điện toán lưới với các hệ thống tính toán hiệu
suất cao khác như điện toán cụm là nó có khuynh hướng liên kết ít chặt chẽ
hơn, hỗn tạp hơn, và sự phân tán về mặt địa lý nhiều hơn. Mặc dù một lưới
điện toán có thể được dành riêng cho một ứng dụng chuyên biệt, nhưng nó
thường được sử dụng cho nhiều mục đích đa dạng khác nhau.
Lưới điện toán thường được xây dựng với sự kết hợp nhiều thư viện
phần mềm có mục đích chung được biết đến như là ứng dụng trung gian.


Ví dụ tiêu biểu về khả năng chia sẻ nói trên thông qua Internet là dự
án SETI@home hay chương trình liên kết điện toán toàn cầu World
Community Grid mới đây của IBM. Tuy nhiên, chính David Anderson,

Giám đốc SETI@home, cũng từ chối cách gọi grid đối với dự án này mà
thay vào đó ông này nghiêng về cách đặt tên “nguồn điện toán công cộng”
(public resource computing). Một số người khác lại nhắc đến cách gọi “điện
toán Internet” hay “cycle scavenging” (tạm hiểu là “quét tìm và sử dụng các
CPU nhàn rỗi). Những khái niệm này cũng giống grid về một số mặt nhưng
chúng vẫn chỉ mang tính chất cụ thể hóa vào một tác vụ nào đó và chịu sự
điều khiển từ trung tâm, và chính vì thế không thể coi là grid. Ở Mỹ, một số
công ty như hãng United Devices có bán những phần mềm bản quyền phục
vụ hệ thống cycle scavenging trong phạm vi một công ty. Những máy tính
nhàn rỗi có thể chạy các phần mềm điều chế thuốc trong một công ty dược
hoặc đánh giá danh mục đầu tư cho một hãng dịch vụ tài chính. Những
người đầu tiên chấp nhận công nghệ này khẳng định nhiều ích lợi rất ấn
tượng. Tuy nhiên, vì hầu hết các nguồn tài nguyên trong công nghệ này
được điều khiển bởi một tổ chức đơn nhất nên nhiều người cho rằng cycle
scavenging tốt nhất chỉ nên được coi là intragrid, giống như một dạng
intranet.
Xây dựng một lưới điện toán toàn cầu thống nhất cũng có nghĩa là
phải giải quyết được bài toán bảo mật đầy khó khăn, cũng như các vấn đề về
quyền cá nhân và thu phí. Giới làm khoa học có truyền thống chia sẻ các tài
nguyên và kết quả nghiên cứu với nhau nhưng các doanh nghiệp và nhiều
đối tượng khác trong xã hội thì không phải lúc nào cũng sẵn sàng. Hơn nữa,
rào cản về kỹ thuật thực ra không lớn như những cản trở về chính trị, kinh tế
và chủ yếu vẫn là quan niệm. Giấc mơ về một lưới điện toán hợp nhất, giống
như mạng thông tin toàn cầu - xét trên khía cạnh độ đơn giản và sự phổ dụng
- dường như vẫn còn xa xăm, giống như chính việc thống nhất cách hiểu về
khái niệm “lưới”
3. kiến trúc hướng dịch vụ (SOA)
Một khái niệm kiến trúc xác định việc sử dụng các dịch vụ để hỗ trợ
một loạt các nhu cầu kinh doanh.
Kiến trúc hướng dịch vụ là một thuật ngữ khó hiểu bởi vì nó miêu tả

hai thứ hoàn toàn khác nhau. Hai từ đầu tiên miêu tả phương pháp luận của


việc phát triển phần mềm. Từ thứ 3, kiến trúc là một bức tranh của tất cả các
tài sản phần mềm trong một công ty, khá giống như một bản vẽ kiến trúc là
một màn trình diễn tất cả các mảnh ghép nhỏ với nhau để tạo nên một toà
nhà.
Sự khác nhau giữa kiến trúc hướng dịch vụ (SOA) và các dịch vụ web
là gì?
Kiến trúc hướng dịch vụ là chiến dịch bao quát toàn bộ việc xây dựng
các ứng dụng phần mềm trong một công ty -nghĩ về một thiết kế kiến trúcngoại trừ trường hợp này, kiến trúc này cần phải làm cho tất cả các chi tiết
của phần mềm được xây dựng trên cơ sở dùng một phương pháp luận phát
triển phần mềm cụ thể được biết đến như là việc lập trình hướng dịch vụ.
Trong khi đó, dịch vụ web là một tập hợp các cơ chế giao tiếp chuẩn được
xây dựng trên nền tẳng web toàn cầu. Các dịch vụ web là một phương pháp
giao tiếp và kết nối. SOA là một chiến dịch CNTT toàn diện.
Trong SOA, CNTT hiện có tài sản (gọi là dịch vụ) được tái sử dụng và
kết nối lại chứ không phải là nhiều thời gian hơn và tốn kém tái tạo của hệ
thống mới
Các công ty đã có nhiều thành công nhất với SOA cho đến tận bây giờ
là những công ty mà luôn gặt hái thành công với công nghệ: Các công ty lớn
với những nguồn ngân sách lớn có nhiều hoạt động kinh doanh được dựa
trên nền tảng công nghệ. Họ cũng có xu hướng có những nhà lãnh đạo kinh
doanh sành sỏi về công nghệ và có khả năng hỗ trợ công việc trong công ty.
Lợi ích của SOA là gì?
Đầu tiên hãy đặt lợi ích của SOA trong triển vọng. SOA là một lưỡi
hái mà nó lát mỏng sự phức tạp và sự dư thừa. Nếu công ty của bạn không
lớn hay phức tạp, ví dụ hơn 2 hệ thống cơ bản đòi hỏi vài cấp tích hợp –
không có vẻ như SOA sẽ mang lại nhiều lợi ích. Thất bại trong tất cả các
quảng cáo thổi phổng sự thật về SOA hiện nay là thực tế mà phương pháp

luận phát triển này bản thân nó không đem lại lợi ích thực – đó là những tác
động mà nó có được trên một cơ sở hạ tầng dư thừa và phức tạp, cái cơ sở
mà đem lại phần thưởng. Các kiến trúc sư nói có nhiều công việc có liên
quan đến việc tạo một ứng dụng hướng dịch vụ tốt hơn là có một sự tích hợp
phần mềm ứng dụng truyền thống hiện có. (Các cuộc điều tra cho thấy SOA
đang được sử dụng cho việc tích hợp ứng dụng truyền thống ở hầu hết các
công ty). Vì vậy thực tế có một chi phí bổ sung sinh ra do việc phát triển


SOA trả trước. Vì có một lợi ích từ công việc đó nên nó phải loại bỏ công
việc ở nơi nào khác bởi vì phương pháp luận này trong nội tại bản thân nó
không hề tạo lợi ích kinh doanh. Trước khi xem xét xem liệu SOA có lợi ích
hay không, đầu tiên bạn phải quyết định xem liệu có sự dư thừa nào không,
thật tồi tệ nếu các ứng dịng được tích hợp mà có thể được cố kết hay bị loại
bỏ là kết quả của việc chấp nhận SOA. Trong trường hợp này thì có vài lợi
ích tiềm năng.
Để nhận được bức tranh toàn cảnh những lợi ích được bán kèm với SOA,
bạn phải quan sát nó ở 2 mức: đầu tiên, là những ưu điểm (lợi ích) sách lược
của sự phát triển hướng dịch vụ và thứ hau đó là những ưu điểm của SOA
như là một chiến dịch kiến trúc tổng thể.
Một số ví dụ :
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông
liền sông, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Đặc biệt, trong những
năm gần đây, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước
không ngừng phát triển tốt đẹp theo phương châm 16 chữ "Láng giềng hữu
nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai" và tinh thần 4
tốt “Láng giềng tốt, Đồng chí tốt, Bạn bè tốt và Đối tác tốt”.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam Hoàng Tuấn
Anh nhấn mạnh: “Chúng ta rất vui mừng nhận thấy thương mại hai chiều

Việt Nam - Trung Quốc không ngừng tăng nhanh với tốc độ trung bình
32%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010. Trong năm 2009, mặc dù chịu ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế thế giới suy giảm
nhưng kim ngạch thương mại hai nước vẫn đạt 21,35 tỷ USD, tăng 5,04% so
với năm 2008. Trong 6 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc đạt trên 2,8 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ 2009, nhập khẩu
từ Trung Quốc đạt 9,1 tỷ USD, tăng 32%. Tính đến cuối năm 2009, chưa kể
đầu tư của Hồng Kông và Ma Cao, chỉ riêng Trung Quốc đã có 676 dự án
đầu tư tại 52/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng vốn đăng ký đạt 2,74
tỷ USD, đứng thứ 15 trên tổng số 89 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại
Việt Nam, trong số này có cả dự án của các doanh nghiệp của thành phố
Thượng Hải. Hầu hết các dự án đang được triển khai thuận lợi và thành
công, mang lại lợi ích chung cho doanh nghiệp và hai nước. Tuy nhiên, kết


quả này vẫn chưa tương xứng với mối quan hệ chính trị và hợp tác hữu nghị
tốt đẹp, với tiềm năng và lợi thế cũng như mong muốn của Chính phủ và
nhân dân hai nước chúng ta”.
Ông Phạm Gia Túc cũng cho biết, là tổ chức xúc tiến thương mại
đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
đã và sẽ là cầu nối hiệu quả giữa cộng đồng doanh nghiệp Trung Quốc nói
chung và cộng đồng doanh nghiệp Trung quốc tại Thượng Hải nói riêng với
cộng đồng doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam và luôn tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư, kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam
nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế tương xứng với mối quan
hệ hữu nghị truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện cũng như
mong muốn của lãnh đạo cấp cao và tiềm năng hợp tác phát triển của hai
nước.
Trong các chuyến thăm chính thức Trung Quốc năm 2009 và tháng 4
năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cùng các đồng chí lãnh đạo

Trung Quốc, lãnh đạo thành phố Thượng Hải trao đổi và thống nhất một số
biện pháp quan trọng để cụ thể hóa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện giữa hai nước, trong đó hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư là ưu tiên
hàng đầu, với mục tiêu phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai nước đạt 25
tỷ USD vào năm 2010. Chính phủ Việt Nam luôn mong muốn và sẽ làm hết
sức mình để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa sự hợp tác toàn diện giữa hai bên.
Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh tin tưởng, với sự quan tâm của lãnh đạo
hai Đảng, hai Chính phủ và các địa phương, với niềm tin sâu sắc vào tương
lai tươi sáng của quan hệ kinh tế - thương mại, đầu tư giữa hai nước, với sự
hợp tác tích cực giữa hai bên, các doanh nghiệp hai nước sẽ tiếp tục có nhiều
hợp đồng thương mại được ký kết, nhiều dự án đầu tư được cấp giấy phép
tại Việt Nam và thực hiện thành công, góp phần thúc đẩy phát triển chung
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Ấn Độ
Việt Nam và Ấn Độ có quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp do cố
Thủ tướng Nerru và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, được các thế hệ lãnh
đạo và nhân dân 2 nước dày công vun đắp. Hai nước luôn ủng hộ lẫn nhau
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây cũng như trong sự nghiệp
xây dựng, phát triển mỗi nước ngày nay. Việt Nam coi trọng thúc đẩy hợp


tác nhiều mặt với các nước bạn bè truyền thống, trong đó Ấn Độ là một
trong những đối tác ưu tiên hàng đầu. Trên cơ sở quyết tâm chính trị cao, sự
tin cậy, hiểu biết lẫn nhau và ý chí hợp tác mạnh mẽ của cả hai nước, tin
rằng quan hệ đối tác chiến lược Việt - Ấn sẽ ngày càng phát triển vững chắc
vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Chủ tịch nước hoan nghênh các kết quả hợp tác giữa hai Bộ Quốc
phòng, ủng hộ các đề xuất hợp tác của cuộc Đối thoại quốc phòng cấp Thứ
trưởng lần thứ 6. Chủ tịch nước cũng cho rằng, 2 bên cần đẩy mạnh nhiều

hoạt động hợp tác thiết thực, hiệu quả hơn nữa để kỷ niệm 40 năm thiết lập
quan hệ ngoại giao, 5 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa 2 nước
diễn ra vào năm 2012.
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Campuchia:
Những điểm mạnh của Campuchia và những lý do nên đầu tư vào
Campuchia.
Khi một nhà đầu tư đến với Campuchia, họ quan tâm đến ít nhất là 03
vấn đề chính.
+ Vấn đề thứ nhất là sự ổn định chính trị, mà Campuchia đã đảm
bảo được sự ổn định chính trị.
+ Thứ hai là sự ổn định kinh tế vĩ mô, Campuchia cũng đã có
được điều này mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua.
Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia chứ
không riêng chỉ Campuchia. Ngoại trừ điều này, nền kinh tế Campuchia
đang trong tình trạng tích cực.
+ Vấn đề thứ ba là việc có được một hành lang pháp lý vững chắc
cho các doanh nghiệp, có nghĩa là các quy định quy tắc quốc tế cũng đang
được thực hiện tại Campuchia, không có chuyện thực hiện theo luật rừng.
Đó mới chỉ là 03 vấn đề chính, Campuchia còn có thể cung cấp cho
các nhà đầu tư thêm một nhân tố nữa, đó là khả năng hội nhập vào thị trường
quốc tế. Chúng ta mời các nhà đầu tư đến Campuchia để sản xuất sản phẩm
xuất khẩu sang thị trường Châu Âu trên nền tảng Campuchia không bị rào
cản về quota trên thị trường này. Đối với Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ và các quốc gia lớn khác cũng vậy, toàn bộ đều là miễn thuế và không áp
dụng quota.


Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng khác là Campuchia có một
chính sách thương mại hoàn toàn rộng mở.
4.Hợp tác điện tử:

Nhà cung cấp, quản lý hàng tồn kho (VMI): Việc thực hành của các
nhà cung cấp các nhà bán lẻ chịu trách nhiệm về xác định khi nào ra
lệnh và làm thế nào để đặt hàng
VMI có lợi ích rất nhiều cho cả hai Nhà sản xuất & phân phối:
Lợi ích 2 bên:
• Lỗi nhập dữ liệu được giảm do vào máy tính truyền thông máy
tính. Tốc độ xử lý cũng được cải thiện.
• Cả hai bên quan tâm trong việc đưa ra dịch vụ tốt hơn cho khách hàng
cuối. Có mục chính xác trong kho khi khách hàng cuối cùng nhu cầu
của nó, mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan.
• Một mối quan hệ đối tác thực sự được hình thành giữa các Nhà sản
xuất và phân phối. Họ làm việc gần nhau hơn và tăng cường mối quan
hệ của họ.
• Ổn định thời gian của đơn đặt hàng mua - PO được tạo ra trên cơ sở
được xác định trước.
Nhà phân phối:
• Mục đích là để có một sự cải tiến trong Giá Điền từ nhà sản xuất và
khách hàng cuối cùng. Ngoài ra, giảm tồn kho outs và giảm mức hàng
tồn kho.
• Kế hoạch và chi phí đặt hàng sẽ giảm do trách nhiệm được chuyển
sang sản xuất các.
• Mức độ dịch vụ tổng thể được cải thiện bởi có sản phẩm ngay tại đúng
thời điểm.
• Các nhà sản xuất là tập trung hơn hơn bao giờ hết vào việc cung cấp
dịch vụ tuyệt vời.
Các nhà sản xuất:
• Năng hiển thị của điểm phân phối dữ liệu bán làm cho dự báo dễ
• Chương trình khuyến mãi có thể được dễ dàng tích hợp vào kế hoạch
kiểm kê.



• Giảm lỗi phân phối đặt hàng (mà trong quá khứ có thể sẽ dẫn đến trở
lại)
• Trước khi VMI, một nhà sản xuất không có khả năng hiển thị số
lượng và các sản phẩm được sắp xếp theo thứ tự. Với VMI, các nhà
sản xuất có thể thấy sự cần thiết tiềm năng cho một mục trước khi mặt
hàng đó là ra lệnh
• Chia sẻ thông tin giữa các nhà bán lẻ và nhà cung cấp
• Sự hợp tác giữa cửa hàng bán lẻ và nhà cung cấp
• Vận chuyển thấp hơn và chi phí hàng tồn kho giảm
• Giảm thời gian chu trình thiết kế
• Giảm thời gian phát triển sản phẩm
Những rào cản trong hợp tác thương mại:
Hầu hết các tổ chức đã đạt được mức trung bình của sự hợp tác vì:
* Thiếu hội nhập nội bộ, tiêu chuẩn,và mạng lưới
* Mối quan tâm an ninh và sự riêng tư, và mất lòng tin đối với những
người đã tiếp cận và kiểm soát thông tin được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của
một đối tác
* Kháng nội bộ để chia sẻ thông tin và cách tiếp cận mới
* thiếu các kỹ năng nội bộ để tiến hành hợp tác thương mại.
IV/ KẾ HOẠCH HỢP TÁC, CPFR VÀ THIẾT KẾ HỢP TÁC:
1. Hợp tác lập kế hoạch, dự báo, và bổ sung (CPFR)
Dự án trong đó nhà cung cấp và nhà bán lẻ hợp tác trong việc lập kế
hoạch và dự báo nhu cầu để tối ưu hóa dòng chảy của vật liệu dọc theo
chuỗi cung ứng.
Người ta có thể phân loại hàng tồn kho trong hai loại: hàng tồn kho
thời gian xử lý và tách hàng tồn kho. Quá trình kiểm kê được thực hiện
trong thời gian đó trải qua hàng tồn kho một quá trình, chẳng hạn như sản
xuất (công việc trong quá trình kiểm kê) hoặc giao thông vận tải (Quá cảnh
hàng tồn kho). Hàng tồn kho này có thể được giảm nếu quá trình cơ bản là

đẩy nhanh tiến độ.
Lượng thời gian mà vật liệu và hàng hóa chi tiêu trong hàng tồn
kho quá trình thường nhỏ, tuy nhiên, thời điểm được chi tiêu trong hàng tồn


kho tách ở giữa quy trình. Hàng tồn kho là đối tượng của hầu hết các công
việc hậu cần và chuỗi cung ứng quản lý. Tách tồn kho đảm bảo rằng quá
trình nuôi và quá trình đó là nguồn cấp dữ liệu làm việc tại hiệu quả cao
điểm của họ. Đây cũng là hàng tồn kho văn phòng phẩm và nó cho biết thêm
không có giá trị cho doanh nghiệp, ngoài vai trò của nó cho phép liên quan
đến các quá trình xung quanh nó. Tách kết quả kiểm kê từ xem xét rất nhiều
trong việc đánh giá, dự đoán, và chứng khoán an toàn.
Hệ thống lập kế hoạch và lập lịch trình tiên tiến (APS)
Chương trình sử dụng các thuật toán để xác định các giải pháp tối ưu
cho các vấn đề quy hoạch phức tạp đang bị ràng buộc bởi những hạn chế.
Quá trình APS đề cập đến một quá trình quản lý sản xuất nguyên liệu
và năng lực sản xuất tối ưu được phân bổ để đáp ứng nhu cầu.APS là đặc
biệt rất phù hợp với môi trường mà các phương pháp lập kế hoạch đơn giản
có thể không đầy đủ hay có sự cạnh tranh
Lập kế hoạch truyền thống và lập kế hoạch hệ thống (chẳng hạn
như hoạch định nguồn lực sản xuất ) sử dụng một thủ tục từng bước để phân
bổ vật chất và năng lực sản xuất . Cách tiếp cận này là đơn giản nhưng cồng
kềnh, và không dễ dàng thích ứng với thay đổi trong nhu cầu, khả năng
nguồn lực và tính sẵn sàng vật chất. Vật liệu và năng lực được lên kế hoạch
một cách riêng biệt, và nhiều hệ thống không xem xét vật liệu sẵn có hạn chế
về năng lực. Như vậy, phương pháp này thường là kết quả trong kế hoạch
mà không thể được thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực chuyển
sang hệ thống mới, các nỗ lực đã không phải lúc nào cũng thành công, đã
kêu gọi sự kết hợp của triết lý quản lý sản xuất .
Không giống như các hệ thống trước đó, APS đồng thời lên kế hoạch

và lịch trình sản xuất dựa trên nguyên liệu sẵn có, lao động và công suất nhà
máy.
APS thường được áp dụng một hoặc nhiều trong các điều kiện sau đây
có mặt: quy trình sản xuất thâm dụng vốn , công suất nhà máy là hạn chế
sản phẩm cạnh tranh, cho công suất nhà máy: nhiều sản phẩm khác nhau
được sản xuất tại mỗi cơ sở các sản phẩm mà một số lượng lớn các thành
phần hoặc các nhiệm vụ sản xuất sản xuất đòi hỏi phải thay đổi lịch trình
thường xuyên mà không có thể được dự đoán trước khi sự kiện này.


2. Quản lý vòng đời sản phẩm (PLM)
Chiến lược kinh doanh cho phép các nhà sản xuất để kiểm soát và chia
sẻ các dữ liệu liên quan đến sản phẩm như là một phần của thiết kế sản phẩm
và những nỗ lực phát triển.
Trong công nghiệp, quản lý vòng đời sản phẩm (PLM) là quá trình
quản lý toàn bộ vòng đời của một sản phẩm từ lúc thụ thai của mình, thông
qua thiết kế và sản xuất, dịch vụ và xử lý. PLM tích hợp con người, dữ liệu,
quy trình và hệ thống kinh doanh và cung cấp một thông tin sản phẩm xương
sống cho các công ty và doanh nghiệp mở rộng của họ.
Quản lý vòng đời sản phẩm (PLM) phải được phân biệt với "chu kỳ
sản phẩm quản lý cuộc sống (tiếp thị ) (PLCM) . PLM mô tả các khía cạnh
kỹ thuật của một sản phẩm, từ quản lý mô tả và tính chất của một sản phẩm
thông qua phát triển và cuộc sống hữu ích, trong khi đó, PLCM đề cập đến
việc quản lý thương mại của cuộc sống của một sản phẩm trong thị trường
kinh doanh đối với chi phí và doanh số bán hàng các biện pháp.
Sản phẩm vòng đời quản lý một trong những bốn nền tảng của một
của công ty thông tin công nghệ cấu trúc. Tất cả các công ty để quản lý
thông tin liên lạc và thông tin với các khách hàng của họ CRM , khách hàng
quan hệ quản lý, nhà cung cấp của họ (SCM -cung cấp chuỗi quản lý), của
họ nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp (ERP- hoạch định nguồn lực

doanh nghiệp) và kế hoạch của họ (SDLC -hệ thống phát triển cuộc sống
chu kỳ) . Ngoài ra, các công ty kỹ thuật sản xuất cũng phải phát triển, mô tả,
quản lý và giao tiếp thông tin về sản phẩm của họ.
Một hình thức của PLM được gọi là con người làm trung tâm
PLM. Trong khi các công cụ truyền thống PLM đã được triển khai, chỉ phát
hành hoặc trong giai đoạn phát hành, lấy con người làm trung tâm PLM mục
tiêu giai đoạn thiết kế.
Đến năm 2009, công nghệ thông tin phát triển (PROMISE do EU tài
trợ dự án 2004-2008) đã cho phép PLM mở rộng ra ngoài PLM truyền thống
và tích hợp dữ liệu cảm biến và thời gian thực dữ liệu sự kiện vòng đời "vào
PLM, cũng như cho phép thông tin này được cung cấp cho người chơi khác
nhau trong tổng vòng đời của một sản phẩm cá nhân (kết thúc vòng lặp
thông tin). Điều này đã dẫn đến sự mở rộng của việc quản lí vòng đời sản
phẩm.


×