Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Giải pháp tằng cường huy động vốn tại BIDV chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.45 KB, 94 trang )

1

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn vốn huy động là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân
hàng. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng
trong việc thu hút nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức là
một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng.
Nguồn vốn huy động là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó là nguồn
gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng.
Ta có thể thấy rõ điều này ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Hà Nội. Trong 03 năm từ năm 2008 đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng
tín dụng của Chi nhánh luôn rất cao, tuy nhiên lợi nhuận kinh doanh cũng như thu
nhập của cán bộ công nhân viên chi nhánh thì vẫn còn rất khiêm tốn. Lý giải cho
thực tế này đó là sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của
Chi nhánh. Không tự chủ được nguồn vốn huy động, Chi nhánh phải mua lại vốn
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, điều này đã làm gia tăng đáng kể chi
phí huy động vốn và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của Chi
nhánh.
Là một cán bộ nhân viên của Chi nhánh, với mong muốn đóng góp một phần
nhỏ vào sự phát triển ngày một vững mạnh của Chi nhánh, tôi đã quyết định chọn
nghiên cứu đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội” .

2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn, tập trung vào nội dung huy
động vốn từ khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh


Bắc Hà Nội trong mối quan hệ với sử dụng vốn và kết quả kinh doanh.


2

2
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn để góp phần nâng

cao kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Bắc Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác huy động vốn, tập trung vào nội dung huy
động vốn từ khách hàng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Bắc Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2008 - 2010.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp logic, phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê dựa trên số liệu thứ cấp tại ngân
hàng để làm rõ nội dung nghiên cứu.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung Luận văn được trình bày theo 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội.


3

3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính
quan trọng nhất, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội
đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho
toàn xã hội. Tiền từ ngân hàng được đẩy vào những nơi đang thiếu vốn, góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế
cho đất nước.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, tính chất và các mục
tiêu hoạt động. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét tổ chức này trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Điển hình đó là quan
điểm của Peter S.Rose về ngân hàng: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Trên phương diện các hoạt động chủ yếu, Luật các tổ chức tín dụng do Quốc
hội khóa XII thông qua ngày 16/06/2010, định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là
loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.


1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa XII thông qua ngày
16/06/2010, hoạt động ngân hàng được hiểu là việc kinh doanh, cung ứng thường


4

4

xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Huy động vốn; Cấp tín dụng; Cung
ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
1.1.2.1 Huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cấp tín dụng, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân
hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn nhằm thực hiện cấp tín dụng và thực hiện các
dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) bao gồm: nhận
tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu; vay
vốn của Ngân hàng Nhà nước; vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính và
các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi
cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
1.1.2.2. Cấp tín dụng
Cấp tín dụng là việc ngân hàng thương mại thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại,

nó luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, do
đó ngân hàng luôn xây dựng chính sách tín dụng trước khi thực hiện hoạt động này.
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành
hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường
chuyên môn hóa trong việc phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt
động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Một chính sách
tín dụng phải được xây dựng dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng nhu cầu tín dụng của


5

5

khách hàng và khả năng sinh lời và rủi ro tiềm tàng của khách hàng. Nội dung của
chính sách tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, qui mô và giới hạn tín dụng,
lãi suất và phí tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, các khoản đảm bảo, các
điều kiện giải ngân và thanh toán, ...
1.1.2.3. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản
Ngân hàng cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán
séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và
các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Ngoài việc giúp ngân hàng huy động vốn, thu phí, hoạt động cung ứng dịch vụ
thanh toán còn là thước đo về chất lượng dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng nào
thực hiện tốt hoạt động thanh toán thì sẽ thu hút được khách hàng và tạo sự tin
tưởng cho họ khi sử dụng dịch vụ này.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã giúp cho ngân hàng thực hiện việc
thanh toán một cách nhanh chóng và chính xác. Thông qua mạng thanh toán điện tử
nội bộ và thanh toán điện tử liên ngân hàng, hoạt động thanh toán đã không bị giới
hạn về mặt không gian cũng như thời gian.


1.2. Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và vai trò công tác huy động vốn trong Ngân hàng thương
mại
1.2.1.1 Khái niệm
Một ngân hàng thương mại có thể thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau như: từ vốn chủ sở hữu và vốn nợ. Tuy nhiên vốn chủ sở hữu thường chỉ
đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho
hoạt động chứ chưa đủ để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như
cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động
này, ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng.


6

6
Hoạt động huy động vốn từ khách hàng của ngân hàng thương mại có thể

được hiểu là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, là những giá trị
tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ lượng tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế,
các cá nhân trong xã hội. Ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua quá trình
thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn từ: nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu; vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các
hình thức huy động vốn khác.
1.2.1.2. Vai trò của công tác huy động vốn trong ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân
hàng nhưng xét một cách toàn diện nó đóng vai trò rất quan trọng. Không có hoạt
động huy động vốn xem như không có hoạt động của ngân hàng thương mại.
Đối với ngân hàng thương mại, huy động vốn là cơ sở chính góp phần mang
lại nguồn vốn để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh như cho vay, đầu

tư… do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Không có hoạt động huy động vốn, ngân hàng thương mại sẽ không có đủ nguồn
vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ này, các ngân
hàng có thể đo lường sự tín nhiệm, uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó,
ngân hàng thương mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy
động vốn để giữ vững và mở rộng mối quan hệ với khách hàng. Có thể nói, nghiệp
vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” cho ngân hàng.
Đối với khách hàng, hoạt động huy động vốn cung cấp cho khách hàng
một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho những khoản tiền của họ được sinh
lợi, tạo cơ hội cho họ gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Ngoài ra, nó cung cấp
cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi, giúp
cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng khác như dịch vụ
thanh toán, tín dụng…


7

7
Đối với nền kinh tế, hoạt động huy động vốn giúp cho việc chu chuyển

nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế được thực hiện một cách hiệu quả, đồng thời
cũng góp phần cung cấp, phân phối hàng hóa cho thị trường tài chính tiền tệ, từ đó
thúc đẩy đầu tư sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội.

1.2.2 Các hình thức huy động vốn
Nguồn vốn ban đầu của ngân hàng mới đủ để ngân hàng tồn tại về mặt pháp
lý. Để có thể hoạt động kinh doanh, ngân hàng phải huy động vốn từ nhiều nguồn
và nhiều hình thức khác nhau.
1.2.2.1 Huy động tiền gửi
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động vốn cổ điển

và mang tính đặc thù riêng có của ngân hàng thương mại. Do vậy, đây cũng là
điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng và khác
nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, ngân hàng thương mại
phải thiết kế và phát triển thành nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau. Phân
loại theo mục đích sử dụng, hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương
mại có thể chia thành:
A, Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán)
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài
khoản này mở cho các đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu giữ
và thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá
nhân đều được ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng
cũng sử dụng số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của họ. Do vậy, đôi khi số dư này
nhà rỗi tạm thời cho đến khi được huy động vào thanh toán. Những lúc tạm thời
nhàn rỗi số dư này trở thành nguồn vốn của ngân hàng, do đó ngân hàng có thể sử


8

8

dụng cho hoạt động của mình. Tuy nhiêm, do tài khoản tiền gửi thanh toán là loại
tài khoản không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo
trước cho ngân hàng, nên ngân hàng rất khó kế hoạch hóa việc sử dụng loại tiền gửi
này. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này thường ngân hàng trả lãi suất thấp, hoặc
thậm chí không trả lãi cho khách hàng. Do không được hưởng lãi cao, nên khách
hàng thường duy trì số dư tài khoản tiền gửi thanh toán không nhiều, chỉ vừa đủ đáp
ứng nhu cầu chi trả hàng ngày của họ. Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán

của từng khách hàng thường không lớn, nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và
cung cấp dịch vụ thanh toán, nên ngân hàng thương mại có số lượng khách hàng rất
đông khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng
trở nên lớn đáng kể.
B, Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được
chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt
động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi
tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi cho kỳ hạn. Người gửi không được sử
dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại
tiền gửi này. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã thỏa
thuận, nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài, các ngân hàng
thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất
không kỳ hạn hoặc hưởng mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do
ngân hàng qui định.
Nguồn vốn này có độ ổn định cao, ngân hàng chủ động trong quá trình sử
dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này, các ngân hàng
thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi ở
các đơn vị, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn
càng dài lãi suất càng cao.


9

9
C, Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các

khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều
có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các

khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại. Nó mang tính ổn định
và tạo nền vốn vững chắc cho ngân hàng. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền gửi
tiết kiệm, các ngân hàng đưa ra các hình thức huy động đa dạng như:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn
gửi vào ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng chưa thiết lập được kế
hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối với khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền
gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi. Với sổ
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào
trong giờ giao dịch. Tuy nhiên, khác với hình thức tài khoản tiền gửi cá nhân mỗi
lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các
giao dịch ngân quỹ như gửi, rút tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch
thanh toán như tiền gửi thanh toán. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách
hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để
chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, ngân hàng
thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này. Mặc dù, số dư trên tài khoản tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng thường không lớn nhưng nếu ngân hàng thu
hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua hình
thức tiền gửi này có thể trở nên lớn đáng kể.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được thiết kế dành cho khách hàng có nhu cầu gửi tiền
vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu


10

10


nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý.
Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, viên chức hưu
trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi lựa chọn hình thức tiền gửi này là lợi tức có
được theo kỳ hạn. Lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cao hơn lãi suất
tiền gửi không kỳ hạn và nó đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng
khách hàng này. Mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi, tùy theo loại
đồng tiền gửi và theo uy tín và rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
Việc phân chia tiền gửi kỳ hạn thành nhiều loại khác nhau làm cho sản phẩm
tiền gửi của ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng được nhu cầu
gửi tiền đa dạng của khách hàng.
+ Các loại tiết kiệm khác: ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính hầu hết các
ngân hàng thương mại đều có thiết kế những loại tiền gửi tiết kiệm khác như: tiết
kiệm tiện ích, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm an khang,.. với nét đặc trưng riêng
nhằm làm cho sản phẩn của mình luôn được đổi mới theo nhu cầu khách hàng và
tạo ra rào cản dị biệt để chống lại sự bắt chước của các đối thủ cạnh tranh.
1.2.2.2 Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi, các tổ chức tín dụng nói
chung và ngân hàng thương mại nói riêng còn có thể huy động vốn bằng cách phát
hành giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để
huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn
nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và
người mua. Các hình thức huy động giấy tờ có giá được sử dụng phổ biến là: phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi,..
Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi là các tổ
chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa sử
dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của người có vốn trong xã
hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu


11


11

này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển
nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng.
Với việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn, ngân hàng có khả
năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động
trong sử dụng. Hình thức này thường được thực hiện khi ngân hàng đã tiếp nhận
được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng, hay
sau khi đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn
thiếu và được sự đồng ý của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Ở nước ta các hình thức huy động này còn thấp so với nguồn huy động khác,
nguồn vốn này tùy theo thời điểm khi nào cần thì ngân hàng mới huy động.
1.2.2.3 Các hình thức huy động vốn khác
Với mục tiêu huy động được vốn từ khách hàng, ngân hàng thương mại còn
thực hiện một số hình thức huy động vốn khác như: vay các tổ chức tín dụng, vay
vốn của Ngân hàng trung ương, các nguồn vốn khác:
- Vay các tổ chức tín dụng: Các ngân hàng thương mại thường vay vốn từ
các tổ chức tín dụng để bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các ngân hàng thương mại có thể giao dịch trực tiếp với nhau qua thị trường liên
ngân hàng trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay các ngân hàng thương mại thường
cao và phải phụ thuộc vào khả năng cân đối nguồn vốn của ngân hàng cho vay.
Nguồn vốn này thường có thời hạn ngắn, thường qua đêm hoặc không quá một
tuần, chi phí cao nên các ngân hàng chỉ vay khi thật cần thiết và mang tính tạm thời.
- Vay ngân hàng Trung ương: Ngân hàng thương mại vay ngân hàng
Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ tại ngân hàng Trung
ương, thiếu hụt dự trữ, đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Ngân hàng Trung ương cho
các ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn như:
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn.



12

12
+ Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn

hạn khác. Ngân hàng Trung ương luôn đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối
với các NHTM. Việc cho vay của Ngân hàng Trung ương phụ thuộc vào chính sách
tiền tệ nới lỏng nhằm đẩy mạnh, khuyến khích đầu tư, cho vay và lãi suất cao khi
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát hay phạt trong trường hợp
thiếu dự trữ bắt buộc. Nguồn vốn này thường có thời hạn ngắn và chiếm tỷ trọng
nhỏ trong nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
- Nguồn vốn khác: Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên trong quá trình hoạt
động các ngân hàng thương mại còn có thể tạo lập vốn từ nhiều nguồn khác nhau:
+ Vốn trong thanh toán: là vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh
toán trong nền kinh tế. Cụ thể: số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của
người chi trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng do phải luân
chuyển, xử lý chứng từ thanh toán. Số vốn trong thời gian khách hàng lưu ký tại
ngân hàng nhưng chưa thanh toán theo một số hình thức thanh toán như séc bảo chi,
thư tín dụng, thẻ ký quỹ.
Khi công nghệ thanh toán của ngân hàng ngày càng hiện đại, quy trình, thủ
tục thanh toán được cải tiến thì thời gian của mỗi khoản thanh toán được giảm đi
đáng kể, do đó vốn mà ngân hàng có được trong mỗi khoản thanh toán cũng giảm.
Nhưng do ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và việc thanh toán được thực
hiện qua ngân hàng ngày càng tăng, làm cho số vốn ngày có điều kiện gia tăng.
+ Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và
ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa xã hội.
+ Ngoài ra, ngân hàng còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh
nghiệp, cũng như thu hộ lợi tức chứng khoán cho khách hàng… qua nghiệp vụ này

cũng tạo thêm nguồn vốn cho ngân hàng.


13

13
Trong các phương thức huy động vốn từ khách hàng của ngân hàng thương

mại, huy động vốn tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn (trên 80%)
trong toàn bộ vốn kinh doanh của ngân hàng. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất
lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này có
xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, trong
điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.

1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường kết quả công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Để đánh giá kết quả công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại ta có
thể sử dụng các chỉ tiêu đo lường sau:
1.2.3.1 Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng tưởng và tính ổn định của nguồn vốn
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về quy mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn.
Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì quy mô vốn huy động
tiền gửi là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau
khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì điều mà ngân hàng cần quan tâm lúc
này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ
là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng
không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và
dòng tiền gửi vào.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động được đo lường như sau:
Tốc độ tăng

trưởng nguồn
vốn huy động

=

X 100

Chỉ tiêu này cho thấy tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động tại ngân
hàng có ổn định hay không. Nếu nguồn vốn tăng trưởng ổn định trong thời gian


14

14

dài sẽ tạo điều kiện cho việc cân đối vốn để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và cho
vay nhằm đạt mục tiêu sinh lời.
Có thể thấy công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn
huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của
ngân hàng, không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh hay cơ
cấu vốn của ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do
mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy
động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay,
đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh
doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch
của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân
hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Cơ cấu từng nguồn vốn huy động được tính bởi:


Tỷ trọng loại vốn i

=

X

100

1.2.3.2 Chi phí huy động vốn
Chi phí huy động vốn là tất cả các khoản chi mà Ngân hàng chi ra để phục
vụ cho hoạt động huy động vốn. Nói cách khác là khoản tiền mà Ngân hàng phải bỏ
ra để có được quyền sử dụng khoản vốn đó. Chi phí huy động càng cao có nghĩa là
lãi suất huy động càng lớn, càng khuyến khích người gửi tiền vào nhưng nếu chi phí
huy động quá cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của Ngân hàng. Các ngân
hàng luôn tìm cách để đạt được mục tiêu huy động càng nhiều vốn với chi phí thấp.
Chính vì thế, việc xem xét chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động và sự biến động
của chi phí này luôn được các Ngân hàng quan tâm, là một việc làm thường xuyên
trong công tác quản trị nguồn vốn huy động.


15

15
Thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể hiện ở

khoản chi phí trả lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản chi phí không
dưới dạng lãi suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động vốn.
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân,
được tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng
nguồn. Chỉ tiêu huy động bình quân là chỉ tiêu phản ánh chi phí huy động vốn trung

bình của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, có nghĩa là để được quyền sử dụng
một đồng vốn huy động thì ngân hàng phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí để trả cho
người sở hữu khoản vốn đó. Trong trường hợp các yếu tố khác biến đổi không đáng
kể, chi phí huy động bình quân càng nhỏ thì hoạt động huy động vốn của ngân hàng
càng có hiệu quả.
Bên cạnh chi phí chính là chi phí trả lãi, trong quá trình huy động vốn còn
phát sinh các chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn
phát hành biểu mẫu, chi phí cơ sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo,… Tuy chi
phí này chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng chi phí huy động nhưng nếu
tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
1.2.3.3 Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Nguồn vốn huy động được phân chia vào tài sản của ngân hàng như tiền mặt
tại quỹ, cho vay, đầu tư,... Danh mục tài sản của ngân hàng cũng được xem dưới
góc độ cơ cấu thời hạn để xác định sự phù hợp với nguồn vốn. Huy động vốn và sử
dụng vốn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cái này quyết định cái kia và ngược lại.
Việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở kế hoạch đầu tư, cho vay và sử dụng vốn
phải căn cứ vào khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động
vốn trên thị trường trong khi không thể đầu tư và cho vay sẽ dẫn đến tình trạng thừa
vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng vượt quá khả năng
huy động thì ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro thiếu vốn. Một ngân hàng muốn tồn tại và
phát triển phải đảm bảo điều hòa mối quan hệ này phù hợp và có hiệu quả.


16

16
Về nguyên tắc, nguồn vốn huy động loại thời hạn nào phải cho vay theo thời

hạn đó. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động cũng như trong điều kiện nền kinh tế
ổn định, ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn có thời hạn ngắn để đầu tư

vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng ở một tỷ lệ nhất định. Nếu lớn hơn nữa
tức là sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn thì đến một thời điểm nào đó, ngân
hàng phải chịu sức ép về khả năng thanh toán vì dư nợ cho vay là một tài sản kém
lỏng và cho vay dài hạn là loại tài sản kém lỏng nhất.
Sự phù hợp giữa nguồn vốn và sử dụng vốn còn thể hiện giữa lãi suất của
từng nhóm tài sản với lãi suất phải trả cho nguồn vốn. Về nguyên tắc, lãi suất trên
tài sản phải cao hơn lãi suất trên nguồn vốn có cùng kỳ hạn và các tài sản có thời
hạn dài hơn phải có lãi suất cao hơn để bù đắp chi phí.
1.2.3.4 Mức độ đa dạng của các hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng, phong phú thì vốn chảy vào ngân
hàng càng nhiều. Vì vậy, độ đa dạng của các hình thức huy động vốn chính là chỉ
tiêu để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động vốn được thể hiện trước hết là ở số lượng
các công cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh
doanh, mỗi ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động vốn khác. Thực tế, số
lượng các công cụ huy động càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu
hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản
lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn
toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt,
mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với ngân
hàng. Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội ngũ cán
bộ công nhân viên có trình độ cao thì ngân hàng nên đa dạng hoá các loại công cụ
huy động vốn.


17

17
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, ngân hàng phải đa dạng cả về


kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng, số dư tiền gửi và cả phân loại nhóm khách hàng.
Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại
tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền cảm thấy hợp lý
và chấp nhận được. Do vậy, để công tác huy động vốn thực sự đạt được hiệu quả
cao, ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên
cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng, phong phú nhằm
thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM và
mỗi loại nguồn vốn huy động lại chịu ảnh hưởng khác nhau bởi các nhân tố đó. Do
vậy, các ngân hàng cần phải nghiên cứu đặc điểm của từng nguồn vốn và các nhân
tố ảnh hưởng để có những biện pháp huy động phù hợp với mục tiêu tăng trưởng
tương ứng của mình.

1.3.1 Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia hoạt động kinh doanh đều xây
dựng riêng cho mình một chiến lược, nó như là kim chỉ nam cho các hoạt động kinh
doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt
động kinh doanh cũng phải xây dựng chiến lược cho riêng mình tùy thuộc vào môi
trường và bản thân nội tại của ngân hàng. Dựa trên việc xác định vị trí hiện tại của
mình trong hệ thống, ngân hàng cần thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội
và thách thức. Đồng thời ngân hàng cũng phải dự đoán thay đổi của môi trường để
xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến lược phát triển quy mô
và chất lượng nguồn vốn nói chung là một bộ phận. Do đó, quy mô, cơ cấu và tốc



18

18

độ tăng trưởng nguồn vốn huy động sẽ thay đổi theo chiến lược kinh doanh từng
thời kỳ và gây ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn.
1.3.1.2 Địa điểm, cơ sở vật chất các điểm giao dịch
Mạng lưới điểm giao dịch cũng như phạm vi hoạt động của ngân hàng có
ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng có trụ sở
chính bề thế, nằm ở vị trí thuận lợi sát địa bàn dân cư hoặc gần trung tâm thương
mại sẽ có nhiều thuận lợi trong công tác huy động vốn. Lẽ tự nhiên, khi dân chúng
có tiền nhàn rỗi họ sẽ tìm đến các chi nhánh ngân hàng gần nhà mình nhất để gửi,
như thế vừa tiết kiệm thời gian đi lại vừa đảm bảo an toàn cho số tiền của họ. Ngày
nay, các ngân hàng đều cố gắng mở thật nhiều điểm giao dịch để thu hút tiền gửi
của người dân cũng như đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh khác. Với một mạng
lưới điểm giao dịch rộng trải khắp cả nước, đến cả những vùng sâu vùng xa, các
ngân hàng sẽ có điều kiện cung cấp các dịch vụ của mình cho người dân một cách
chu đáo và tiện lợi nhất. Tuy nhiên để mở thêm nhiều phòng, điểm giao dịch thì các
ngân hàng cần phải cân nhắc về khả năng vốn, khách hàng mục tiêu, địa điểm hoạt
động và các yếu tố khác để tránh rơi vào tình trạng mất khả năng quản lý, kinh
doanh không hiệu quả.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất cũng là điều kiện quan trọng để đánh giá tình
hình hoạt động của một ngân hàng. Khi đến giao dịch, điều đầu tiên mà khách hàng
có thể đánh giá một ngân hàng như thế nào là thông qua bề ngoài của nó. Nếu ngân
hàng có trụ sở làm việc bề thế, trang thiết bị hiện đại, vị trí thuận lợi cho giao thông
sẽ tạo được nhiều cảm tình với khách hàng và từ đó có khả năng thu hút nhiều
khách hàng đến giao dịch hơn. Bởi vậy, xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất
khang trang cùng với trang thiết bị hiện đại luôn là một mục tiêu ưu tiên hàng đầu
của các ngân hàng thương mại hiện nay.
1.3.1.3 Chính sách khách hàng

Mục đích người gửi tiền và vay tiền là nhờ ngân hàng quản lý, chi trả hộ
trong thanh toán hoặc tiết kiệm để hưởng lãi. Trong điều kiện hiện nay ít có sự khác


19

19

nhau về sản phẩm ngân hàng và giá cả. Khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn ngân
hàng mà theo họ là thuận tiện nhất chứ không đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và
kiếm lời từ lãi suất. Chính vì vậy, các ngân hàng cần phải có một hệ thống chính
sách khách hàng toàn diện để duy trì và mở rộng hoạt động huy động vốn nói riêng
và toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình. Trước hết, ngân hàng cần nắm bắt được
động cơ, thói quen và những mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối
tượng khách hàng gửi tiền thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở
dữ liệu đó, tiến hành phân đoạn khách hàng, lựa chọn khách hàng mục tiêu từ đó
xây dựng chính sách sản phẩm, giá và marketing phù hợp với từng đối tượng khách
hàng. Chính sách khách hàng phải được triển khai thực hiện một cách đồng bộ trong
toàn hệ thống của ngân hàng.
1.3.1.4 Yếu tố con người
Con người luôn là nhân tố quan trọng nhất mang tính quyết định trong bất cứ
một ngành nghề hoạt động nào, đặc biệt là trong hoạt động ngân hàng. Hình ảnh của
một ngân hàng được lưu lại trong tiềm thức của khách hàng hay không trước hết
được thể hiện qua thái độ của nhân viên giao dịch. Nhân viên giao dịch được coi là
bộ mặt của ngân hàng và khách hàng là những người có quyền lựa chọn, vì vậy họ
sẽ chọn nơi làm họ hài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền và sử dụng các dịch vụ khác
do ngân hàng cung cấp.
Tiếp đó là trình độ của cán bộ ngân hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ ngân hàng càng cao, mọi thao tác nghiệp vụ thực hiện nhanh chóng,
chính xác, tác phong chuyên nghiệp sẽ gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng.

Khách hàng luôn mong muốn giao dịch kinh doanh với các ngân hàng có
nhân viên dễ mến, lịch sự và có kiến thức. Trong điều kiện khó có thể duy trì sự
khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay thì chất lượng phục vụ trở thành công
cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng phục vụ, giữ vững
khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới thì đội ngũ cán bộ nhân viên


20

20

ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, tác phong chuyên nghiệp, có thái độ
phục vụ niềm nở, ân cần và chu đáo.
1.3.1.5 Công nghệ ngân hàng
Ngày nay, công nghệ đóng vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng – lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, luôn đòi
hỏi sự đổi mới và nâng cấp để có thể đáp ứng nhu cầu đi lên của xã hội. Công nghệ
ngân hàng ngày càng trở nên phổ biến cũng bởi sự thuận tiện và đa dạng mà nó
mang lại. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được sử dụng
rộng rãi, cùng với hệ thống máy rút tiền tự động, home banking, dịch vụ thẻ tín
dụng, hệ thống thanh toán điện tử,.. dịch vụ ngân hàng đang dần đi vào đời sống xã
hội và tác động không nhỏ tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng hỗ trợ rất lớn đối với các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại, nó đã làm thay đổi căn bản các hoạt động của ngân hàng và
làm cho chúng trở nên dễ dàng hơn. Khi áp dụng các công nghệ hiện đại, ngân hàng
sẽ mở rộng được các dịch vụ cung cấp, giảm được thời gian giao dịch và đảm bảo
an toàn, thuận tiện cho khách hàng. Điều này có tác động đáng kể đến số lượng
cũng như chất lượng của các khoản vốn huy động của ngân hàng, chỗ đứng của
ngân hàng trên thị trường sẽ ngày càng vững vàng hơn.
1.3.1.6 Hình ảnh và uy tín của ngân hàng

Một ngân hàng thương mại với hình ảnh tốt và thương hiệu mạnh sẽ góp
phần đáng kể trong việc thu hút khách hàng đến gửi tiền. Uy tín của một ngân hàng
được gây dựng bởi niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng đó. Thực hiện được
điều này là cả một quá trình dài. Khách hàng bao giờ cũng gửi tiền tại những ngân
hàng có uy tín cao vì đối với họ những ngân hàng này có thể đáp ứng nhu cầu của
mình một cách tốt nhất cùng với sự đảm bảo an toàn cho đồng vốn đầu tư ở mức
cao nhất. Một ngân hàng có uy tín bao giờ cũng thu hút được nhiều khách hàng hơn
những ngân hàng khác cho dù có trả một mức lãi suất thấp hơn. Những ngân hàng


21

21

có uy tín luôn chiếm được lòng tin của khách hàng, đây là tiền đề cho việc họ huy
động được những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian.
Mặt khác khi là khách hàng của một ngân hàng có uy tín, người gửi tiền có
thể được tạo điều kiện giao dịch rộng rãi với các đối tác, vì đối tác hoàn toàn tin
tưởng vào uy tín của ngân hàng đặc biệt trong nghiệp vụ bảo lãnh hay thanh toán
quốc tế… Chính vì vậy, ngân hàng phải không ngừng tạo dựng và nâng cao hình
ảnh của mình trong lòng khách hàng để có thể chiếm ưu thế so với các đối thủ khác
trong công tác huy động vốn nói riêng và trong hoạt động kinh doanh nói chung.

1.3.2 Các nhân tố khách quan
1.3.2.1 Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng, đặc biệt
là trong xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế. Các ngân hàng tư nhân, các ngân hàng
thương mại cổ phần, các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài ngày càng
nhiều và giành giật thị phần huy động bằng nhiều hình thức khác nhau, với tiềm lực

tài chính lớn, kinh nghiệm, trình độ quản lý kinh doanh ngày càng cao. Để có thể
chiến thắng đối thủ, các ngân hàng thương mại cần áp dụng đa dạng hóa các hình
thức huy động với lãi suất hấp dẫn kèm theo các dịch vụ liên quan đến tiền gửi
nhằm giữ chân khách hàng cũ và thu hút các khách hàng mới. Các ngân hàng cần
thay đổi các chính sách liên quan đến hoạt động huy động vốn, mở rộng mạng lưới
giao dịch, nâng cấp công nghệ, nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên,… để có thể tồn
tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay.
1.3.2.2 Pháp luật và chính sách Nhà nước
Hệ thống pháp luật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của bất
kỳ một doanh nghiệp nào cũng như đối với ngân hàng thương mại, bởi thông qua hệ
thống pháp luật, nhà nước định hướng các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoạt
động theo đúng mục tiêu điều hành đất nước của chính phủ. Theo đó, pháp luật quy


22

22

định hành lang vận hành đối với các tổ chức kinh tế. Môi trường pháp luật có tác
động hai mặt đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với hoạt động
của Ngân hàng, đó là Luật các tổ chức tín dụng, các quy định của Ngân hàng Nhà
nước và hệ thống những quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất huy động/cho
vay, tỷ lệ dự trữ, hạn mức tín dụng, các hệ số an toàn... Trong sự ràng buộc về luật
pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi, làm ảnh hưởng tới quy mô,
hiệu quả và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Ví như khi nền kinh tế xảy ra
lạm phát, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, rút bớt tiền ra
khỏi lưu thông bằng cách tăng lãi suất cơ bản hay tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Điều
này làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn khó khăn hơn và ngược lại.
1.3.2.3 Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội
Là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương

mại chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình kinh tế xã hội. Tình hình kinh tế xã hội
được hiểu là các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng và các mô thức tiêu
dùng. Cụ thể là: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, thất nghiệp, chỉ số
lạm phát,.. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập dân cư cao
và ổn định thì nguồn tiền vào ra các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được
dồi dào, cơ hội đầu tư cũng được mở rộng. Ngược lại khi nền kinh tế đang suy thoái
thì khả năng khai thác vốn đưa vào nền kinh tế bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong huy động vốn.
Bên cạnh môi trường kinh tế - xã hội, môi trường chính trị cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Một môi trường chính trị ổn
định, các thể chế vững vàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Ngược lại, các bất ổn trong công tác chính trị hay ngoại giao, các
cuộc bãi công, biểu tình luôn kéo theo tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị
hạn chế bởi sự sụt giảm niềm tin của người dân.
Như vậy đối với các nhân tố khách quan không đo lường trước được, ngân
hàng luôn phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro để có thể đảm bảo hoạt động


23

23

kinh doanh nói chung, hoạt động huy động vốn nói riêng được vận hành một cách
hiệu quả.
1.3.2.4 Yếu tố thuộc về khách hàng
Khách hàng là trung tâm của hoạt động kinh doanh của ngân hàng, do vậy,
đây là nhân tố quan trọng nhất, quyết định đến sự thành công của ngân hàng. Hoạt
động huy động vốn phải đặt trong mối tương tác với khách hàng. Khi đó, ngân hàng
cần xác định được tâm lý, đặc tính văn hóa, thu nhập, thói quen tiêu dùng,.. của
khách hàng. Đối với nhóm khách hàng có thu nhập, có trình độ thường sử dụng các

dịch vụ ngân hàng nhiều hơn các nhóm còn lại, nhờ đó ngân hàng có điều kiện để
thu hút lượng tiền nhàn rỗi và mở rộng việc huy động vốn. Đối với các nhóm khách
hàng khác, ngân hàng muốn huy động cần phải xây dựng được các chính sách huy
động phù hợp với đặc tính của nhóm khách hàng đó.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
2.1 Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Bắc Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội được
thành lập vào ngày 31 tháng 10 năm 1963, tiền thân là Phòng cấp phát 3, sau
chuyển thành chi điếm với tên gọi là Chi điếm 3 - Ngân hàng Kiến Thiết thành phố
Hà Nội thuộc Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam - Bộ tài chính. Khi đó, Chi điếm 3
gồm 25 cán bộ phụ trách cấp phát vốn cho 2 huyện Gia Lâm và Đông Anh.
Năm 1981, Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Xây
dựng khu vực 3 thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Với quyết
định này, nhiệm vụ mới của Chi nhánh là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành


24

24

cho đầu tư và xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách nhà nước cấp
hoặc không đủ vốn tự có, đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện
ngân sách đầu tư.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra quyết định
thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thay thế cho Ngân hàng đầu tư

và xây dựng cũ. Trong thời gian này, ngân hàng có chức năng huy động vốn trung
và dài hạn trong và ngoài nước và nhận vốn từ ngân sách nhà nước cho vay các dự
án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Theo đó, chi nhánh được đổi tên
thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển huyện Gia Lâm thuộc Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội và đến tháng 8 năm 2000 được chuyển sang
trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Sở giao dịch I.
Ngày 15 tháng 10 năm 2002, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
huyện Gia Lâm chính thức tách khỏi Sở Giao dịch I, trở thành Chi nhánh cấp 1 trực
thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và được đổi tên thành Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội. Trải qua quá trình hoạt
động với bao thăng trầm, sau nhiều lần đổi tên và được bổ sung về chức năng,
nhiệm vụ song về bản chất thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Bắc Hà Nội vẫn là một ngân hàng thương mại quốc doanh đóng vai trò phục
vụ cho sự nghiệp đầu tư và phát triển của đất nước.

2.1.2 Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ các phòng ban
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được xây dựng theo mô hình Tổng
công ty Nhà nước, một loại hình Doanh nghiệp đặc biệt chuyên hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và tương lai hướng tới trở thành tập đoàn
tài chính, ngân hàng đa năng phát triển vững mạnh và tăng cường hội nhập quốc tế.
Nằm trong mô hình chung đó, BIDV - Chi nhánh Bắc Hà Nội là một chi nhánh cấp
1 trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


25

25
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội có trụ sở

đóng tại 137A Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, Hà Nội, là đại diện pháp nhân của Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có con dấu, có Bảng tổng kết tài sản, hạch toán
phụ thuộc Hội sở chính. Tính đến 31/12/2010, BIDV - Chi nhánh Bắc Hà Nội có
194 cán bộ (trên 88% số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học), đứng đầu là
Ban giám đốc gồm Giám đốc và 03 Phó Giám đốc.
Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh được chia làm 5 khối, gồm 20 phòng, đơn vị
trực thuộc (chi tiết theo sơ đồ kèm theo) thực hiện các hoạt động kinh doanh chính
gồm: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, thực hiện thanh toán trong nước và quốc tế, hoạt
động ngân quỹ, kinh doanh ngoại tệ,...


×