Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tích lũy tư bản và vận dụng lý luận về tích lũy tư bản vào thực tiễn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.16 KB, 15 trang )

I.

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất

từ trước đến nay và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế,
chính trị, xã hội, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đó là những
thành quả rất đáng tự hào mà chúng ta có được nhờ sự lựa chọn đúng đắn
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) và sự vận dụng sáng tạo các phương pháp, nguyên lí cơ bản của
phát triển kinh tế vào điều kiện Việt Nam. Chúng ta có xuất phát điểm thấp,
tiềm lực kinh tế yếu nên ta đổi mới với thực tế trình độ kĩ thuật thấp và
năng suất lao động chưa cao.
Với mô hình kinh tế hiện đại, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc tăng trưởng kinh tế. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, tạo ra công nghệ
tiên tiến, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh
tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu. Cơ cấu sử dụng
vốn có tác động quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Để giữ được nhịp độ phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và
bền vững, một trong những khó khăn lớn đặt ra là phương thức huy động
vốn. Nguồn vốn có thể được huy động từ tích lũy trong nước và vốn vay
nước ngoài. Bài tiểu luận “Tích lũy tư bản và vận dụng lý luận về tích lũy
tư bản vào thực tiễn Việt Nam” dưới đây sẽ nêu lên những lý luận chung
về tích lũy tư bản và việc vận dụng lý luận đó vào thực tiễn ở nước ta, với
nhận thức sâu sắc về vai trò của việc tích lũy vốn phục vụ phát triển kinh tế
đất nước.

Trang 1


II.



NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN

1. BẢN CHẤT VÀ NGUỒN GỐC CỦA TÍCH LŨY TƯ BẢN
Đặc trưng cơ bản của xã hội loài người là lao động. Điều kiện tồn tại
và phát triển của xã hội loài người chính là sản xuất ra của cải vật chất để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng không ngừng nâng cao.
Bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào nếu xét theo tiến trình đổi mới
không ngừng của nó, thì đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất. Quá trình
này là tất yếu khách quan theo hai hình thức là tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng. Tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất điển
hình của chủ nghĩa tư bản (CNTB) mà hình thái điển hình của CNTB là tái
sản xuất mở rộng. Muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không thể sử
dụng hết giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, mà phải dùng một phần giá
trị thặng dư để tăng quy mô đầu tư so với năm trước. Chính phần giá trị
thặng dư đó được gọi là tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm
tư bản hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ
tư bản. Xét một cách cụ thể, tích luỹ tư bản nhằm tái sản xuất ra tư bản
với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá
thành tư bản được là vì tư bản thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất
của một tư bản mới. Tích luỹ tư bản là là tất yếu khách quan do quy luật
kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất
TBCN quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư
và tư bản tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Như
vậy thực chất của tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư
bản phụ thêm (tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm) để
mở rộng sản xuất. Trong quá trình sản xuất, lãi tiếp tục được bổ sung vào

Trang 2



vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá
khứ lại trở thành phương tiện mạnh mẽ quay trở lại bóc lột chính họ.
Quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá đã biến thành quyền chiếm
đoạt TBCN thông qua quá trình tích luỹ tư bản. Khác với nền sản xuất hàng
hoá giản đơn, trong nền sản xuất TBCN sự trao đổi giữa người lao động và
nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm không một
phần lao động của công nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động
không công đó. Sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu hoàn toàn không
vi phạm quy luật giá trị.
Mục đích của nền sản xuất TBCN là sự lớn lên không ngừng của giá
trị. Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái
sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột
công nhân. Mặt khác do tính cạnh tranh quyết liệt nên các nhà tư bản buộc
phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên. Điều đó chỉ có thể
thực hiện bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Do đó, động cơ thúc đẩy
tích luỹ và tái sản xuất mở rộng TBCN chính là một quy luật kinh tế cơ bản
của CNTB. Trong buổi đầu của sản xuất TBCN, sự ham muốn làm giàu của
các nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối nhưng đến một trình độ phát triển
nhất định, sự tiêu dùng xa phí của các nhà tư bản ngày càng tăng lên theo
sự tích luỹ tư bản. Như vậy không có nghĩa là có mâu thuẫn giữa phần tiêu
dùng của nhà tư bản và phần tích luỹ.

2. NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH QUY MÔ CỦA TÍCH LŨY TƯ
BẢN
Quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư
và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào việc tiêu dùng
cá nhân nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích luỹ sẽ ít đi. Khi

Trang 3


đó quy mô của tích luỹ tư bản của nhà tư bản đó sẽ giảm đi và ngược lại,
việc tiêu dùng ít đi sẽ làm tăng khối lượng tích luỹ, khi đó quy mô tích luỹ
sẽ tăng lên. Tích luỹ của chế độ TBCN nhằm thu được ngày càng nhiều giá
trị thặng dư: sản xuất mở rộng thì chúng càng tăng cường bóc lột công
nhân, thu được thêm nhiều giá trị thặng dư. Khi đó nhà tư bản càng có vốn
mở rộng thêm sản xuất, quy mô bóc lột càng tăng lên. Ngoài tiêu dùng xa
phí của mình, nhà tư bản còn phải đối phó với tình trạng cạnh tranh gay gắt
trong xã hội tư bản nên họ đều phải tăng thêm tích luỹ để mở rộng sản xuất
với quy mô lớn hơn giành nhằm phần thắng cho mình trên thương trường.
Nếu tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó đã cho sẵn, thì khi đó đại
lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư
quyết định. Vì vậy những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là
những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư.
Có 4 nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư:
a) MỨC ĐỘ BÓC LỘT SỨC LAO ĐỘNG
Mức độ bóc lột sức lao động được nâng cao bằng cách cắt xén vào
tiền công của công nhân. Như vậy công nhân không những bị nhà tư bản
chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất
yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan
trọng trong quá trình tích luỹ tư bản.
Một cách khác để nâng cao mức bóc lột nữa là tăng cường độ lao động
và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động sẽ làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị
thặng dư tư bản hoá, tức là làm tăng tích luỹ. Ảnh hưởng này còn thể hiện ở
chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng
cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm
tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công


Trang 4


nhân, tăng thêm máy móc, thiết bị mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí
nguyên liệu).
b) TRÌNH ĐỘ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG XÃ HỘI
Việc nâng cao năng suất lao động sẽ làm tăng thêm giá trị thặng dư,
do đó tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá. Song vấn đề ở
đây là quy mô của tích luỹ không chỉđược quyết định bởi khối lượng giá trị
thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do
khối lượng giá trị thặng dưđó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất
lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất của tư bản, do đó làm
tăng quy mô của tích luỹ. Năng suất lao động cao thì lao động sống sử
dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứđó lại tái hiện
dưới hình thái cóích mới, chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản
càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ càng lớn. Như vậy năng
suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến quy mô của tích luỹ.
c) SỰ CHÊNH LỆCH NGÀY CÀNG TĂNG GIỮA TƯ BẢN TIÊU DÙNG
VÀ TƯ BẢN SỬ DỤNG
Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc
đều hoạt động, tức là máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất,
nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá tri của chúng được chuyển dần
từng phần vào sản phẩm, vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư
bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời
gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu
không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng
thời gian, thì máy móc phục vụ không công đó chẳng khác gì lực lượng tự
nhiên.
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại,

phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự
chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng càng
Trang 5


lớn. Do đó tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ
càng nhiều.
d) QUY MÔ CỦA TƯ BẢN ỨNG TRƯỚC
Với mức bóc lột không đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do số
lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước,
nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được
và quy mô tích luỹ cũng càng lớn. Đối với sự tích luỹ của cả xã hội thì quy
mô của tư bản ứng trước chỉ là nhỏ nhưng rất quan trọng. C. Marx đã nói
rằng tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ
mà thôi.
Tích luỹ dưới chế độ TBCN làm cho của cải của xã hội ngày càng tập
trung vào tay giai cấp tư sản, người công nhân càng bị bóc lột nặng nề,
càng tăng thêm thất nghiệp và nghèo đói, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản ngày thêm sâu sắc hơn. Mặt khác tiêu dùng
của người lao động bị hạn chế trong một phạm vi rất nhỏ hẹp. Một phần
lớn thu nhập quốc dân của xã hội TBCN là dùng vào việc tiêu dùng không
sản xuất và tiêu dùng ăn bám của chúng. Phần thu nhập quốc dân dùng vào
tích luỹ do đó tương đối ít so với khả năng và đòi hỏi của sự phát triển
khách quan của xã hội. Sự chênh lệch đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế sản
xuất thừa cóđiều kiện phát sinh, phá hoại nặng nề và thường xuyên nền sản
xuất của xã hội TBCN. Tuy nhiên thành quả kinh tế mà xã hội tư bản đạt
được lại vô cùng to lớn và cóý nghĩa lịch sử quan trọng trong sự phát triển
của xã hội loài người.
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍCH LŨY – TÍCH TỤ - TẬP TRUNG TƯ
BẢN

Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường là tích tụ
và tập trung tư bản:

Trang 6


Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản
hoá một phần giá trị thặng dư. Đây là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn thành
một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương
pháp là cưỡng bức (các nhà tư bản bị thôn tính do phá sản) và tự nguyện (các
nhà tư bản liên hiệp, tổ chức thành công ty cổ phần).
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ biện chứng với nhau và tác động
thúc đẩy nhau nhưng lại không đồng nhất với nhau. Đây không những là sự
khác nhau về mặt chất mà còn khác nhau về mặt lượng.
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội, nó phản ánh mối quan
hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Tập trung tư bản
không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ phân phối lại và tổ chức lại tư
bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản. Tập trung tư
bản có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
TBCN và quá trình chuyển chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn
cao. Nếu gạt bỏ tính chất TBCN, tích tụ và tập trung là hình thức làm tăng
thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội
trong quá trình sản xuất.
Quá trình tích luỹ tư bản tất yếu dẫn đến sự phân cực: một bên làm cho chủ
nghĩa tư bản phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thông qua sự tích tụ và tập
trung của tư bản, thông qua việc nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản và làm cho
giai cấp tư sản ngày càng giàu có xa hoa; Còn một bên là giai cấp những người
lao động không tránh khỏi sự thất nghiệp và bần cùng. Đó là quy luật chung của
tích luỹ tư bản.

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở dùng bạo lực để tước
đoạt của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Quá trình đó đã
biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu
TBCN dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu,
phân tán thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của
Trang 7


những người sản xuất nhỏ. Nhưng khi phương thức sản xuất TBCN đã hình
thành thì quá trình tích luỹ và cạnh tranh dẫn đến tư bản và sản xuất được
tập trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được xã hội hoá cao hơn, lực lượng
sản xuất được phát triển mạnh hơn. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội của sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa phát
triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này sẽ dẫn đến sự tất yếu thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Đây cũng là xu hướng lịch
sử của tích luỹ tư bản, xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã
hội cao cho sự phủ định đối với chủ nghĩa tư bản.
B. VẬN DỤNG LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM

Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển
kinh tế, nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao,
sản xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ
thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh tế. Nhiều
chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn phát triển đạt tốc độ theo
hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước, tăng cường
nó có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao để hệ số
sử dụng vốn chỉ ở mức 2,5 và mức tăng trưởng phải ít nhất là trên 8% một
năm, như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể tăng
gấp 4-5 lần trong vòng một thế hệ. Việt Nam có thể lựa chọn các tình

huống tăng trưởng tuỳ theo mức tích luỹ trong nước và mức đầu tư trên
GDP cũng như hiệu suất sử dụng vốn. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế cần huy động tối đa không chỉ
nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư mà còn cần phải huy động
các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả các quan hệ bang
giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Chúng ta
sẽ xem xét thực trạng và giải pháp tích lũy vốn ở Việt nam hiện nay.
Trang 8


1. THỰC TRẠNG TÍCH LŨY VỐN CỦA VIỆT NAM
Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, chỉ huy khi mà cuộc sống của
người dân còn vô cùng khó khăn, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích
luỹ vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Sự can thiệp quá sâu vào nền kinh tế của
Nhà nước làm cho các tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết được
khả năng tham gia vào thị trường của mình. Nguồn vốn viện trợ của nước
ngoài lại chứa đựng nhiều yếu tố chính trị nên không được phát huy hết khả
năng vốn có của nó.
Với chính sách mở cửa phát triển kinh tế, đời sống nhân dân đãđược
cải thiện rõ rệt, tổng thu nhập quốc dân tăng nhanh, thị trường hàng hoá
phong phú và sôi động... Tuy nhiên những thành quả đó vẫn còn quá nhỏ
bé, nền kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, kém phát triển. Một trong những
nguyên nhân chính là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển, quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp.
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm
và đầu tư còn thấp, nhiều hộ gia đình và không ít những doanh nghiệp còn
đầu tư chưa có hiệu quả, nguồn vốn vẫn không luân chuyển được từ nơi
thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của Nhà nước tuy đã tăng lên nhưng còn dàn
trải, còn lãng phí, thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn chậm phát triển, lãi
suất tín dụng chưa phù hợp với việc đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung

vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư phát triển. Các hình thức tích tụ và tập trung
vốn chưa tạo ra sức hấp dẫn với người có vốn và hệ số sử dụng vốn trong
nền kinh tế còn thấp. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư còn phân tán,
không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải quyết
với tốc độ nhanh các công trình thiết yếu mang tính chất “xương sống” của
nền kinh tế, vẫn còn nhiều lãng phí và kém hiệu quả. Hệ thống hành chính
nói chung còn lắm thủ tục phiền hà. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng
của thị trường chứng khoán thời gian qua đã cho thấy đây là một kênh huy
động vốn thực sự hấp dẫn và rất đáng kể. Tính đến năm 2005, giá trị thị
Trang 9


trường của chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đã tương đương
6,5% GDP (năm 2004 con số này là 3,9% GDP).
Trong khi nguồn vốn còn hạn chế thì các giải pháp huy động vốn hiệu quả
đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó những nhà quản lý kinh tế cần tiếp
tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp tích tụ và tập trung vốn đạt hiệu quả
cao nhất, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước ở Việt Nam.
2. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍCH LŨY VỐN Ở VIỆT NAM
Mục đích của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa : “ CNXH là làm nhằm
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần văn hoá cho mọi người dân sung
sướng, ấm no”. Trong điều kiện nước ta, từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH
chúng ta không còn cách nào khác là một mặt phải huy động toàn bộ sức
lực của mọi người, mọi ngành mọi cấp để tăng gia sản xuất thúc đẩy sản
xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích luỹ vốn từ nội bộ
nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất
lớn XHCN.
a)GIẢI QUYẾT ĐÚNG ĐẮN MỐI QUAN HỆ TÍCH LŨY – TIÊU DÙNG
Vì mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) là không ngừng tái

sản xuất mở rộng, tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của
người dân lao động mà chúng ta cần phải xác định cho được giữa quỹ tích
luỹ và quỹ tiêu dùng. Tỷ lệ cụ thể giữa tích luỹ và tiêu dùng phụ thuộc vào
các điều kiện kinh tế xã hội trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
xã hội, hiệu quả của kỹ thuật mới sử dụng hợp lý các nguồn vật tư, lao
động và các yếu tố khác nữa.
Tương quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng
đươc các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích luỹ có thể đảm bảo phát
triển sản xuất với tốc độ cao vàổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu
dùng và tích luỹ không đến mức cao nhất. Vởi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu
Trang 10


dùng sắp xếp như thế nào là thích đáng? Tỷ lệ này có phải cố định không
và dựa trên nguyên tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây là vấn đề trung tâm
của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa
xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn xã hội... Việc phân chia
tỷ lệ này không cố định mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế
trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta phải không ngừng khuyến
khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiêm, tích luỹ. Như vậy có thể
nói tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế
mà là thể hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất định.
b) SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN VỐN
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định
rõ từng đối tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý
cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn
toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp
sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ có cổ

phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi năng
lực cũng như khả năng quản lý của họ từđó sẽ nâng cao rất nhiều hiệu quả
sử dụng vốn.
Việc đồng vốn có được sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn phụ
thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngủ cán bộ quản lý
có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải
xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, chú ý đến đội ngũ cán bộ, tạo diều
kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc biệt
trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu vực cũng
như trên thế giới thì việc thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không chồng
chéo có hiệu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn.
Trang 11


c) TĂNG CƯỜNG TÍCH LŨY VỐN TRONG NƯỚC VÀ CÓ BIỆN PHÁP
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu
là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan
trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi
cho đầu tư phát triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu
quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp
bách và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín
dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả tương đối
cao do có thể thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để thực hiện
được ngày càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt ngân hàng cần phải tự
đổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các hình thức tiết kiệm
qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an toàn bí mật và ổn định cho
tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần có biện pháp nâng
cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân. Đặc biệt

là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân
để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện. Chúng ta có thể huy động vốn
cả qua các công ty bảo hiểm, công ty sổ xố kiến thiết, qua sự tài trợ của các
nhà doanh nghiệp, các quỹ từ thiện, quỹ hỗ trợ,... Mặt khác, việc tích tụ và
tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ
những tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản
trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu
tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định về đất và quyền sử dụng đất
kết hợp hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan. Trong thời gian tới
phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn vốn từ tài sản
công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy động
bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của
Trang 12


ngân sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước
ngoài.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn
thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập trung
vốn rất có hiệu quả đang được các nước phát triển áp dụng. Tuy nhiên để
có thể phát triển thị trường chứng khoán trước hết chúng ta phải tiến hành
cổ phần hoá doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước vàđồng
thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại. Chính thị trường
chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị trường chứng
khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi
nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có
vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm
vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có

ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Vì thế
mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là
vốn của các nước phát triển. Để thực hiện được chiến lược này cần phải
thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ của chính phủ trong đó một biện pháp
quan trọng là phải cải thiện môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh
tranh mới tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh
chóng sửa đổi và bổ sung bộ luật đầu tư nước ngoài cho phù hợp với tình
hình mới hiện nay đảm bảo cho quyền lợi của nhà đầu tư cũng như của
chính chúng ta.
III.

KẾT LUẬN
Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước ta đang ở

trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước tới nay. Sự
phát triển của nền kinh cũng tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn cho nền kinh
Trang 13


tế. Vì vậy việc nghiên cứu tích luỹ tư bản và việc vận dụng lí luận đó vào
thực tiễn Việt Nam là rất quan trọng và cần thiết. Quá trình CNH-HĐH đất
nước đạt được thành công trước hết phải có vốn lớn.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư tài chính quốc tế, thị trường vốn
Việt Nam hứa hẹn rất nhiều cơ hội đầu tư do nguồn tích lũy vốn trong dân
cao; trái phiếu, cổ phiếu từ các công ty Nhà nước tham gia tiến trình cổ
phần hóa đang tạo nhiều hàng hóa cho thị trường. Thêm nữa, Việt Nam
cũng là nước có quy mô dân số đông và trẻ với nhu cầu chi tiêu lớn. Điều
này sẽ kích thích sự sôi động của thị trường vốn. Vấn đề mấu chốt ở đây là
phải có những giải pháp thích hợp nào có thể huy động nguồn vốn đó để sử
dụng có hiệu quả nhất.

Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế Việt nam trong một
thế giới mà xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như áp
lực, thách thức đòi hỏi mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp …không chỉ biết
làm giàu cho mình mà còn phải biết làm giàu cho toàn xã hội. Qui luật cạnh
tranh đã buộc bất cứ một nhà doanh nghiệp nào cũng phải không ngừng mở
rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Con đường duy nhất để mở
rộng vốn đầu tư của mình chính là con đường phải tích luỹ ngày càng nhiều
hơn để tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc thu hút ngày càng nhiều vốn
đầu tư từ nước ngoài (FDI , ODA,… ) sẽ có tác động hỗ trợ rất lớn. Đó
chính là con đường dẫn đến sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước, khẳng định tính đúng đắn của chính sách mở cửa, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN, sớm đạt mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trang 14


MỤC LỤC



×