Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Bạch Đằng Giang Phú phân tích chữ Hán nội dung và nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.34 KB, 29 trang )

NHÓM 1
BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
Trương Hán Siêu
1. Tác giả:
Trương Hán Siêu (?-1354), tên tự là Thăng Phủ hoặc Thăng
Am, hiệu Đôn Tẩu, là một vị quan, một danh nhân văn hóa đời Trần, kiệt tác
văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng
giang phú - một áng thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền... Trương Hán Siêu
quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc
Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).
Theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Quốc
Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm, ông mất năm 1354. Trần Quốc
Tuấn mất năm 1300, khi đó hẳn Trương Hán Siêu phải là người trưởng thành,
tức hơn 18 tuổi. Lược truyện các tác gia Việt Nam viết: Trương Hán Siêu “lập
được nhiều công trạng trong hai trận đánh giặc Nguyên; Từ điển văn học ghi:
Trương Hán Siêu “có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống
Nguyên lần thứ hai và thứ ba”. Như vậy, Trương Hán Siêu tham dự cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba khi ông còn trẻ và ông cùng
với Nguyễn Trung Ngạn là những vị quan thời Trần thọ hơn 80 tuổi.
Trương Hán Siêu là nhà chính trị, nhà thơ, nhà sử học danh tiếng, học
thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy chứ không gọi tên húy.
Ông từng làm nhiều chức quan trải suốt 4 đời vua nhà Trần. Trong Đại Việt sử
ký toàn thư, Phan Phu Tiên nhận xét về việc nhà Trần thờ phụng Trương Hán
Siêu và Chu Văn An ở Văn miếu như sau: Bậc danh nho các đời có bài trừ
được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế
là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu
được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa
mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt.
2. Tác phẩm:
Cuối đời nhà Đường trong thời Ngũ Đại, Lưu Cung tiếm ngôi, xưa quốc
hiệu là Hán. Giữa lúc Nam Bắc phân tranh, nước ta chưa có thông thuộc,


Dương Đình Nghệ cầm quyền cai trị trong châu, bị kẻ con nuôi là Kiều Công
Tiễn giết để lên thay chân. Tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền dấy binh đánh
Công Tiễn. Tiễn cầu cứu với Lưu Cung, Cung bèn sai con là Hoằng Thao đem
quân sang cứu. Thao đem chiến thuyền từ sông Bạch Đằng kéo vào. Lúc ấy
Quyền đã giết được Công Tiễn, và đã ngầm cắm những cây gỗ nhọn ở hai bên
1


cửa bể, rồi dụ Hoằng Thao vào bên trong, đến khi nước thuỷ triều rút lui, ông
mới tung quân ra đánh, giết được Hoằng Thao. Đời vua Nhân Tông nhà Trần,
niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 4 (1288), vua Thế Tổ nhà Nguyên sai Ô Mã Nhi
sang xâm lược, kéo binh vào sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương là Trần Quốc
Tuấn cũng trồng cột nhọn ở lòng sông từ trước, rồi chờ lúc thuỷ triều lên thì ra
khiêu chiến rồi giả cách thua chạy, đến lúc thuỷ triều xuống mới tung ra đánh,
phá vỡ được quân địch, bắt sống được Ô Mã Nhi. Trận này vua Nhân Tông và
thái thượng hoàng là Thánh Tông cùng ra cầm quân.
Bạch Đằng Giang phú là tác phẩm xuất sắc của Trương Hán Siêu, đồng
thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí - Trần, một đỉnh
cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng
văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu
nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí
nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Do đó, Bạch Đằng giang phú cũng
thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của việc đề cao vai trò, vị trí của con người
trước lịch sử. Đây là một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa
tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ:
"Giặc tan muôn thủa thái bình,
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao".
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một trong những bài phú
chữ Hán nổi tiếng bậc nhất từ thời Trần còn lại đến nay. Có nhiều vấn đề cần
giải mã tác phẩm xuất sắc này, một trong những vấn đề cốt tử làm nên sức sống

lâu dài của nó có lẽ chính là nỗi lòng của Trương Thăng Phủ với những vấn đề
liên quan đến vận mệnh của vương triều Trần, sâu xa hơn là vận mệnh của nhân
dân, dân tộc, của non sông đất nước Đại Việt.
Bạch Đằng giang phú được viết theo phú cổ thể, nguyên tác viết bằng chữ
Hán. Cấu tứ của tác phẩm theo hình thức đối đáp giữa chủ và khách. Khách là
người yêu cảnh trí thiên nhiên, có thú du ngoạn, tâm hồn khách. Khách là người
yêu cảnh trí thiên nhiên, có thú du ngoạn, tâm hồn khoáng đạt, tâm huyết với
lịch sử dân tộc. Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên
mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm hiểu
lịch sử dân tộc, noi gương của Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời
Hán). Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp, vừa là dân địa
phương, vừa là những người đã từng chứng kiến, từng tham gia chiến trận.
Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cấu, tác giả xây dựng
lên để dễ dàng bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về đất nước, dân tộc.
2.1. Nguyên tác:
白藤江賦
2


 Đoạn I:
客有:
掛汗漫之風帆,拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,暮幽探兮禹穴。
九江五湖,三吳百粵。
人跡所至,靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,縱子長之遠遊。
涉大灘口,溯東潮頭。
抵白藤江,是泛是浮。
接鯨波於無際,蘸繇尾之相繆。

水天一色,風景三秋。
渚获岸蘆,瑟瑟颼颼。
折戟沉江,枯骨盈丘。
慘然不樂,佇立凝眸。
念豪傑之已往,嘆蹤跡之空留。
江邊父老,謂我何求。
或扶黎杖,或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,旌旗旖旎。
貔貅六軍,兵刃蜂起。
雌雄未決,南北對壘。
日月昏兮無光,天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,劉龔之計詭。
自謂投鞭, 可掃南紀。
既而:
皇天助順,凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,終不雪恥。
再造之功,千古稱美。
雖然:
自有宇宙,故有江山。
信天塹之設險,賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,猶大王之賊閒。
英風可想,口碑不刊。
懷古人兮隕涕,臨江流兮厚顏。
行且歌曰:

3


大江兮滾滾,洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:
不在關河之險兮,惟在懿德之莫京。
 Đoạn II:
乃 舉楫兮中流, 縱子長之遠遊。
涉大灘口, 溯東潮頭。
抵白藤江, 是泛是浮。
接鯨波於無際, 蘸繇尾之相繆。
水天一色, 風景三秋。
渚 获岸蘆, 瑟瑟 颼颼。
折戟 沉江, 枯骨盈丘。
慘然不樂, 佇立凝眸。
念豪傑之已往, 嘆 蹤跡之空留。
 Đoạn III:
江邊父老,謂我何求。
或扶黎杖,或棹孤舟。
揖余而言曰:此重興二聖擒烏馬兒之戰地,與昔時吳氏破劉弘操之故洲也
當期: 舳艫千里, 旌旗 旖旎。
貔貅六軍, 兵刃蜂起。
雌雄未決,南北對壘。
日月昏兮無光, 天地凜兮將 毀。
彼: 必烈之勢 強, 劉 龔之計詭。
自謂投鞭,可掃南紀。

 Đoạn IV:
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合 淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
4


自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚 顏。
 Đoạn V:
行且歌曰
大江兮滾滾
洪濤巨浪兮朝宗無盡

仁人兮聞名
匪人兮 俱泯
客從而 賡歌曰
二聖兮並明
就此江兮洗甲兵
胡塵不敢動兮千古昇平
信知不在關河之險兮
惟在懿德之莫京
2.2. Phiên âm:
Bạch Đằng giang phú
 Đoạn I:
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
5


Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,

Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
"Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã".
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:

Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
6


Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:

"Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn".
Khách tòng nhi canh ca viết:
"Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh".
 Đoạn II:
Nãi cử tiếp hề trung lưu, túng Tự Tường chi viễn du.
Thiệp Đại Thiên khẩu, tố đông triều đầu
Để Bạch Đằng giang, thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế, trám điêu vĩ chi tương mâu.
Thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu.
Chữ địch ngạn lô, sắc sắc sưu sưu.
Chiết kích cầm giang, khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc, trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng, thán tung tích chi không lưu
7


 Đoạn III:
Giang biên phụ lão,Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng, Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết: "Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến
địa, Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã".
Đương kỳ:Trục lô thiên lý,Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,Binh nhẫn phong khỉ.

Thư hùng vị quyết,Nam Bắc đối lũy.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,Thiên địa lẫm hề tương hủy.
Bỉ:Tất Liệt chi thế cường, Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên, Khả tảo Nam kỷ
 Đoạn IV:
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
 Đoạn V:
Hành thả ca viết:
Đại giang hề cổn cổn,
hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân dân hề văn danh,
phỉ nhân hề câu dẫn
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
tựu thử giang hề tẩy giáp binh
8



Hồ trần bất cảm động hề,
thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
duy tại ý đức chi mạc kinnh.”
2.3. Bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Văn Nguyên:
 Đoạn I:
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
9


Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
"Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao".
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
10


Rồi vừa đi vừa ca rằng:
"Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!"
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

"Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao."
 Đoạn II:
Bèn giữa dòng chừ buông mái chèo, mặc sức đi chơi xa theo cách Tử Trường
Vượt qua cửa Đại Than, đi ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, nơi đây thì thuyền đông thuyền đi, nơi kia thì thuyền đậu
lại.
Sóng to nhìn không thấy bờ, như đuôi chim điêu chìm dưới nước đan xen vào
nhau
Nước trời một màu, Phong cảnh ba thu
Trên bến sông bờ lau gió thổi rì rào, bờ sậy va vào nhau
Giáo gãy chìm dưới sông, trên gò đất đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, Đứng lặng lờ lâu suy tưởng không quay đầu.
Thương nỗi anh hùng đã qua, tiếc thay cho dấu vết còn đây mà người xưa còn
đâu nữa.
 Đoạn III:
Bên sông bô lão hỏi ý ta tìm gì.
Có kẻ gậy lê chống trước, Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng: "Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao".
Đương khi ấy: Thuyền tàu muôn đội, Tinh kì phấp phới. Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung toan tính dối trá.
Cho rằng tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi
 Đoạn IV:
Tuy nhiên:

Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc trị an.
11


Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Nhớ người xưa chừ lệ chan
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
 Đoạn V:
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
"Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!"
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
"Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao."
3. Chú thích từ:
 Đoạn I:
白藤江 Bạch Đằng giang: tên một con sông ở tỉnh Quảng Ninh.
賦 phú: một thể loại văn học.

Phú sông Bạch Đằng.
客有 hữu khách: khách có kẻ.
掛 quải: treo lên, giương.
汗漫 hãn mạn: phóng túng, chơi vơi.
之 chi: đại từ thay thế.
風 phong: gió.
帆 phàm: buồm, cánh buồm.
拾 thập: nhặt, lướt.
浩蕩 hạo đãng: nơi nước cả mênh mông.
海月 hải nguyệt: bóng mặt trăng in trên nước biển.
Khách có kẻ: giương buồm trong gió chơi vơi, lướt trên mặt biển ngắm
trăng mải miết.
朝 triêu: buổi sáng sớm.
嘎 dát: một loại binh khí cổ, giống mâu nhưng dài hơn, gõ bằng gươm giáo.
舷 huyền: mạn thuyền.
12


兮 hề: từ đệm, thường gặp trong Sở từ hay dịch là chừ.
沅湘 Nguyên Tương: tên hai con sông ở Trung Quốc.
暮 mộ: chiều tối.
幽 u: tối, lần mò.
探 thám: thăm.
禹穴 Vũ Huyệt: tên một cái hang lớn ở tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, phong
cảnh rất đẹp.
 Sáng sớm gõ mạn thuyền chừ Nguyên Tương, chiều tối lần thăm chừ Vũ
Huyệt.
九江 Cửu Giang: tên một con sông ở Kinh Châu Trung Quốc, có 9 nhánh.
五湖 Ngũ Hồ: theo Tương Bột Ngô thì đây là một tên gọi của Thái Hồ, còn
theo Vi Thiều thì Ngũ Hồ gồm có 5 hồ như Tư Hồ, Thái Hồ,...

三吳 Tam Ngô: 3 nước Ngô.
百粵 Bách Việt: từ trỏ chung các bộ tộc ở miền Nam Trung Quốc ngày nay,
vốn thuộc hệ Nam Á, sau bị Trung Quốc thôn tính.
人 nhân: người.
跡 tích: dấu chân.
人跡所至 nhân tích sở chí: những nơi có dấu chân người đặt đến.
靡 mị: chẳng.
不 bất: chẳng, không.
經閱 kinh duyệt: trải qua xem qua.
 Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, nơi có dấu chân người đặt
đến, đâu mà chẳng đi qua.
胸 hung: bụng.
吞 thôn: nuốt.
雲夢 Vân Mộng: tên một đầm lớn ở tỉnh Hồ Nam Trung Quốc.
胸吞雲夢者數百 hung thôn Vân Mộng giả sổ bách: bụng nuốt hàng trăm cái
lớn như đầm Vân Mộng.
而 nhi: đại từ.
四方 tứ phương: bốn phương.
壯志 tráng chí: ý muốn hăm hở.
猶 do: còn.
闕 khuyết: trống rỗng, không có gì.
如也 như dã: hậu tố tính từ trong văn cổ Trung Quốc.
 Bụng nuốt hàng trăm cái lớn như đầm Vân Mộng, hăm hở muốn đi
khắp bốn phương vẫn còn tha thiết.
 Đoạn II:
Nãi 乃 : (trợ từ) bèn
Cử 舉 : năng
Tiếp 楫 : mái chèo phía trước
13



Hề 兮 : chừ, a
Trung lưu 中流 : dòng nước ở giữa
Túng 縱: thả lỏng, mặc sức
Tự Trường 子長 : tên tự của Tư Mã Thiên đời Hán, sau khi bị cung hình
thường đi ngao du các nơi danh thắng như Giang Hoài, Cối kê, Vũ Huyệt… và
đã viết sách Sử Kí : Túng Tử Trường chi viễn du : “mặc sức đi chơi xa theo
cách Tử Trường”.
Chi viễn du 之遠遊 : đi chơi xa
Bèn giữa dòng chừ buông mái chèo, mặc sức đi chơi xa theo cách Tử
Trường
Thiệp 涉: lội qua sông, vượt qua sông
Khẩu 口 : cửa sông, cửa bể
Đại Than khẩu 大灘口: cửa bể Đại Than
Tố 溯: đi ngược dòng nước hoặc đi xuôi dòng nước
ĐôngTriều 東潮: bến sông Đông Triều
Đầu 頭 : bến
Vượt qua cửa Đại Than, đi ngược bến Đông Triều,
Để 抵: tới, đến
Bạch Đằng Giang 白 藤 江:sông Bạch Đằng
Thị 是 : đây, chỗ này
Phiếm 泛 : nổi lên mà di động
Phù 浮 : nổi lên mà đứng yên
thị phiếm thị phù: nơi đây thì đông thuyền đi, nới kia thì đậu thuyền lại.
Đến sông Bạch Đằng, nơi đây thì đông thuyền đi, nơi kia thì đậu thuyền
lại.
Tiếp 接 :chạm tới, đụng tới
Kình 鯨: cá voi  kình ba: sóng to nhìn như hình cá voi nổi trên nước.
Ư於 :ô
Vô 無 : không, không có

Tế 際: bờ cõi  vô tế: nơi xa lắc không nghìn thấy bờ
Trám 蘸: nhúng xuống nước
Điêu vĩ 繇尾: đuôi chim điêu, một loài chim có đuôi giống với hình bành lái
thuyền.
Tương 相: qua lại lẫn nhau, tự xem xét mình
Mâu 繆: đan nhau, giao nhau
 Sóng to nhìn không thấy bờ, như đuôi chim điêu chìm dưới nước đan
xen vào nhau
Thủy 水: nước
Thiên 天 : trời, bầu trời
Nhất 一 : một, duy nhất
Sắc 色 : màu sắc
14


Phong cảnh 風 景 : cảnh vật, phong cảnh.
Tam thu 三 秋: ba tháng mùa thu; tháng thứ 3 mùa thu, tức tháng 9, còn gọi là
tháng thu già; ba năm; đây theo nghĩa thứ 2.
Nước trời một màu, Phong cảnh ba thu
Chử 渚: bến sông
Địch 获 : cây sậy
Ngạn 岸: bờ sông
Lộ 蘆: cây lau.
Sắc sắc 瑟 瑟: từ tượng thanh gió thổi rì rào, đây tả tiếng gió thổi vào bụi lau.
Sưu sưu 颼 颼: từ tượng thanh tiếng mưa rơi lộp bộp, đây tả các cây sậy bị gió
thổi thân va vào nhau.
Trên bến sông bờ lau gió thổi rì rào, bờ sậy va vào nhau
Chiết 折: bẻ, gãy
Kích 戟: một loại binh khí cổ nhọn và dài  triết kích : kích gãy
Trầm 沉: chìm xuống  trầm giang: chìm xuống đáy sông

Giang 江: sông
Khô 枯: khô, không có nước
Cốt 骨: xương
Doanh 盈: đầy
Khâu 丘: cái gò đất
Giáo gãy chìm dưới sông, trên gò đất đầy xương khô.
Thảm Nhiên 慘 然 : buồn rầu, buồn bã
Bất 不 : không
Lạc 樂 : sung sướng, vui sướng
Trữ 佇: đứng lâu
Lập 立: đứng lặng
Ngưng 凝: đọng lại,ngừng lại, không động đậy.
Mâu 眸:con người, đồng tử  trữ lập ngưng mâu: ý nói buồn bã đứng lặng
lờ lâu suy tưởng không quay đầu
Buồn vì cảnh thảm, Đứng lặng lờ lâu suy tưởng không quay đầu.
Niệm 念: luôn nhớ trong lòng
Hào kiệt 豪 傑: kẻ có tài đức xuất chúng. Sách hoài nam tử viết: “có trí hơn
mười người gọi là kiệt, có trí hơn trăm người gọi là hào; có trí hơn ngàn người
gọi là tuấn, có trí hơn vạn người gọi là anh”.
Dĩ vãng 已 往: đã qua đi, thời gian đã qua.
Thán 嘆: than thở
Tung tích 蹤 跡: dấu vết
Không lưu 空 留: lưu lại làm trạnh nhớ đến sự trống rỗng, thán tung tích chi
không lưu : than cho dấu vết còn đây mà người xưa còn đâu nữa.
Thương nỗi anh hùng đã qua, tiếc thay cho dấu vết còn đây mà người
xưa còn đâu nữa
15


 Đoạn III:

江 Giang : sông lớn, sông cái
邊 biên : ranh giới, bên ven, giới hạn, tận cùng
父老 phụ lão: chức sắc ở trong làng xã xưa
謂 Vị: nói, nói với
我 ngã : ta, tôi tao
何 hà: chổ nào, ở đâu, gì nào, tại sao vì sao
求 cầu cầu là tìm đòi hỏi
Vị ngã hà cầu: hỏi ta tìm gì
Bên sông bô lão hỏi ý ta tìm gì
或 Hoặc : hoặc, có thể, có lẽ
扶 phù: dựa vào, chống
黎杖 lê trượng: gậy bằng gỗ cây lê
或 Hoặc : hoặc, có thể, có lẽ
棹 trạo: chèo thuyền
孤 cô: lẻ loi, đơn độc, mồ coi
舟 châu: cái thuyền
Có kẻ gậy lê chống trước, Có người thuyền nhẹ bơi sau.
揖 Ấp : chắp tay vái lạy
余 dư : ta (nhân xưng ngôi thứ nhất) họ Dư
而 nhi: Tôi ta, mày người,lông ở trên má
言 ngôn: nói
曰 viết: nói hỏi đáp
此 Thử: ấy ,bên ấy, thế ,bây giờ...
重興二聖 Trùng Hưng nhị thánh : Hai vị thánh thời Trùng Hưng
擒 cầm: bắt
烏馬兒 Ô Mã Nhi: một vị tướng nhà Nguyên
之 chi: của thuộc về, đối với
戰 地 chiến địa: chổ đất duễn ra chiến tranh
與 Dữ : phe đảng bè lũ
昔時 tích thời: thời xưa

吳氏 Ngô thị : họ Ngô chỉ Ngô Quyền
破 phá: đánh tan
劉弘操 Lưu Hoằng Thao : con vua nước Nam Hán
之 chi: của thuộc về, đối với
故洲 cố châu : bãi cũ
也 dã: trợ từ
Vái ta mà thưa rằng: "Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô
Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở xưa Ngô chúa phá Hoằng Thao".
當期 Đương kỳ:trong khi ấy
舳 Trục : đuôi thuyền
16


艫 lô: mũi thuyền
千 thiên: nghìn, mười năm là một nghìn
里 lý: chỗ ở, nhà xóm phường...
Trục lộ thiên lí: ý nói thuyền bè san sát nối đuôi nhau kéo dài hàng nghìn
ngàn dặm
旌旗 Tinh kỳ : chỉ các loại cờ
旖旎 ỷ nỉ: phấp phới theo chiều gió
貔 貅 Tỳ hưu : tên một loại thú có hình dáng giống như con báo lông màu gio
六 lục: số 6
軍 quân: binh chủng bộ độ
Tì hưu lục binh: sáu loại dã thú làm quân đội
兵 Binh: vũ khí quân đội
刃 nhẫn: phần sắc nhọn của khí giới
蜂 phong: con ong
起 khỉ: nổi dậy
Phong khỉ : nổi dậy như ong vở tổ
Đương khi ấy: Thuyền tàu muôn đội, Tinh kì phấp phới. Hùng hổ sáu

quân, Giáo gươm sáng chói.
雌 Thư : Con mái
雄 hùng: con đực
thư hùng: trống mái
未 vị : họ Vị, chưa, tù một giờ chiều đến 3 giờ chiều gọi là vị
決 quyết: khơi tháo vở đê xử tử
南 Nam: phương nam
北 Bắc: hướng bắc
對壘 đối lũy : đồ lũy nhìn vào nhau
Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối
日 Nhật : mặt trời
月 nguyệt: mặt trăng
昏 hôn: mờ tố
兮 hề: (trợ từ) biểu thị thái độ khen ngợi.khẳng định
無 vô: Không có, chớ đừng
光 quang: ánh sáng
天 地 Thiên địa: trời đất
凜 lẫm : lạnh, oai nghiêm, nghiêm túc
兮 hề : (trợ từ) biểu thị thái độ khen ngợi.khẳng định
將 tương: sẽ có thể, sắp sửa
毀 hủy: phá bỏ, phá hoại
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi.
彼 Bỉ: bên kia,cái kia chỉ riêng sự vật
必 烈 Tất Liệt : Hốt Tất Liệt tức Nguyên Thái Tổ
17


之 chi: : của thuộc về, đối với
勢 thế : xu hướng phát triển của lực
強 cường: mạnh

劉 龔 Lưu Cung : tức Hán Tiền Thiếu Đế (? – 184 TCN) là vị Hoàng đế thứ
ba của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, kế vị Hán Huệ Đế
之 chi:của thuộc về, đối với
計 kế : sự tính toán
詭 quỷ: Xảo trá, xảo nguyệt
Kìa: Tất Liệt thế mạnh, Lưu Cung toan tính dối trá.
自 謂 Tự vị : tự nói tự cho rằng
投 đầu: ném gieo
鞭 tiên: roi ngựa
Đầu tiên: ném roi ngụa
可 Khả : đông ý, chấp nhận, thích nghi...
掃 tảo : quét
南 紀 Nam kỷ: chỉ nước nam
Cho rằng tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi
 Đoạn 4
既而 Ký nhi: thế nhưng
皇 Hoàng: To lớn, vĩ đại
天 thiên: trời
Hoàng thiên: trời cao, trời lớn, tỏ ý kính trọng
助 trợ: Giúp, giúp đỡ
順 thuận: thuận theo, Bé nghe lớn chỉ bảo không dám trái một tí gì gọi là
thuận, noi theo lẽ phải gọi là thuận. Như vua nghĩa tôi trung, cha lành con hiếu,
anh yêu em kính thuận theo ý trời (mượn ý trong sách thượng thư: thuận
thiên giả thắng, nghịch thiên giả bại)
Trợ thuận: giúp đỡ kẻ thuận theo ý trời (mượn ý trong sách thượng thư: dân
ý dã thiên ý dã)
Hoàng thiên trợ thuận: giúp kẻ thuận theo lòng dân
凶 hung: hung ác, dữ tợn, sợ hãi
徒 đồ: Lũ, bọn, nhóm, bè đảng (thường có nghĩa xấu)
披 phi: Vạch ra, phơi bày, Chia rẽ, phân tán, rũ ra, Bên, theo, ven theo, dọc theo

靡 mị.: không, chẳng, Nói dối, lừa phỉnh
Phi mị: từ hình dung cảnh cỏ bị tán loạn trước gió, nghĩa là tan tác
Thế nhưng, trời cũng chiều kẻ thuận lòng dân. Bọn hung ác cũng phải
tan tác
孟德 Mạnh Đức: tên tự của Tào Tháo
赤壁 Xích Bích: tên 1 dãy núi ven sông Dương Tử. Quân Tào Tháo đã bị quân
Chu Du (nước Ngô) dùng mưu đốt cháy hết thuyền bè ở đây
18


之 chi :
師 sư : Quân đội.
Xích Bích chi sư: quân đội ở Xích Bích
談笑 đàm tiếu: cười nói, ở đây có nghĩa là dễ dàng
飛 phi: bay
灰 hôi: Tro, Than, Màu xám tro
Đàm tiếu phi hôi: cười nói mà làm cho kẻ thù (tan tác) như tro bay
Quân đội ở Xích Bích chỉ cười nói (dễ dàng) cũng làm quân Tào Tháo (tan
tác) như tro bay
符堅 Bồ Kiên: là một hoàng đế nước Tiền Tần trong lịch sử Trung Quốc
合淝 Hợp Phì : tên 1 con sông ở huyện An Huy TQ (sông Phì)
之 chi
陣 trận: trận đánh, Trận, cơn, làn, mẻ
須臾 tu du: vụt chốc, chốc lát
送死 tống tử: Chịu chết, nộp mạng
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên chốc lát nộp mạng
至 Chí: đến, tới
今 kim: Ngày nay, hiện nay, thời nay, bây giờ
江 giang: Sông lớn, sông cái
流 lưu: dòng nước, trôi, chảy

Đến nay sông tuy vẫn chảy
終 Chung: Hết, cuối, cuối cùng, kết cục
不 bất: không
雪 tuyết: Trong sạch, cao khiết, rửa
恥 sỉ: Xấu hổ, thẹn, nhục, nhục nhã
(mà) Cuối cùng cũng không rửa được nhục
再造 Tái tạo: tạo lại, xây dựng lại, ý nói trời đất tạ ra cảnh vật còn chiến thắng
Bạch Đằng của nhân dân nhà Trần đã tạo lại vẻ đẹp cho non sông đất nước
thoát khỏi sự chà đạp của quân giặc
之 chi
功 công: công lao, thành tích
Gây dựng lại công lao
千古 Thiên cổ: ngàn xưa
稱美 xưng mỹ: ca ngợi vẻ đẹp
Nghìn xưa ca ngợi
雖然 Tuy nhiên
自 Tự: từ, do, Chỗ khởi đầu
有 hữu: có
宇 vũ: trỏ các chiều không gian gồm tứ phương, thượng hạ
宙 trụ: trỏ thời gian từ trước kia đến sau này
Vũ trụ: trỏ chung trời đất, tinh tú
19


故有 Cố hữu: vốn đã có từ trước
江山 giang san: núi sông, trỏ núi sông Bạch Đằng
Tuy nhiên: từ khi có trời đất, thì núi sông Bạch Đằng đã có từ trước rồi
信 Tín: quả thực là
天 thiên: trời
塹 tạm: tạc ra

之 chi:
設險 thiết hiểm: bày ra nơi hiểm trở
Quả thực là trời đất bày ra nơi hiểm trở
賴 Lại: dựa vào, Cậy nhờ, nương tựa
人傑 nhân kiệt: người tài giỏi, kẻ tài trí hơn người
以 dĩ: Lấy, dùng, làm
奠安 điện an: đặt nền thái bình
Cậy nhờ kẻ tài trí hơn người mà đặt (giữ) nền thái bình
孟津 Mạnh Tân: tên một cái bến ở tỉnh Hà Nam, nay gọi là bến Hà Dương
之 chi
會 hội: tụ hội, gặp, gặp mặt
Mạnh Tân chi hội: cuộc hội quân ở bến Mạnh Tân
鷹 ưng: chim ưng, hình giống đại bàng
揚 dương: tung cánh bay lên
Ưng dương: ý nói uy võ nổi lên một cách mạnh mẽ
箬 nhược: giống như
呂 Lã: trỏ Lã Vọng tức Khương Tử Nha, người đã giúp Chu Vũ Vương diệt
Trụ
 Như hội Mạnh Tân uy võ mạnh mẽ, có vương sư họ Lã
濰水 Duy Thuỷ: tên một con sông ở tỉnh Sơn Đông. Xưa Hàn Tín – tướng của
Lưu Bang nhà hán đã dùng mẹo tháo nước đánh thắng quân Tề ở đây.
之 chi:
戰 chiến: chiến tranh, đánh nhau
國士 quốc sĩ: người có tài nổi tiếng khắp đất nước, do câu sau trong sách Sử
Kí: nhược Hàn Tín giả quốc sĩ vô song
如 như: bằng, giống, như
韓 Hàn: họ Hàn
Trận nào bằng trận Duy Thủy, có quốc sĩ họ Hàn
惟 Duy: chỉ có
此 thử: này, bên này, Ấy, bên ấy, Thế, như vậy, Ấy, bèn, thì

江 giang: sông
之 chi:
大 đại: lớn
捷 tiệp: Chiến thắng, thắng lợi
20


Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng
猶 Do: Bởi, do
大王 đại vương: Thời cổ, tiếng tôn xưng thiên tử hoặc vua chư hầu. Tục gọi
thủ lĩnh quân giặc cướp là "đại vương"
之 chi
賊 tặc: giặc
閒 nhàn: Lúc rảnh rỗi, thời kì không có việc phải làm
Tặc nhàn: thế giặc dễ phá
Bởi đại vương cho rằng thế giặc dễ phá
英風 Anh phong: cốt cách anh hùng
可想 khả tưởng: có thể mường tượng ra được
Người có cốt cách anh hùng người đời ghi nhớ
口 Khẩu: mồm, miệng, cửa
碑 bi: cái bia, đài bia, cột mốc, ca tụng
不 bất: không
刊 san: hao mòn
Tiếng thơm còn mãi; bia miệng không mòn
懷古 Hoài cổ: Tiếc nhớ cái cũ
人 nhân: người
兮 hề:
隕 vẫn: rơi
涕 thế: nước mắt
Nhớ người xưa chừ lệ rơi

臨 Lâm: tới sát, gần kề, ở trên soi xuống, Đối mặt
江流 giang lưu: dòng sông
兮 hề:
厚 hậu: ủ dột
顏 nhan: nét mặt
Ở trên soi xuống dòng sông chừ nét mặt ủ dột
 Đoạn V:
行 Hành: đi
且 thả (liên từ): như vả, vừa…vừa
歌 ca : hát
曰 viết(hệ từ): rằng
Vừa đi vừa hát rằng
大 Đại : to lớn, rộng
江 Giang: sông
兮 hề : vậy, chừ (phụ từ)
滾 滾 cổn cổn: cuồn cuộn
21


洪 hồng : nước to
濤 đào : sóng lớn
巨 cự : lớn
浪 lãng: sóng nhỏ
兮 hề : chừ
朝 宗 triều tông: châu về nguồn, chảy về nguồn (ở đây mượn trong Kinh Thi
“Triều tông vu hải”)
無 vô : không
盡 tận: cuối cùng
Sông lớn chừ nước chảy cuồn cuộn, sóng to, sóng nhỏ chừ chảy về nguồn
vô tận

仁 人 Nhân dân : người có lòng nhân (chỉ 2 vị vua đời Trần và Trần Hưng
Đạo)
兮 hề :chừ
聞名 văn danh: nổi tiếng
匪人 phỉ nhân : kẻ mang lòng gian ác, hành vi bất chính (kẻ xâm lược)
兮 hề : chừ
俱 câu : đều
泯 dẫn: mất đi, bị huỷ diệt
Người có lòng nhân chừ nổi tiếng. Kẻ gian ác chừ đều bị hủy diệt
客 Khách: khách, người ngoài
從 tòng : ung dung
而 nhi : rồi
賡 歌 canh ca : hát tiếp, nối lời hát
曰 viết: rằng
Rồi khách hát tiếp lời rằng
二聖 Nhị thánh : 2 vị thánh (Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương)
兮 hề :chừ
並 明 tịnh minh:đều (lưu đức) sáng
就 tựu : đến, tới
此 thử : này
江 giang : sông
兮 hề :chừ
洗甲兵 tẩy giáp binh: rửa khí giới, ý nói không dùng tới nữa, chiến tranh đã
hết (mượn ý từ câu thơ sau của Đỗ Phủ)
Hai vị thánh chừ lưu đức sáng. Đến sông này chừ rửa binh khí bao lần
胡 Hồ : người Hồ (chỉ quân Nguyên)
塵 trần : bụi bặm, gió bụi
不 bất : không
敢 動 cảm động: nổi lên
22



兮 hề: chừ
千古 thiên cổ: ngàn xưa, lâu dài
昇平 thăng bình: lên cõi thái bình
Bụi Hồ không nổi lên. Chừ thái bình lâu dài
信 知 Tín tri: quả biết rằng
不 bất : không
在 tại : ở
關 河 quan hà : nơi biên ải (địa thế sông Bạch Đằng)
之 chi
險 hiểm : hiểm trở
兮 hề: chừ
惟 duy: chỉ có
在 tại: ở
懿 ý: tốt lành=>懿 德 ý đức : đức tốt
之 chi
莫 京 mạc kinh: không có gì to lớn bằng
Quả biết rằng địa thế ở sông Đạch Đằng vốn hiểm trở. Chừ chỉ có ở đức
tốt là không gì to lớn bằng (quả biết rằng không tại non sông hiểm trở, chỉ
tại đức cao không gì so sánh được)
4. Minh giải văn bản
Bố cục: 4 đoạn
Đoạn 1: Tráng chí và cảm xúc của nhân vật khách trước cảnh sắc trên sông
Bạch Đằng.
Đoạn 2: Các bô lão kể lại các chiến tích trên sông Bạch Đằng
Đoạn 3: Các bô lão suy ngẫm và bình luận về nguyên nhân chiến thắng trên
sông Bạch Đằng.
Đoạn 4: Lời ca của các bô lão và khách
4.1.Nội dung:

Bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu làm theo lối phú cổ thể.
Loại phú có từ trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài
thường được kết bằng thơ.
Phú sông Bạch Đằng là niềm tự hào về truyền thống yêu nước, về những chiến
công lịch sử thông qua những hoài niệm sâu sắc về quá khứ oai hùng. Đồng
thời, nó cũng là niềm tự hào về truyền thống đạo lí nhân nghĩa, về tư tưởng
nhân văn của dân tộc thông qua việc đề cao vai trò, vị trí và đức độ của con
người.
Nhà thơ bộc lộ tư tưởng nhân văn sâu sắc tiến bộ: vinh và nhục, thắng và bại,
tiêu vong và trường tồn,...
23


Niềm tự hào, tự tôn dân tộc của bài văn được tạo ra bởi những hình ảnh nghệ
thuật phóng khoáng, giàu sức gợi kết hợp trong những câu văn vừa hào sảng,
vừa vang vọng vừa đậm chất suy tư.
4.1.1. Đoạn 1: Tráng chí và cảm xúc của nhân vật khách trước cảnh sắc
trên sông Bạch Đằng.
 Hình tượng khách và thú tiêu dao của khách:
- Nghệ thuật liệt kê:
+ Địa danh lịch sử lấy từ trong điển cố Trung Quốc: sông Nguyên, sông Tương,
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
 Không chỉ là những nơi cảnh đẹp mà còn gợi không gian bao la qua đó nói
lên tâm hồn phóng khoáng, yêu thiên nhiên tha thiết của khách.
+ Thời gian luân phiên: tối (chơi trăng), sớm, chiều
 Tác giả “đi qua” chủ yếu bằng tri thức sách vở, trí tưởng tượng.
- Các động từ: Giương, giong, lướt, chơi (mải miết), gõ, lần thăm..  tráng
chí sôi nổi của Khách- con người ưa hoạt động.
- Cách nói khoa trương:
“Nhân tích sở chí,

Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã”
(Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.)
=> Tô đậm cá tính và khát vọng tiêu dao của khách.
- Mục đích dạo chơi thiên nhiên, chiến địa của khách:
+ Thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên.
+ Tìm hiểu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.
 Khách tự họa bức chân dung tinh thần của mình là một người có tính cách
mạnh mẽ, có tráng chí bốn phương, tâm hồn khoáng đạt, một kẻ sĩ nặng lòng ưu
hoài trước thiên nhiên, chiến tích.

 Cuộc dạo chơi sông Bạch Đằng của khách
- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng:
+ Hùng vĩ, hoành tráng: “Bát ngát...một màu”.
+ Trong sáng, nên thơ: “Nước trời...ba thu”.
+ Ảm đạm, hiu hắt, hoang vu do dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết:
“cảnh thảm”.
- Tâm trạng của khách trước những sắc thái đối lập của thiên nhiên:
+ Phấn khởi, tự hào trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà trong
sáng, thơ mộng.
24


+ Buồn thương, nuối tiếc trước vẻ ảm đạm, hiu hắt, hoang vu do thời gian đang
xóa nhòa, làm mờ hết những dấu tích oai hùng của chiến trường xưa: “Buồn
vì ...còn lưu”.

 Kết quả của cảm hứng hoài cổ- một xúc cảm quen thuộc của các nhà thơ xưa
trước những địa danh lịch sử.
4.1.2. Đoạn 2: Các bô lão kể lại các chiến tích trên sông Bạch Đằng
* Vai trò:
- Là người chứng kiến chiến tích lịch sử.
- Là người kể lại các chiến tích hào hùng đó cho khách nghe.
* Thái độ của các bô lão đối với khách: nhiệt tình, hiếu khách và tôn kính
khách.
* Các chiến tích trên sông Bạch đằng qua lời kể của các bô lão: Hai chiến tích
+ Ngô chúa phá Hoằng Thao
+ Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.
- Cảnh xuất quân: bừng bừng khí thế, được dựng lên qua một loạt hình ảnh đối
nhau gợi không khí chiến trận .
+ Thuyền bè muôn đội/ Tinh kì phấp phới.
+ Hùng hổ sáu quân/ Giáo gươm sáng chói.
- Diễn biến: giằng co, quyết liệt
+ Nghệ thuật đối: Được/ thua chửa phân; Chiến lũy Bắc /Nam chống đối
+ Hình ảnh phóng đại: nhật nguyệt- mờ; trời đất- đổi.
=> Nhấn mạnh tính căng thẳng của cuộc chiến. Không chỉ đối đầu về lực lượng
mà còn về cả ý chí của mỗi bên.
- Kết quả: Hung đồ hết lối
+ Việc lựa chọn điển tích điển cố (Trận Xích Bích, trận Hợp Phì):  làm nổi
bật sự thất bại thảm hại của giặc. Đó cũng là thủ pháp so sánh, đặt những trận
thủy chiến Bạch Đằng ngang tầm những trận oanh liệt nhất trong lịch sử Trung
Quốc, tô đậm chiến thắng hào hùng, vang dội của ta và bày tỏ niềm tự hào dân
tộc.
+ Hình ảnh thậm xưng (đến nay sông nước....khôn rửa nổi): nhấn mạnh nỗi
nhục muôn đời của kẻ xâm lược.
* Thái độ, giọng điệu của các bô lão khi kể chuyện: nhiệt huyết, tự hào, mang
cảm hứng của người trong cuộc. Ngôn ngữ súc tích, cô đọng, vừa khái quát,

vừa gợi lại được diễn biến, không khí của các trận đánh rất sinh động
=> Đoạn văn với những hình ảnh tráng lệ, kỳ vĩ, phép đối, so sánh, sử dụng
chọn lọc các điển tích...không chỉ dựng lại trận thủy chiến lớn mà còn bộc lộ
niềm tự hào của các bô lão, cũng là của tác giả và sức mạnh nhân nghĩa của
nhân dân ta.

25


×