Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP NHẰM đẩy MẠNH XUẤT KHẨU cà PHÊ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.26 KB, 37 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Hội
nhập kinh tế quốc tế là thách thức lớn nhưng đồng thời cũng là cơ hội lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
nổ lực hơn nữa, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức để tăng sức canh tranh,
khẳng định vị trí của mình trên thương trường quốc tế, từ đó đẩy manh xuất
khẩu, tăng thu ngoại tệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xuất khẩu là một khâu rất quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một nước. Thực tiển những năm qua cho
thấy nhờ thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặt biệt
là chủ trương hướng mạnh vào xuất khẩu nền kinh tế nước ta đã có những bước
phát triển khá mạnh.
Nhìn vào cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam mấy năm vừa qua, mặt
hàng nông sản giữ một vị trí rất quan trọng, chiếm tới gần 40% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Số mặt hàng nông sản đạt kim ngạch cao là gạo,
cà phê, hạt tiêu, hạt điều, lạc ... Các mặt hàng nông sản xuất khẩu đã phát huy
được lợi thế cạnh tranh, tham gia tích cực vào chương trình chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi ỏ nước ta trong thòi kỳ đổi mới kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu đối vói sự thành công của đất
nước, đặc biệt là đối với ngành cà phê. Trong thời gian thực tập tại Viện nghiên
cứu Thương mại em đã chọn mặt hàng cà phê làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Đề
tài luận văn : “ Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu

cà phê Việt Nam”.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương I: Một số vấn đề liên quan đến xuất khẩu cà phê Việt Namẻ
Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê thế giới và Việt Nam.
Chương III: Giải pháp và một số ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu cà phê Việt Nam.
Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng và do hạn chế về thời


gian nên em chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một vài vấn đề liên quan đến
xuất khẩu, thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê và đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thòi gian tói.

CHƯƠNGI MỘT SỐ VẤN ĐỂ
LIÊN QUAN ĐEN XUẤT KHAU CÀ PHÊ VIỆT NAM
I - LỢI THẾ CỦA MẶT HÀNG CÀ PHÊ XUẤT KHAU VIỆT NAM

Mỗi quốc gia chỉ có những nguồn lực nhất định. Để sản xuất một mặt
hàng này nhiều hơn, nền kinh tế phải từ bỏ một phần sản xuất mặt hàng khác. Để
đạt được hiệu quả kinh tế cao, các nước cần phải thông qua thương mại quốc tế
1


nhằm trao đổi hàng hoá, tận dụng mọi khả năng, ưu thế sẵn có của mình để sản
xuất một hoặc một số mặt hàng có hiệu suất lớn.
1. Lý thuyết về lọi thế so sánh
• Lọi thế tuyệt đối:
Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng lọi ích của thương mại
quốc tế thu được do thực hiện nguyên tắc phân công. Nguyên tắc phân công theo
ông là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi
thế tuyệt đối, thông qua đó cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn
các nước khác.Tức là nước đó sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực. Các
nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn
vốn, tiến bộ công nghệ và truyền thống kinh doanh. Như vậy các quốc gia sẽ tiến
hành chuyên môn hoá việc sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành
trao đổi với các quốc gia khác cả hai bên đều có lợi. Trong thương mại quốc tế,
các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách hiệu quả nhất,
tổng sản phẩm của cả thế giới sẽ gia tăng.
Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của thương

mại quốc tế, đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát
triển. Phần lớn thương mại thế giới, đặt biệt là giữa các nước phát triển không
thể giải thích được bằng lý thuyết tuyệt đối. Chính vì sự hạn chế đó của lợi thế
tuyệt đối mà lợi thế so sánh (lợi thế tương đối ra đời).
• Lại thế so sánh:
Theo nhà kinh tế học David Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp
hơn so với quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia
đó vẫn tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia
thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng
hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá có lợi thế tương
đối và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lọi nhất. Qúa
trình trao đổi hàng hoá cho phép mỗi quốc gia sử dụng hợp lý và có hiệu quả các
nguồn lực của mình, đồng thời mang lại lợi ích cho cả hai bên cũng như làm cho
của cải của thế giới tăng lên.
Tác dụng cơ bản và chủ yếu của lý thuyết về lợi thế so sánh là việc vận
dụng nó để xác định các lợi thế của mỗi quốc gia khi tham gia vào hoạt động
thương mại quốc tế sao cho thu được hiệu quả cao nhất.
2. Lợi thế so sánh của mặt hàng cà phê Việt Nam.
Cà phê của Việt Nam là mặt hàng có thế mạnh, tiềm năng lớn để cạnh
2


tranh trên thị trường khu vực và thị trường thế giới hiện nay và lâu dài nhờ các
lợi thế sau:
• Về điều kiện tự nhiên: Với các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp
cho thấy nước ta có khả năng trồng cây cà phê tại nhiều địa phương trong cả
nước, Việt Nam có nhiều lợi thế để sản xuất và xuất khẩu cà phê: Hương vị tự
nhiên của cà phê Việt Nam thơm ngon.
• Năng suất cao: Năng suất bình quân của thế giới là 5,5 tạ/ha, Châu Á là 7,7
tạ/ha, Việt Nam là 14 - 16 tạ/ha, chi phí sản xuất thấp hơn các nước trồng cà phê

khác trên thế giới dẫn đến giá thành rẻ và chất lượng gốc (quả chưa sơ chế) cà
phê của Việt Nam tốt. Việt Nam có thế mạnh về cà phê chè thơm, ngon.
• Về lao động: Nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ, dẫn đến chi phí sản xuất
thấp hơn rất nhiều so với các nước cũng góp phần làm cho giá thành sản phẩm
cà phê ỏ nước ta thấp hơn sản phẩm cà phê cùng loại trên thế giới. Đó là một lợi
thế đáng kể trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê ở nước ta.
• Về thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu đã có những bước phát triển
nhưng chủ yếu vẫn xuất khẩu qua trang gian... Cà phê Việt Nam đã thâm nhập
được các thị trường có sức mua lớn như thị trường Mỹ, Đức, Pháp, Bỉ, Italia,
Anh ...
Tóm lại: Phát triển cây cà phê là phát huy được lợi thế so sánh của nước ta trong
thương mại quốc tế
3. Lợi thế và khó khăn của Việt Nam trong hoạt động Kỉnh tế đối

ngoạỉỆ
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày nay, muốn phát triển mỗi quốc gia
không thể đóng kín cửa, mà ngược lại phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
thương mại, tham gia vào phân công quốc tế, trao đổi hàng hoá.
Nhưng để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cũng gặp phải
những thách thức. Đó là sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam phải chịu sức ép
cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước về mọi mặt,
do Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới ữong bối cảnh phân công lao động
quốc tế đã được xác lập khá ổn định, thị trường thế giới đã được phân chia nhiều
năm. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, phải canh tranh
vói các tập đoàn lớn có nhiều kinh nghiệm. Việt Nam chưa là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) làm cho thuế xuất nhập khẩu bị đánh cao cũng
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Xuất khẩu là một khâu rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một
3



nước, thực hiện một phần tổng sản phẩm trong nước nhờ bán ra nước ngoài
những sản phẩm có lợi thế, có chất lượng cao. Kết quả xuất khẩu được sử dụng
vào việc trang trải nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì
và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công
nghệ mới, hoà nhập với sự tiến bộ không ngừng của nền kinh tế thế giới.
Đối vói nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước trong khu vực, thực
tiẽn phát triển trong những năm gần đây đã chứng minh rằng nhờ thực thi chính
sách hướng về xuất khẩu đã nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu
trở thành các quốc gia, vùng lãnh thổ công nghiệp mới, có nền kinh tế giàu
mạnh, hiện đại, có khả năng tiến kịp các nước có nền kinh tế phát triển trong
thập kỷ tới. Do vậy, đối với nhiều nước, xuất khẩu trỏ thành mũi nhọn của nền
kinh tế, là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Đối vói nước ta, thực tiễn những năm qua cho thấy nhờ thực hiện chủ trương
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chủ trương hướng manh
vào xuất khẩu, nền ngoại thương có bước phát triển khá mạnh. Kim ngạch xuất
khẩu tăng nhanh, giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân
hàng năm đạt 27% . Kim ngạch xuất khẩu các năm 1996, 1997, 1998 lần lượt là
7,3tỷ, 9,ltỷ và 9,3tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường có sự chuyển dịch
quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài nhiều năm.
Một trong những nguyên nhân thành công của hoạt động xuất khẩu là do
chúng ta biết phân tích, biết chọn ra các nguồn lực, lợi thế so sánh trong điều
kiện cụ thể của nước ta đối với từng ngành hàng, nhóm hàng, mặt hàng và kết
hợp các lọi thế so sánh này trong hoạt động xuất khẩu. Vói những lợi thế về vị trí
địa lý, lao động, tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là chính sách đổi mới đúng
đắn của Đảng và Nhà nước, cho phép nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
Để thực thi chính sách xuất khẩu có hiệu quả trước tiên phải xác định cho
được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên cơ sở phân tích lợi thế của nó là hết

sức quan trọng. Muốn vậy, đối với từng ngành hàng, nhóm hàng, mặt hàng cần
thiết phải nắm vững lý thuyết về lợi thế so sánh đồng thời biết tận dụng nó để
đánh giá và tìm ra những lợi thế cơ bản, đảm bảo xuất khẩu có hiệu quả. nKHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ CÁC NHÂN Tố ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM.

4


1. Khái niệm
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài dưới các hình
thức khác nhau nhằm đạt mục đích lợi nhuận.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh
tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất
khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ
cho sự phát triển kinh tế, là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các nền kinh tế hướng
theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết
công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
2. Vai trò của xuất khẩu nói chung và mặt hàng cà phê nói riêng.
Hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng đóng một vai
trò ưất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Một nước phải có hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ và sôi động đáp ứng
được nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế mới tạo được khả năng phát triển kinh
tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá đất nước. Hoạt động xuất khẩu làm tăng dự trữ ngoại tệ, ổn định cán
cân thanh toán quốc tế.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển, thể hiện ỏ chổ: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội
phát triển thuận lợi, tạo ra khả năng mỏ rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho

sản xuất phát triển và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào
cho sản xuất và nâng cao nguồn lực sản xuất trong nước.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia vào các cuộc cạnh tranh
trên thế giới về chất lượng, giá cả, mặt hàng như cà phê. Cuộc cạnh tranh này
đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với
thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công việc quản trị sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị
trường.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân, là cơ sở để mỏ rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Hoạt động xuất khẩu (như xuất khẩu cà phê) có ảnh hưởng rất lớn đến những
điều kiện kinh doanh chung của một nước. Cà phê nước ta sản xuất ra chủ yếu là
5


để xuất khẩu (chiếm 95% sản lượng). Chính vì vậy, mà các nhà sản xuất cà phê
phải phán đấu nâng cao chất lượng để có khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng
loại trên thế giới.
Tóm lại: Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tói hoạt động xuất khẩu cà phê
3.1.
Thị trường xuất khẩu.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá - tiền
tệ, là nơi hàng hoá thực hiện giá trị được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Thị trường thế giới là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng
hoá - tiền tệ giữa các nước với nhau.
Thị trường thế giói là môi trường hoạt động của kinh tế quốc tế. Các mối
quan hệ kinh tế quốc tế thực chất là quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các

yếu tố sản xuất giữa các nước được thực hiện trên thị trường. Khi thị trường thế
giới phát triển và ổn định, các hoạt động kinh tế quốc tế giữa các nước phát triển
và thuận lợi. Ngược lại thị trường thế giới biến động mạnh làm hạn chế và gây
khó khăn cho hoạt động kinh tế giữa các nước. Trên thực tế, thị trường thế giới
biến động phức tạp. Sự biến động của thị trường thế giới tác động ảnh hưởng lớn
đến các hoạt động kinh tế quốc tế, đến nền kinh tế các nước. Vì vậy, chính sách
thị trường của một nước cần phải năng động, phù hợp với thực tế biến động của
thị trường nhằm phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Thị trường vừa là điều kiện, vừa là phương tiện tiến hành quá trình sản
xuất, đồng thời là noi tập trung và phản hồi mọi quan hệ kinh tế giữa sản xuất và
tiêu dùng. Thị trường và thông qua hoạt động của thị trường mà tác động trực
tiếp đến sản xuất, trao đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy, các
doanh nghiệp muốn tham gia sản xuất mua bán, đặt biệt là xuất khẩu thì phải
nghiên cứu thị trường, tức là nghiên cứu nhu cầu của thị trường về sản phẩm và
sự biến động của sản phẩm, sự biến động của nhu cầu thị trường trong mối quan
hệ với giá, từ đó đưa ra những phương sách tiêu thụ hợp lý nhất nhằm giữ vững
và phát triển thị phần của doanh nghiệp.
* Mức cung và cầu trên thị trường cà phê thế giới:
Hiện nay thị trường cà phê thế giới luôn biến động đặc biệt là lượng cung.
Điều này làm cho tình trạng cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu cà phê trên thế
giới trỏ nên gay gắt, rất bất lọi cho nước ta. Bed vì cà phê của nước ta chất lượng
thường thấp hơn các nước khác dẫn đến tính canh tranh thấp.
6


Theo đánh giá của Bộ Thương mại, hiện nay thị trường cà phê thế giới có
mức cung lớn hơn mức cầu.
* Về chất lượng cà phê: Theo đánh giá của Tổ chức cà phê quốc tế
(ICO). Hương vị tự nhiên của cà phê Việt Nam thơm ngon so vói cà phê cùng
loại của thế giới. Nhưng trong xuất khẩu cà phê Việt Nam thường có chất lượng

thấp, vì trong quá trình thu hoạch và chế biến không đảm bảo đúng kỹ thuật.
Đẩy mạnh xuất khẩu và tăng uy tín của cà phê Việt Nam phải đi đôi với nâng
cao chất lượng, là vấn đề rất quan trọng đối với ngành cà phê Việt Nam.
3.2. Hoạt động marketing xuất khẩu.
Marketing là làm việc vói thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi với
mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người, là một dạng
hoạt động của con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thoả mãn các nhu cầu và
mong muốn thông qua trao đổi.
Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh mà lại
không muốn gắn kinh doanh của mình với thị trường, có như vậy doanh nghiệp
mới hy vọng tổn tại và phát triển được.
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống của đời sống
kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài - thị trường.
Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động marketing là tạo ra khách hàng cho doanh
nghiệp, giống như sản xuất tạo ra sản phẩm. Hoạt động marketing là rất cần thiết
đối vói doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu.
Hoạt động marketing thông qua các chiến lược cụ thể, để nhằm vào khách
hàng - thị trường cụ thể. Nhưng nói chung, chức năng hoạt động marketing của
doanh nghiệp luôn luôn chỉ cho doanh nghiệp biết rõ doanh nghiệp phải làm gì.
Rất nhiều nhà xuất khẩu lần đầu thường ở thế bị động. Nhưng điều tốt hơn
là doanh nghiệp chủ động tìm người mua hàng, xác định một chiến lược
marketing lâu dài, trong đó các biện pháp, phương pháp được xem xét cẩn thận.
Trong công tác xuất khẩu, những công việc quan trọng nhất là bán hàng, thu tiền
và mỏ rộng thị trường.
3ề3ẵ Nghiệp vụ và kỹ thuật đàm phán ký kết thực hiện hợp đổng xuất
khẩu cà phê.
Đàm phán thương mại là một quá trình mặc cả và thuyết phục giữa hai
bên mua - bán về các nội dung có liên quan đến giao dịch mua bán như số lượng,
chất lượng, giá cả sản phẩm, phương thức thanh toán ễ.. nhằm đạt được sự nhất
trí để ký kết hợp đổng thương mại.

7


Trước khi giao dịch đàm phán, các doanh nghiệp ngoại thương phải cố
gắng làm tốt công tác chuẩn bị: Nghiên cứu thị trường, giá cả hàng hoá; chọn thị
trường, chọn khách hàng; xây dựng và phát triển quan hệ vói khách hàng để
chuẩn bị giao dịch xuất khẩu, đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng.
❖ Đàm phán để ký kết hợp đổng bán cà phê Có 3
hình thức phổ biến về đàm phán giao dịch trực tiếp:
- Bằng trao đổi thư từ, điện tín.
- Qua điện thoại.
- Bằng gặp mặt trực tiếp.
1. Đàm phán bằng trao đổi thư từ, điện tín
Là hình thức đàm phán thuận tiện, đỡ tốn kém nhất, thường được sử dụng
rộng rãi và thường xuyên nhất. Có điều kiện suy xét, tính toán, tham khảo ý kiến
người khác. Cùng một lúc có thể giao dịch vói nhiều nơi, gửi thư, gửi điện tín
cho nhiều người. Nội dung giao dịch rộng.
2. Đàm phán bằng điện thoại
Trong giao dịch quốc tế, điện thoại đường dài khá phổ biến. Ưu điểm của
hình thức giao địch này là nhanh, kịp thòi nhưng tốn kém nhiều hơn so với thư
từ.
Trao đổi đàm phán qua điện thoại là hình thức giao dịch miệng, không thể
làm chứng cứ pháp lý như văn bản thư từ. Do đó chỉ dùng điện thoại khi việc
khẩn trương, sợ lỡ thời cơ.
Trước khi giao dịch phải chuẩn bị kỹ nội dung trao đổi cho chính xác, cặn
kẽ, ngắn gọn, dẽ hiểu.
3. Đàm phán bằng giao dịch gặp mặt trực tiếp Là hình thức giao dịch
đối diện nhau trên cùng một bàn đàm phán như các hội nghị đàm phán, các
nhóm chuyên viên đi thăm, khảo sát thị trường nước ngoài, khách mời đàm phán
giao dịch chuẩn bị nội dung và thoả thuận để ký kết hợp đồng ỏ nước ta hay

đoàn ta ra nước ngoài.
So vói các hình thức khác tổ chức đàm phán đi nước ngoài hay đón tiếp
đoàn nước ngoài vào làm việc ở nước ta rất tốn kém. Nhưng hình thức giao dịch
này rất quan trọng, dễ tạo được điều kiện kết thúc đàm phán đi đến ký kết hợp
đồng.
Sau khi đã ký được hợp đồng, dùng thư từ, điện tín để giao dịch tiếp tục
với nhau.

8


❖ Thực hiện hợp đồng xuất khẩu cà phê
Việc thực hiện hợp đồng là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên. Các sơ xuất
khi thi hành hợp đồng sẽ gây thiệt hại về vật chất và tín nhiệm ở thị trường.
Người xuất khẩu phải kịp thời chuẩn bị hàng theo đúng hợp đồng về số
lượng, chất lượng, thời hạn giao hàng, bao bì..., làm các chứng từ cần thiết theo
hợp đồng để gửi hàng, nhận tiền thanh toán đúng lúc và đầy đủ.
Nghĩa vụ và trách nhiệm của người xuất khẩu quy tụ vào 4 khâu quan trọng nhất:
a. Hàng (chuẩn bị giao hàng)
b. Tiền (giục mở L/C, kiểm tra và yêu cầu sửa L/C đúng hợp đồng)
c. Thuê tàu (thuê tàu, lưu cước, đặt khoang tàu)
d. Kết toán (làm đúng và đủ các quyết định để nhận được tiền) m - CÁC HÌNH
THỨC XUẤT KHAU CÀ PHÊ CỦA VỆT NAM

Xuất khẩu là phương thức thâm nhập thị trường phổ biến mà các doanh
nghiệp trên thế giới áp dụng. Trong thực tế có rất nhiều hình thức xuất khẩu
khác nhau, nhưng em chỉ nêu ra 3 hình thức xuất khẩu phổ biến của mặt hàng cà
phê. Đó là các hình thức xuất khẩu cơ bản sau đây:
- Xuất khẩu trực tiếp
- Xuất khẩu uỷ thác

- Xuất khẩu tại chổ
1Ệ Xuất khẩu trực tiếp:
Là việc doanh nghiệp trực tiếp bán hàng ra thị trường nước ngoài, không
thông qua các đơn vị trung gian, Doanh nghiệp trực tiếp ký hợp đồng xuất khẩu,
tổ chức sản xuất giao hàng và thanh toán tiền hàng.
Lợi thế của hình thức này là doanh nghiệp có thể trực tiếp tiếp xúc với các
khách hàng nước ngoài, hiểu được giá cả, sỏ thích, thói quen, tập quán, truyền
thống văn hoá của người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh.
Trở ngại của hình thức này là chi phí vận tải cao, sức cản của các hàng
rào thương mại như thuế nhập khẩu, giấy phép, chính sách của chính phủ nước
sở tại.
2. Xuất khẩu uỷ thác:
Là hình thức các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp nên
nhờ các doanh nghiệp khác xuất khẩu hộ, phù hợp với các doanh nghiệp mới
thâm nhập thị trường nước ngoài.
Hạn chế của hình thức này là bị phụ thuộc vào trung gian, lợi nhuận bị
chia sẻ, doanh nghiệp không nắm được các thông tin chính xác về thị trường như
9


giá cả, sở thích, nhu cầu của khách hàng.
Ưu điểm của phương thức này là người đứng ra xuất khẩu chịu mọi rủi ro
thấp và trách nhiệm ít.
3. Xuất khẩu tại chổ:
Là hình thức xuất khẩu hàng hoá về cơ bản không ra khỏi biên giới của
một nước, là sự chuyển dịch quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá đến tay người
tiêu dùng không phải là quốc tịch Việt Nam. Đó là người nước ngoài làm việc
trong các Đại sứ quán, các đoàn ngoại giao, các tổ chức kinh tế xã hội quốc tế
đóng trên nước sỏ tại.


CHƯƠNG II THựC TRẠNG SẢN
XUAT VÀ XUẤT KHAU CÀ PHÊ THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
I - KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHAU CÀ PHÊ THẾ GIỚI

1. Tình hình sản xuất cà phê thế giới
Cà phê là một loại hàng hoá có giá trị kinh tế cao chiếm một vị trí quan
trọng trong thương mại thế giới với giá trị trao đổi toàn cầu đạt 5,26 tỷ USD năm
2002 và cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhiều nước đang phát
triển. Cà phê là một ngành đã được nhiều quốc gia chọn làm mặt hàng xuất khẩu
chủ lực cho đất nước.
Những nước sản xuất cà phê chủ yếu là Braxin và Côlômbia, chiếm 45%
tổng lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới. Hai nước này cùng với Việt Nam,
Inđônêxia, Costa Rica, Mêhicô, Guatemala, Uganda, Bờ Biển Ngà, E1 Salvado,
Ethiopia và Kenia, 12 nước thường chiếm 80% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên
toàn thế giới. Trong đó, Braxin là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, có năm
chiếm 26% tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica.
Côlômbia đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica toàn cầu, chủ yếu là loại cà
phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatemala, chiếm
khoảng 5% tổng lượng xuất khẩu toàn cầu. Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về
xuất khẩu cà phê Robusta, đứng thứ hai thế giới về loại cà phê này là Inđônêxia.
Đối với các nước đang phát triển, cà phê là một ngành hàng sản xuất quan
trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia, ví dụ như
ở nước ta, hàng năm cà phê cũng mang lại một nguồn thu rất lớn cho ngân sách
nhà nước. Xuất khẩu cà phê chiếm 4 - 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Năm 1998 chúng ta đã xuất khẩu 382.000 tấn cà phê nhân đạt 594 triệu
USD. Mặc khác, sản xuất cà phê thực sự là ngành kinh tế quan trọng trong chiến
10



lược phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta.
Theo Hiệp hội các nước sản xuất cà phê, sản lượng cà phê thế giới vụ
2000/2001 vượt mức kỷ lục 113.728 triệu bao (60kg/bao) tăng 0,4% so với niên
vụ 1999/2000.
Trong khi sản lượng cà phê Arabica toàn cầu cố định ở mức 71.498 triệu
bao niên vụ 1999/2000 thì sản lượng cà phê Robusta trong niên vụ 2000/2001
tăng lên 42.230 triệu bao, tăng hơn 4% so với sản xuất ở niên vụ trước. Việc
tăng sản lượng cà phê Robusta là do sự tăng trưởng mạnh về cà phê ở Châu Á,
đặc biệt là Việt Nam.
Niên vụ 2000/2001, sản lượng cà phê tăng mạnh ở ba nước là Braxin, Việt
Nam và Colombia. Trong đó sản lượng cà phê của Việt Nam tăng kỷ lục 39% so
vói vụ 1999/2000 đạt 15,3 triệu bao, của Colombia tăng 21% lên 11,5 triệu bao
và của Braxin tăng 10,7%, đạt 34,1 triệu bao.
Sản lượng cà phê thế giói vụ 2001/2002 giảm 2% so vói vụ trước, còn
112,4 triêu bao. Trong đó sản lượng cà phê giảm chủ yếu là loại Arabica, giảm
6,6% so vói vụ 2000/2001, còn 66,30 triệu bao, nhưng sản lượng cà phê Robusta
sẽ tiếp tục tăng 5,4%, lên 46,10 triệu bao. Đây sẽ là vụ thứ tư liên tiếp sản lượng
cà phê Robusta thế giới tăng.
Mưòi nước sản xuất cà phê lớn nhất năm 2000
Nước sản xuất cà phê
Đơn vị tính (triệu bao)
Braxin
32,353
Viêt Nam
11,264
Côlômbia
9,336
Mêxicô
6,442
Inđônêxia

6,014
Costa Rica
5,463
An Đô
5,407
Guatemala
5,201
Etiopia
3,505
Uganda
3,097
Tổng sản lượng năm 2000
110,503
Nguồn: (Viện nghiên cứu Thương mại)
2. Xuất khẩu cà phê thế giớiỂ
Cà phê phần lớn sản xuất ra để xuất khẩu, sản lượng cà phê dành để xuất
khẩu chiếm 75 - 80% tổng sản lượng cà phê toàn cầu, nhưng tỷ lệ này khá khác
biệt tại các nước sản xuất, tiêu dùng ữong nước chỉ chiếm khoảng 25
- 30% sản lượng đối với các nước có truyền thống uống cà phê, còn đối với các
nước như Việt Nam ta tỷ lệ đó chỉ khoảng 5%.
11


Sản lượng cà phê tăng mạnh đã đưa xuất khẩu cà phê thế giới vụ
2000/2001 tiếp tục tăng 4% so với mức cao của vụ trước.
Trong ba nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, xuất khẩu cà phê vụ
2000/2001 của Việt Nam tăng mạnh nhất, tăng 36% so với vụ trước, lên 13,68
triệu bao, kế đó là của Braxin tăng 11,5% lên 18,98 triệu bao và của Colombia
tăng 7% lên 9,87 triệu bao. Tuy nhiên, do giá cà phê thế giới giảm mạnh làm
kim ngạch xuất khẩu cà phê các nước đều giảm.

Xuất khẩu cà phê thế giới vẫn duy trì ở mức tăng chậm khoảng 6%/năm.
Ở khu vực Châu Á do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, xuất
khẩu cà phê ở khu vực này trung bình là 10%/năm. Chất lượng cà phê xuất khẩu
sẽ ngày càng được nâng cao. Braxin, Côlômbia, Việt Nam và Inđônêxia vẫn sẽ
là những nước xuất khẩu lớn trên thế giới.
• Về tiêu thụ: theo nhận định gần đây của Tổ chức cà phê quốc tế
(ICO) và các nhà phân tích kinh tế Pháp, thời gian tới tổng cầu có tăng (nhưng
tăng ít) nhất là sau khi ICO quyết đinh dành 2 triệu USD để làm marketing cà
phê ở Nga và Trang Quốc (năm 1998/1999). Mặc dù đây là hai thị trường tiềm
năng song do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng khu vực, khiến thu nhập
giảm ở Đông Á và kết quả sẽ làm giảm cầu khoảng 0,8 triệu bao/năm. Tuy vậy
nhu cầu về cà phê Robusta sẽ tăng lên nhiều hơn so với cà phê Arabica. Dự kiến
nhu cầu cà phê thế giới năm 2010 khoảng 7 triệu tấn.
• Về giá cả: Theo dự báo của Mỹ và ICO, giá cà phê thế giới nhìn
chung sẽ tăng do sự hạn chế cung cà phê của Hiệp hội các nước sản xuất cà phê
thế giới và nhu cầu uống cà phê tăng. Bên canh đó, sự thay đổi của thời tiết như
hạn hán, sương mù cũng ảnh hưởng xấu tới sản lượng và sản xuất cà phê. Gía cà
phê sẽ tăng và ỏ mức bình quân từ 4200 - 4500 USD/tấn đối với cà phê Arabica
và 1800 - 2200 USD/tấn đối với cà phê Robusta.
3Ệ Dự báo tình hình thị trường cà phê thế giớlỀ
Theo dự đoán của công ty phân tích hàng hoá - Commodity Expert sản
lượng vụ cà phê 2002/2003 toàn thế giới đạt 124,03 triệu bao tăng 10,8 triệu bao
so với 111,86 triệu bao vụ 2001/2002. Sự tăng trưởng này quyết định bởi sự tăng
sản lượng của Braxin. Trong khi sản lượng giảm ỏ nước thứ nhì thế giới về cà
phê là Việt Nam, cùng vói việc giảm sản lượng ở Ấn Độ và một số nước Trung
Mỹ ... thì sản lượng cà phê Braxin tăng từ 33 triệu bao vụ 2001/2002 lên 47,5
triệu bao vụ 2002/2003. Với sản lượng từ 45 - 50 triệu bao cà phê (2,7 - 3 triệu
tấn) Braxin sẽ là một nhân tố rất quan trọng đẩy giá cà phê xuống thấp. Đây là
một điểm phải tính đến khi hoạch định mục tiêu xuất khẩu cà phê.
Tình hình thị trường cà phê thế giới cho thấy ngành cà phê Việt Nam cần

có một hướng đi đúng đắn để ra khỏi khó khăn, tiếp tục tổn tại và phát triển.
12


Theo dự đoán của Bộ nông nghiệp Mỹ, sản lượng cà phê thế giới niên vụ
này sẽ đạt mức cao chưa từng thấy là 125,1 triệu bao, tăng gần 12% so với niên
vụ 2001/2002. Dự đoán nguồn cung cà phê thế giới trong niên vụ 2002/2003
cũng sẽ tăng 9% so với niên vụ trước lên 148,9 triệu bao. Nguồn cung cao sẽ tiếp
tục gây áp lực lên thị trường cà phê thế giới.
Dự đoán, sản lượng cà phê của Colombia và Việt Nam niên vụ này đạt
mức tương ứng 11,25 và 10 triệu bao, đều giảm so với mức 12 và 12,25 triệu bao
niên vụ 2001/2002.
Theo dự đoán của các nhà sản xuất Braxin, sản lượng cà phê của nước này
niên vụ 2003/2004 sẽ giảm khoảng 50% so với dự đoán chính thức 45,69 triệu
bao niên vụ này.
Ngoài ra, sản lượng cà phê của Colombia và Việt Nam - các nước sản
xuất lớn thứ hai và ba thế giới cũng sẽ giảm đáng kể trong niên vụ tới, góp phần
nâng đỡ thị trường sau 3 năm liên tục giá tụt giảm mạnh. Theo đó sản lượng cà
phê của Colombia niên vụ 2002/2003 ước đạt 10,3 triệu bao (60 kg/bao), giảm
khá nhiều so với 11,9 triệu bao niên vụ trước. Dự đoán của Tổ chức cà phê quốc
tế (ICO) cho thấy, sản lượng cà phê của Việt Nam - nước sản xuất cà phê
Robusta hàng đầu thế giới niên vụ này cũng sẽ giảm khoảng 32,32% so với
14,77 triệu bao niên vụ 2001/2002. Sự suy yếu của ngành công nghiệp cà phê
thuộc khu vực Châu Phi và Trung Mỹ là nhân tố đẩy giá cà phê thế giới lên các
mức cao trong vài tháng qua.
Theo dự đoán của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO), sản lượng cà phê thế
giới dự đoán tăng trung bình 1,3%/năm trong thời kỳ 2000 - 2010. Tuy vậy nhịp
độ tăng trưởng sẽ khác nhau giữa các nước sản xuất. Ở những nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi, đất đai nhiều, lao động rẻ, tăng sản xuất và có những chính sách
ưu đãi đối với cà phê, dự đoán diện tích và sản lượng sẽ tăng. Những nước này

gồm: Côlômbia, Costa Rica, Inđônêxia ... Sản lượng cà phê ở những nước có tỷ
lệ thuế đánh vào cà phê nặng, năng suất thấp, dự đoán sẽ giảm như ỏ Cotdivoa,
Camởun. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, sản xuất cà phê thế giói năm
2005 là 6,870 triệu tấn và năm 2010 sẽ là 7,21 triệu tấn. n- TÌNH HÌNH SẢN
XUAT VÀ XUẤT KHAU CÀ PHÊ VỆT NAM.

Ở Việt Nam cây cà phê được các nhà truyền đạo công giáo đưa vào trổng
đầu tiên ỏ hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, sau đó lan sang các tỉnh khác. Trải
qua nhiều năm thăng trầm, đến nay cây cà phê đă có mặt gần như khắp các vùng
của đất nước, và trỏ thành một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Cà phê luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cà phê là cây trồng và mặt hàng chế biến xuất khẩu có ưu thế của Việt
Nam. Cà phê Việt Nam có chất lượng khá cao và mùi vị thơm ngon, được người
13


tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Hiện nay, cà phê Việt Nam được xuất
khẩu đi trên 60 nước. Các thị trường của các nước nhập khẩu nhiều cà phê Việt
Nam có Mỹ, các nước EU, trong đó đứng đầu là Đức, Thuỵ Sĩ, Anh, Pháp, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Italia ... Ở châu Á ngoài Nhật Bản hàng năm nhập một khối
lượng lớn, còn có Singapore, Trung Quốc, Philippin, Malaysia và Inđônêsia.
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng canh tranh của cà phê
trên thị trường thế giới là rất quan trọng và liên quan chặt chẽ vói phát triển công
nghệ chế biến. Nhờ cải tiến trang thiết bị chế biến, tỷ lệ hạt đen và gãy giảm
đáng kể.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang cố gắng tập trung đầu tư công nghệ hiện đại
sản xuất các sản phẩm cà phê công nghệ cao. Hiện tại, Việt Nam có một nhà
máy sản xuất cà phê tan, đóng tại Biên Hoà (tỉnh Đồng Nai) với công suất 1000
tán/năm. Trong những năm tói, ngành cà phê sẽ tiếp tục đầu tư công nghệ chế
biến nâng cao chất lượng, giảm giá thành đổng thời đáp ứng thị hiếu tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu.
Cà phê là cây trồng có diện tích lớn, tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng điện tích cây công nghiệp lâu năm. Cà phê được trồng chủ yếu ở
khu vực Tây Nguyên.
Thống kê sơ bộ diện tích trồng cà phê của cả nước có khoảng 550.000 ha,
thì 70% là cà phê dân doanh, tập trung trong các khu vực Tây nguyên: nhiều
nhất là Đắc lắc (260 ngàn ha), Lâm Đổng (140 ngàn ha), Gia Lai (80 ngàn ha) ...
Năm 2000, tổng diện tích gieo trồng cây cà phê đạt 516,7 ngàn ha, gấp trên 4,3
lần so với năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 15,8%.
Hàng năm ỏ Việt Nam có khoảng 700 ngàn tấn cà phê sản xuất, trong đó
có 90% dành cho xuất khẩu.
1. Tình hình sản xuất cà phê Việt Nam.
Với tổng diện tích đạt trên 500.000 ha, và sản lượng 11 triệu bao mỗi
năm, cà phê hiện nay được xếp thứ hai sau gạo trong danh mục hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam. Để đạt được sản lượng cao như vậy, ngành cà phê Việt
Nam mỗi năm thu hút khoảng 300.000 hộ gia đình, vói trên 600.000 lao động,
đặc biệt vào 3 tháng thu hoạch, con số này có thể lên tói 700.000 hoặc
800.0 ngưòi. Như vậy, số lao động của ngành cà phê đã đạt tói 1,83% tổng lao
động trên toàn quốc và 2,93% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp.
Ngoài cà phê Robusta hiện đang chiếm gần hết điện tích và sản lượng ra,
Việt Nam đang thực hiện một chương trình mở rộng diện tích cà phê Arabica,
trong đó có chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đưa một số diện tích cà
phê Robusta sang Arabica.
Trong vòng 20 năm lại đây ngành cà phê Việt Nam đã có những bước
14


phát triển nhanh chóng vượt bậc. Tuy nhiên, sự phát triển đã vượt ra ngoài tầm
kiểm soát của ngành cà phê. Năm 2001 cả nước đã có 561.000 ha cà phê hầu hết
phát triển tốt, cho năng suất cao, với sản lượng đạt tới 847.000 tấn, đưa Việt

Nam lên vị trí thứ hai thế giới về sản xuất cà phê, góp phần đáng kể vào việc
cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường. Diện tích cà phê ỏ Việt Nam bắt đầu
tăng nhanh từ nửa đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến năm 1992 giá cà phê thế
giới tụt xuống ở mức thấp nhất do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung
lượng cà phê tổn kho từ những năm trước do Tổ chức cà phê quốc tế còn áp
dụng chế độ hạn ngạch xuất nhập khẩu. Sau năm 1992 giá cà phê lại hổi phục và
dần dần đạt tới đỉnh cao vào năm 1994, 1995. Lúc này mọi người đổ xô đi mua
vườn, chặt phá rừng để trổng cà phê, dẫn đến sự tăng nhanh sản lượng cà phê
qua từng năm. Điều này không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta và đến hôm
nay chúng ta phải trả cái giá đó quá đắt, với những tổn thất nặng nề.
Hiện nay sản lượng cà phê Việt Nam đã đạt mức kỷ lục 11 triệu bao/năm,
đứng vị trí thứ hai sản xuất cà phê lớn trên thế giới (chỉ sau Brazin) và đã vượt
Côlômbia.
Sản lượng năm 2000 đạt 689,2 nghìn tấn, gấp gần 7,8 lần năm 1990 với
tốc độ tăng bình quân hàng năm 22,5%. Tổng sản lượng niên vụ 2000/2001
khoảng 800.000 tấn cà phê nhân, trong đó hơn 95% là dành cho xuất khẩu.
Niên vụ 2001 sản lượng cà phê toàn tỉnh Đắc Lắc đạt khoảng 450.000 tấn
nhân, cao nhất từ trước đến nay. Nhưng với giá cà phê chỉ đạt (5.000đ/kg) so với
giá thành (8.000đ/kg) Đắc Lắc sẽ bị lỗ trên 1.400 tỉ đổng.
Niên vụ cà phê 2000/2001 là năm đạt sản lượng cao nhất trong 25 năm
phát triển của ngành cà phê Việt Nam.
Nguyên nhân của sự sụt giảm này xuất phát từ việc giá cà phê tiếp tục ở
mức thấp (cà phê Robusta thu mua xuất khẩu chỉ còn ỏ mức 350 - 400 USD/tấh).
Qua nhiều năm theo dõi sản lượng cà phê bình quân đạt từ 1,5 tới 2 tấn/ha tuỳ
theo vùng và độ tuổi của vườn cà phê. Gía thành sản xuất bình quân vào khoảng
8000 - 9000 đổng/kg.
Tại một số địa phương ỏ Tây Nguyên, đã xuất hiện hiện tượng chặt phá
cây cà phê để trồng các loại cây khác được đánh giá là có hiệu quả kinh tế hơn
như hồ tiêu và các loại cây ăn quả.
Sau năm 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một

ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Những năm gần đây nhiều công ty, nông
trường đã xây dựng những xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập
từ Cộng hoà Liên bang Đức, Braxin. Một loạt hơn một chục dây chuyền chế biến
cà phê của hãng Pinhalense - Braxin được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất
hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô
phỏng có cải tiến công nghệ của Braxin.
15


Các cơ sỏ chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây
dựng trong vòng 5,7 năm lại đây đảm bảo chế biến được khoảng 150.000 tấn đến
200.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu. Ngoài ra còn nhiều cơ sở tái chế trang bị
không hoàn chỉnh với nhiều máy lẻ, chế biến cà phê thu mua của dân đã qua sơ
chế nhằm đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu.
Cà phê của dân thu hái về chủ yếu được xử lý phân tán ỏ từng hộ nông
dân qua con đường phơi khô trên sân cả sân xi măng lẫn sân đất. Nhiều nơi
chúng ta dùng máy xay xát nhỏ để xay cà phê quả khô ra cà phê nhân bán cho
những người thu gom cà phê.
Tình hình chế biến như vậy dẫn đến kết quả là sản phẩm chất lượng
không đều. Tuy cà phê của một số công ty, nông trường lớn thường có chất
lượng tốt, mặt hàng đẹp như ỏ Đăklăk có cà phê của các công ty Thắng Lợi,
Phước An, các công ty Việt Đức, Buôn Hổ, Đ'Rao... được khách hàng đánh giá
cao nhưng ngành cà phê Việt Nam vẫn phải đương đầu với những thách thức
mới về mặt công nghệ chế biến. Trong khi đó, yêu cầu về chất lượng cà phê của
khách hàng ngày càng có xu hướng khắt khe hơn đòi hỏi ngành cà phê nước ta
cần phải có chuyển biến lớn về công nghệ chế biến để có thể tổn tại và duy trì vị
trí của mình trên thị trường thế giới.
Hiện nay, sản lượng cà phê Việt Nam vẫn chủ yếu là Robusta với phương
pháp chế biến chủ yếu là chế biến khô, cà phê thu hái về được phơi khô tận dụng
năng lượng mặt trời. Những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch người ta phải

sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi... cũng có một số doanh nghiệp chế
biến theo phương pháp ướt dùng máy đánh nhớt. Một phần nhỏ sản lượng là cà
phê Arabica các doanh nghiệp nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt.
Không ít nơi dùng máy chọn màu Sortex trong khâu phân loại, loại bỏ cà phê hạt
đen, nâu...
2. Thị trường tiêu thụ và giá cả cà phê Việt Nam
• Thị trường tiêu thụ cà phê
Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu đi hơn 60 nước, trong đó thiết lập quan hệ
vói 5 nước đứng đầu về nhập khẩu cà phê và là những bạn hàng lớn tương đối
Ổn định gồm: Hoa Kỳ, Italia, CHLB Đức, Tây Ban Nha và Bỉ. Số nước này
thường mua gần tới 400.000 tấn cà phê nhân mỗi năm, chiếm khoảng 60% tổng
sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường Mỹ nhu cầu mỗi năm khoảng 3,5 tỷ USD, Việt Nam đã xuất
khẩu sang Mỹ từ năm 1994, kim ngạch năm 1999 là 60 triệu USD và xuất khẩu
420 triệu USD sang thị trường chung châu âu năm 1999.
Việt Nam đứng thứ bảy trong các quốc gia bán cà phê cho Mỹ. Cà phê
không nằm trong quy định của Hiệp định mậu dịch vì hàng này chịu thuế suất
16


0% khi nhập vào Mỹ nên tuỳ thuộc rất nhiều vào phẩm chất cà phê và cách tiếp
thị của Việt Nam để kim ngạch có thể tăng trong thời gian tới.
Các nước nhập khẩu nhiều cà phê Việt Nam nhất trong năm 2002 là: Đức,
Bỉ,Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Hà Lan và Philippin.
• Gía cả cà phê:
Chưa khi nào giá cà phê trên thị trường thế giới lại sụt giảm nghiêm trọng
như năm 2002. Năm 2002, giá cà phê Robusta bình quân trên thị trường thế giói
chỉ còn 448 USD/ tấn giảm 765 USD/tấn so với năm 1999.
Gía cà phê giảm liên tục chủ yếu là do cung vượt cầu trong mấy niên vụ
gần đây, đặc biệt là đối với cà phê Robusta.

Mặc dù có sự giảm giá liên tục, nhưng trong những năm gần đây kim
ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn đạt trang bình 400 - 500 triệu USD, đã
đưa cà phê trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ quan trọng. Trong những
năm tói ngành cà phê Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ
500 - 700 triệu USD. Vói mức giá cà phê như năm 2002, ngưòi trổng cà phê bị
thua lỗ nặng. Tuy nhiên, mấy tháng đầu năm 2003 giá cà phê có tăng từ 448
USD/tấn năm 2002 lên 650 - 660 USD/tấn.
Ta có thể thấy sự phát triển quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam qua những
con số sản lượng 10 niên vụ gần đây:
Thực trạng diện tích và sản lượng cà phê Việt Nam trong 10 niên vụ vừa qua
Niên vụ
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
1992/93
140.000
140.400
1993/94
150.000
181.200
1994/95
215.000
211.920
1995/96
295.000
236.280
1996/96
350.000
342.300
1997/98
410.000

413.580
1998/99
460.000
404.206
1999/00
520.000
700.000
2000/01
520.000
900.000
2001/02
561.000
847.000
3. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam
Trước những năm 1990, thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là
sang Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu theo các hiệp định.
Trong giai đoạn 1991 - 1995, khi xuất khẩu sang các nước SNG và Đông
Âu giảm mạnh ,Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu sang các nước khác nhưng
phần lớn là xuất khẩu qua trung gian, chủ yếu là qua mạng lưới tiêu thụ của các
doanh nhân Singapore (khoảng 45%). Từ năm 1995 đến nay, xuất khẩu qua
trung gian giảm dần, đến nay khoảng 70 - 80% kim ngạch xuất khẩu cà phê thu
17


được từ xuất khẩu trực tiếp sang 30 nước.
Thị trường quy gom cà phê trong nước phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường
quốc tế và hoạt động xuất khẩu cà phê. Các công ty sản xuất tiến hành xuất khẩu
trực tiếp hoặc tiêu thụ qua trung gian trong nước, qua các cơ sỏ chế biến. Những
công ty xuất khẩu trực tiếp thường gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc tiêu thụ.
Gía tiêu thụ cao hơn so với giá mua qua trung gian hoặc qua các nhà chế biến.

Những công ty tiêu thụ cà phê qua các công ty xuất khẩu, các thương nhân lớn
hay các cơ sỏ chế biến thường bị động và bất lợi hơn về giá cả.
Nhìn chung, các công ty đầu mối lớn đóng vai trò rất quan trọng trong
kênh xuất khẩu cà phê. Các kênh thu mua nói chung không ổn định, trừ một số
kênh của các doanh nghiệp lớn. Có quá nhiều thương nhân nằm ngoài các kênh
phân phối, nhiều cấp trung gian đầu cơ cà phê làm thị trường rối loạn.
Các hộ trồng cà phê thường có tiềm lực tài chính không lớn, phụ thuộc
vào vốn vay ngắn hạn ngân hàng nên sau mỗi vụ thu hoạch phải bán gấp cà phê
để trả nợ và đầu tư cho vụ sau. Vì vậy họ thường rơi vào thế bị động trong quan
hệ mua bán với các đại lý. Đại lý thu mua qua nhiều cấp cũng làm cho chi phí
tăng lên, làm giá thu mua giảm, làm tăng khó khăn cho người trồng cà phê.
Theo số liệu của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam, vừa qua ta có tới 129
công ty lớn nhỏ tham gia xuất khẩu. Trong đó có 18 doanh nghiệp xuất khẩu từ
10.000 tấn/năm trở lên, 14 doanh nghiệp có kim ngạch từ 10 triệu USD trở lên.
Điển hình là Vinacafe, công ty XNK 219 Đắc Lắc, Inexim Đắc Lắc, Intimex,
công ty XNK Gia Lai, công ty cà phê Phước An, công ty TNHH Đoàn Kết... với
khoảng 700 ngàn tấn cà phê sản xuất hàng năm ở Việt Nam.
Sản lượng cà phê của Việt Nam tăng nhanh trong thập niên 90 đã đưa Việt
Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Cà phê cũng là
một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực và là mặt hàng nông sản đứng thứ hai
(sau gạo). Khoảng 90% sản lượng cà phê của Việt Nam được dùng cho xuất
khẩu. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong giai đoạn 1991- 1995 tăng liên tục
cả về số lượng V
à kim ngạch nhưng từ năm 1995 đến nay, tuy lượng xuất khẩu tiếp tục tăng
nhưng kim ngạch xuất khẩu biến động rất thất thường do sự suy giảm giá cà phê
trên thế giới, làm giảm tỷ trọng của xuất khẩu cà phê trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam.
Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 719.000 tấn, trị giá 322 triệu
USD, Đứng vị trí thứ sáu (sau dầu thô đạt trị giá 3.270 triệu USD; dệt may đạt
2.750 triệu USD; thuỷ sản đạt 2.023 triệu USD; giầy dép đạt 1.867 triệu USD;

gạo đạt 726 triệu USD). Lý do chính là do giá cả trên thị trường thế giới không
ổn định, đặt biệt là thời kỳ đầu năm 2002. Mặt khác, lượng cà phê dự trữ của các
nước còn nhiều đang tung ra bán.
18


Tuy lượng cà phê xuất khẩu đã tăng liên tục, từ 391,6 ngàn tấn trong năm
1997 lên 719 ngàn tấn năm 2002, nhưng giá xuất khẩu giảm mạnh trong giai
đoạn 1999 - 2002 đã làm kim ngạch xuất khẩu giảm đi, chỉ đạt 322 triệu USD
năm 2002 so với mức kỷ lục 594 triệu USD của năm 1998.
Tuy nhiên, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi tích cực.
Trong niên vụ 2001/ 2002, Việt Nam đã xuất khẩu được 59,7 tấn cà phê hoà tan,
trị giá 165.156 USD, đơn giá 2766,44 USD/tấn; 41,766 tấn cà phê rang xay, trị
giá 133.766 USD, đơn giá 3202,74 USD/tấn. Có thể thấy, giá cà phê nhân xuất
khẩu đã qua chế biến tăng lên nhiều lần. Vì vậy, tăng tỷ trọng cà phê chế biến
trong tổng lượng cà phê xuất khẩu là một hướng đi tích cực để nâng cao hiệu quả
sản xuất và xuất khẩu cà phê.
Trong 8 tháng đầu năm 2003 sản lượng xuất khẩu cà phê ướt đạt
449.000tấn, trị giá khoảng 309 triệu USD, so với cùng kỳ năm 2002 bằng 92%
về lượng và tăng 61,8% về giá trị. 8 tháng đầu năm giá xuất khẩu đạt bình quân
688 USD/tấn, tăng 50% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do thiếu vốn,
nhiều doanh nghiệp đã bán cà phê theo phương thức kỳ hạn và tính giá trừ lùi
theo giá thị trường, lượng cà phê thu mua xuất khẩu trong nước chưa tăng, mặt
khác người trổng cà phê tiếp tục gom hàng đợi giá lên. Tuy nhiên, từ tháng 7
năm 2003 giá cà phê giao động, xu hướng có giảm giá. về thị trường xuất khẩu,
tăng mạnh sang thị trường Đức (chiếm 13%), tiếp theo là Hoa Kỳ (chiếm 9%),
Tây Ban Nha và Italia (chiếm khoảng 7%), Pháp, Hàn Quốc, Bỉ, Nhật Bản, Anh.
• Chất lượng
Chất lượng cà phê Việt Nam trong những năm gần đây có những tiến bộ
rõ rệt, nhưng nhìn chung vẫn chưa bắt kịp chất lượng cà phê cùng loại của các

nước. Sự khác biệt trong cách thức đánh giá phân loại cà phê của Việt Nam so
vói các nước làm cho việc mua bán cà phê của các doanh nghiệp Việt Nam được
tiến hành chủ yếu theo những thoả thuận riêng, hạn chế việc cải tiến chất lượng
sản phẩm.
Tuy rằng, TCVN 4193:2001 đã được ban hành song việc mua bán theo
tập quán cũ của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được thay đổi. Bên cạnh
đó, các tiêu chí về chất lượng cà phê do các tập đoàn nước ngoài đưa ra rất khác
nhau, tạo ra nhiều khó khăn trong thẩm định chất lượng cà phê xuất khẩu. Để đạt
tiêu chuẩn xuất khẩu, ngoài việc tuân thủ TCVN 4193:2001, còn phải quan tâm
đến các yêu cầu riêng biệt của các nhà xuất khẩu.
• Số lượng và kim ngạch
Trong vòng 20 năm trỏ lại đây ngành cà phê đã có những bước phát triển
nhanh chóng vượt bậc đưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Nguyên
nhân dẫn đến những thành tựu đó trước hết là nhờ chính sách đổi mới của Nhà
19


nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình
dựa vào sự cần cù lao động của bản thân mình.
Về nguyên nhân khách quan là do giá cà phê trên thị trường thế giới
những năm gần đây diẽn biến theo hướng có lợi cho ngưòi sản xuất, cà phê làm
ra bán được giá cao hơn và thu nhập của người nông dân cũng tăng lên đáng kể.
Sự kích thích của giá cả cũng làm thúc đẩy cà phê của Việt Nam phát triển
nhanh chóng.
Và mặt trái của tác dụng đó là dẫn đến diện tích, sản lượng và xuất khẩu
của cà phê Việt Nam từ 1992/1993 đến 2000/2001 phát triển vượt mục tiêu của
kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cà phê.
Bản kế hoạch đầu tiên về cà phê xây dựng năm 1980 đạt mục tiêu diện
tích trổng cho ngành cà phê Việt Nam chỉ có 180.000 ha với sản lượng
200.000tấn. Sau nhiều lần điều chỉnh con số đó cũng chỉ lên đến 350.000ha đến

450.000 ha.
Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Những con số thống kê điều tra vào năm
2000 cho thấy điện tích cà phê của nước ta đã lên đến 520.000 ha vói sản lượng
900.000 tấn, đưa Việt Nam lên vị trí thứ hai thế giói về sản xuất cà phê sau
Braxin.
Đây là một con số gây bất ngờ cho nhiều ngưòi kể cả trong ngành cà phê
Việt Nam. Nó góp một phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị
trường đẩy giá cà phê xuống mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua,
trong đó ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn thua
lỗ càng nhiều.
Xem xét diẽn biến của tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam qua các
vụ từ năm 1995/96 đến 2000/2001 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về
lượng xuất khẩu cùng vói sự giảm sút nhanh chóng về giá cả.
Niên vụ
Sản lượng xuất khẩu
Đơn giá bình quân
(nghìn tấn)
(USD/MT)
1994/95
212.038
2.633,0
1995/96
221.496
1.815,0
1996/97
336.242
1.198,0
1997/98
395.418
1.521,0

1998/99
404.206
1.373,0
1999/00
653.678
823,0
2000/01
874.676
436,6
2001/2002
837.660
448,0
(Nguồn :Vụ kế hoạch Thống kê Bộ Thương mại,
Các vụ cà phê 1998/99 về trước lượng xuất khẩu tăng hàng năm không
lớn lắm. Nhưng hai vụ 1999/00 và 2000/2001 mỗi vụ tăng thêm 200.000 tấn tức
là tăng khoảng 3,5 triệu bao, và đơn giá xuất khẩu của hai vụ này cũng thấp
20


thảm hại, giá vụ sau chỉ bằng xấp xỉ 60% giá vụ trước. Gía bán FOB cảng Việt
Nam quý m năm 2001 là 380,8 USD/ tấn và quý IV chỉ còn 321 USD/tấn nghĩa
là chỉ bằng gần một nữa giá thành.
Tình hình này đem lại cho người trồng cà phê nhiều khó khăn, nếu kéo
dài thì chắc chắn không chịu nổi. Kết quả tất yếu dẫn đến là nông dân bỏ không
chăm sóc và cũng không thu hái sản phẩm để vườn cây suy thoái dần, thậm chí
còn chặt bỏ cà phê để trổng cây khác.
Trước tình hình đó, từ năm 2000 đến nay Chính phủ Việt Nam đã đưa ra
nhiều biện pháp kể cả biện pháp tài chính huy động ngân sách nhà nước để giúp
đỡ nông dân qua khỏi khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng giá cho nông
dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông

dân vay tiền để chăm sóc vườn cây hoặc trồng cây khác...
4. Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
Hiện nay, ỏ Việt Nam cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị
lớn đứng thứ hai sau gạo. Gía trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Năm 2002, cà phê của Việt Nam đã có mặt tới
64 nước trên thế giới. Cà phê Việt Nam đã thâm nhập được các thị trường có
sức mua cao như thị trường Mỹ, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Philippin, Đức, Pháp, Bỉ,
Italia, Anhễ.. tuy vẫn có xu hướng tập trung ỏ một số thị trường xuất khẩu lớn.
Trong niên vụ 2001/02, 15 nước hàng đầu tổng cộng đã nhập 614.275 tấn
chiếm 86,06% tổng lượng xuất khẩu, trong đó Đức là thị trường xuất khẩu lớn
nhất với 112.739 tấn, thứ hai là Mỹ với 89.288 tấn.
Các nước trong khu vực như Trung Quốc cũng là một khách hàng tiêu
thụ lớn. Ấn Độ và Inđônêxia là hai nước sản xuất cà phê lớn ỏ Châu Á nhưng
hàng năm vẫn nhập khẩu cà phê Việt Nam. Riêng thị trường Nga - một thị
trường có triển vọng tăng tiêu thụ mạnh và Việt Nam đã có quan hệ hợp tác lâu
dài nhưng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường này lại chưa đáng kể.
Một thay đổi đáng kể trong thị trường xuất khẩu là ngoài các nhà buôn,
một số nhà rang xay lớn trên thế giới đã bắt đầu thiết lập quan hệ mua bán trực
tiếp với các nhà sản xuất, kinh doanh của Việt Nam, mỏ ra một triển vọng lớn
trong ngành cà phê Việt Nam.
Dưới đây là 10 nước nhập khẩu cà phê Việt Nam.
10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam

21


STT

Tên nước


Số lương Trị giá (USD) Tỷ phần so với tổng xuất
(tấn)
khẩu (%)
1
Mỹ
138.603
57.847.984
15,83
2
Đức
137.501
59.371.585
15,72
3
Bỉ
134.321
60.054.805
15,36
4
Tây Ban Nha
73.852
31.666.889
8,44
5
Italỉa
62.559
27.796.789
7,15
6
Pháp

45.998
20.147.381
5,26
7
BaLan
38.155
17.171.839
4,36
8
Anh
30.153
13.055.058
3,45
9
Nhât
26.905
13.274.686
3,08
10
Hàn Quốc
26.288
11.310.104
3,01
ịNguồn : Vụ kế hoạch - Thống kê Bộ Thương mại)
• Cơ cấu mặt hàng
Xuất khẩu nông sản năm 2003 dự kiến đạt như sau ; gạo đạt 632 triệu USD;
cà phê đạt 500 triệu USD; cao su đạt 350 triệu USD; hạt tiêu đạt 120 triệu USD;
hạt điều đạt 240 triệu USD; chè đạt 85 triệu USD.
5. Đánh giá lọi thế cà phê Việt Nam - Phân tích SWOT Cà phê là một
trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế cao của Việt Nam

bởi có nhiều lợi thế sau: Diện tích lớn, điều kiện tự nhiên thuận lợi, cho năng
suất cao, giá nhân công lao động cho một ngày làm việc so với các nước trồng
cà phê trong khu vực và thế giới rẽ hơn. Điều kiện canh tác thuận lợi, đang
được hiện đại hoá trong nhiều công đoạn: gieo trồng, thu hoạch, chế biến và
xuất khẩu nên giá thành đang có xu hướng giảm tạo nhiều cơ hội cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
III - Dự BÁO XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VỆT NAM TỚI NÃM 2010 ắ

1. Sản lượng cà phê
Trong giai đoạn dự báo, cùng với xu hướng tăng chậm lại của sản lượng
và tiêu thụ cà phê trên thế giới, Việt Nam sẽ phát triển theo hướng giảm diện
tích cây trồng cà phê Robusta, tăng tỷ trọng cà phê Arabica trong tổng sản
lượng. Mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu sẽ dựa vào triển vọng tăng
chất lượng sản phẩm và thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.
Theo chiến lược phát triển ngành cà phê của Hiệp hội Cà phê và Ca cao
Việt Nam, tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít,
nằm trong khoảng 450.000 - 500.000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê sẽ thay
đổi, trong đó diện tích cà phê Arabica đạt khoảng 100.000 ha, tăng
60.0 ha và diện tích cà phê Robusta giảm 100.000 - 150.000 ha, xuống còn
350.0 - 400.000 ha.
Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ỏ mức 600.000 tấn tương đương 10 triệu
bao, giảm 5 triệu bao so với hiện nay. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có thể được
22


cải thiện đáng kể nhờ tăng tỷ trọng cà phê Arabica ữong tổng sản lượng cà phê
của Việt Nam cũng như tăng cường công nghệ bảo quản, chế biến, nâng cao
lượng cà phê đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Căn cứ vào triển vọng thị trường cà phê thế giới và khả năng tạo nguồn
cung xuất khẩu của Việt Nam, dự báo xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ đạt 700

- 780 ngàn tấn vào năm 2005 và 780 - 860 ngàn tấn vào năm 2010, tăng bình
quân 1,5%/năm trong giai đoạn 2000 - 2005 và 2,0% vào giai đoạn 2005 -2010.
Những năm tới giá cà phê thế giới sẽ tăng lên, dẫn tới giá xuất khẩu của cà phê
Việt Nam cũng tăng theo, đổng thời nhờ những tiến bộ trong công nghệ sản
xuất, chế biến chất lượng cà phê sẽ được nâng lên và triển vọng cải thiện cơ cấu
sản phẩm xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ đạt tốc độ tăng cao hơn,
13,7%/năm và 10,5%/năm trong giai đoạn tương ứng, đưa kim ngạch xuất khẩu
cà phê lên 950 triệu USD vào năm 2005 và 1570 triệu USD vào năm 2010.
2. Mạt hàng và thị trường xuất khẩu trong thời gian tớiỆ
Gía xuất khẩu cà phê đạt bình quân 660 - 665 USD/tấn năm 2003 tăng
79% so với cùng thời gian này năm 2002, đây là tín hiệu đáng mừng cho những
người trổng cà phê Việt Nam. Theo dự báo của Hiệp hội cà phê thế giới niên vụ
2003/2004 sản lượng cà phê sẽ giảm nhưng giá cà phê vẫn cao là cơ hội tốt để
đẩy mạnh xuất khẩu cà phê.
Thị trường lớn xuất khẩu cà phê Việt Nam dự báo sẽ là Hoa Kỳ, Đức,
Anh, Pháp, Hà Lan.
Từ nay đến năm 2010 công ty xuất nhập khẩu và thiết bị dầu khí, là đơn
vị trực thuộc Bộ thương mại đã ký được các hợp đổng xuất khẩu cà phê ổn định
cho Hà Lan mỗi năm xuất khẩu từ 10.000 tấn đến 20.000 tấn.
Thị trường cà phê đang được mở rộng sang EU và Liên Bang Nga cho
chúng ta nhiều điều kiện để xuất khẩu cà phê ra thị trường thế giới.
Tăng cường mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước.

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỂ XUẤT NHAM
ĐẨY MẠNH XUẤT KHAU CÀ PHÊ VIỆT NAM
A/ VỂ PHÍA NGÀNH CÀ PHÊ
I - CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU VÀ CẠNH TRANH VỂ XUẤT KHAU CÀ PHÊ VỆT
NAM

1. Chiến lược về giá cả:

Gía cà phê gần đây có xu hướng tăng, nhưng giá cà phê của Việt Nam vẫn
còn thấp hơn giá cà phê các nước khác. Cần nâng cao chất lượng để cạnh tranh
với cà phê của các nước.
23


2. Chiến lược về chất lượng:
Chất lượng là yếu tố hàng đầu để sản phẩm có thể đứng vững trên thị
trường, đảm bảo sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm. Đối với sản
phẩm cà phê Việt Nam hiện chưa đầu tư đúng mức cho việc tổ chức thực hiện
quá trình tiêu chuẩn hoá mặt hàng cà phê xuất khẩu. Thiết bị chế biến cà phê
phần lớn ỏ trong tình trạng lạc hậu, công nghệ chế biến ướt cà phê còn rất hạn
chế, một phần do không có khả năng đầu tư. Hơn nữa công nghệ chế biến đòi
hỏi phải có nguồn nước sạch lớn và chi phí cao cho xử lý nước thải, hiện vẫn
đang là khó khăn lớn cho các vùng trồng cà phê.
Chất lượng cà phê còn thấp, dẫn đến mức chênh lệch về giá cao giữa cà
phê của Việt Nam với mức giá cà phê thế giới. Việc đưa tiêu chuẩn nhà nước về
yêu cầu kỹ thuật đối với cà phê nhân xuất khẩu (TCVN 4293 : 2001) còn chưa
được chuẩn bị tốt từ khâu phổ biến tiêu chuẩn đến mọi cơ sỏ sản xuất kinh doanh
đến việc tổ chức thực hiện.
Cần bổ sung các điều khoản về việc bắt buộc thực hiện tiêu chuẩn chất
lượng cho cà phê xuất khẩu. Tăng cường quản lý chất lượng cà phê xuất khẩu,
nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản đến
khâu chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của
thế giới. Kết hợp tuyên truyền hướng dẫn và kiểm tra việc sử dụng các loại hoá
chất trong quá trình trổng trọt và chế biến.
Việc mở rộng diện tích cà phê Arabica theo chương trình sử dụng vốn vay
của cơ quan phát triển Pháp chưa đạt kết quả như mong muốn. Vấn đề chế biến
cà phê Arabica còn chưa được quan tâm đúng mức, kể cả ỏ khu vực quốc doanh,
cũng như tồn tại nhiều vấn đề về công nghệ, thiết bị và bảo vệ môi trường.

Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam cũng cần tích cực chuẩn bị cho việc áp
dụng tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu đối với cà phê xuất khẩu theo quyết định
của Uỷ ban chất lượng cà phê ICO.
3Ệ Chiến lược về quan hệ và mở rộng thị trường tín nhiệm.
Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, nâng cao kỹ thuật và văn
hoá trong hoạt động thương mại. Tiến hành các chương trình xúc tiến có trọng
điểm. Đẩy mạnh liên kết xúc tiến thương mại giữa các địa phương thông qua các
Hiệp hội ngành hàng, giữ quan hệ tốt với thị trường đã có quan hệ, mở rộng thị
trường xuất khẩu mới, nâng cao hoạt động và cũng cố thị trưòng Hoa Kỳ. Quan
trọng là giữ khách hàng và thị trường “ khách hàng là thượng đế
Trong chiến lược xây dựng các mặt hàng xuất khẩu từ nay đến năm 2010
Đảng và Nhà nước ta xác định cây cà phê là một mặt hàng quan trọng cần có
nhiều biện pháp để mở rộng thị trường xuất khẩu. Bộ Thương mại xác định cần
tuyên truyền quảng bá để các thị trường lớn như Mỹ, Anh, Pháp... nhập khẩu
24


nhiều cà phê Việt Nam.
Mặt hàng cà phê của đơn vị nào chiếm lĩnh được thị trường cần đăng ký
ngay thương hiệu, mẫu mã, nhãn mác để người tiêu dùng biết và mua cà phê
Việt Nam. Một vấn đề hết sức lưu ý là các doanh nghiệp phải thường xuyên cải
tiến bao bì đóng gói và chế biến sâu để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Xúc
tiến khôi phục các thương hiệu đã được thị trường tín nhiệm như cà phê TRUNG
NGUYÊN.
4. Dịch vụ xuất khẩu cà phê:
Tổ chức lại hệ thống mua gom cà phê xuất khẩu trên cơ sở bảo đảm quyền
lọi cho người xuất khẩu cũng như người trổng cà phê. Thành lập chợ thu mua cà
phê của nông dân và sàn giao địch cà phê để các nhà xuất khẩu giao dịch vói
khách hàng nước ngoài.
Hình hành Trung tâm giao dịch kỳ hạn cho mặt hàng cà phê, phát triển

các hình thức quảng cáo, chào bán cà phê qua Internet theo dự án “Hỗ trợ kỹ
thuật xây dựng mạng thông tin hàng hoá” dành cho các nước đang phát triển của
Trang tâm thương mại quốc tế.
Xây dựng quĩ bảo hiểm cà phê xuất khẩu do Hiệp hội ngành hàng phụ
trách.
Hình thành Quỹ bình ổn giá cà phê nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh
doanh cà phê trong những thời điểm bất lợi của thị trường thế giói.
5. Chiến lược đầu tư kỹ thuật công nghệ sản xuất chế biến sâu
Tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến, xây dựng kế hoạch dài
hạn trong công nghiệp chế biến cà phê, triển khai đầu tư công nghệ chế biến ướt
đến tất cả các vùng trổng cà phê trọng yếu
Tăng cường dây chuyền công nghệ chế biến các loại cà phê thành phẩm,
tăng tỷ lệ cà phê chế biến trong tổng lượng xuất khẩu; liên doanh, liên kết với
các đối tác đầu tư nước ngoài để thu hút đầu tư cho phát triển công nghệ chế biến
cà phê.
6Ệ Thương hiệu cà phêề
Thương hiệu là uy tín và sức mạnh của doanh nghiệp. Chúng ta đang sống
trong nền kinh tế thị trường và đang tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta phải làm gì ngay bây giờ và sau này để từng bước duy trì và xây dựng
thêm thương hiệu cho hàng hoá Việt Nam nói chung và mặt hàng cà phê nói
riêng ngày càng có uy tín không chỉ ỏ trong nước mà còn ỏ cả nước ngoài để
nâng cao khả năng canh tranh trên thị trường quốc tế. Ẩn chứa trong thương hiệu
là công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng quảng bá ... của doanh
nghiệp
Thương hiệu là một tên gọi nhưng không phải là một tên gọi bình thường
25


×