Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú cho HS trong giờ học ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 46 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THPT Nguyễn Trung Trực

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
An Giang, ngày 20 tháng 04 năm 20016

BÁO CÁO
Giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu
khoa học sư phạm ứng dụng
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên:

Cao Thị Thu Hồng

Nam, nữ: Nữ

- Ngày tháng năm sinh: 16/02/1982
- Nơi thường trú: Khóm III, Đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Thị trấn Tri Tôn,
Tri Tôn, An Giang.
- Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trung Trực, Tri Tôn, AG
- Chức vụ hiện nay: giáo viên
- Lĩnh vực công tác: giảng dạy môn Ngữ Văn
II. Tên sáng kiến:
Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn.
III. Lĩnh vực:
Giải pháp kỹ thuật – Biện pháp tạo hứng thú cho học sing trong dạy học Ngữ
văn.
IV- Mục đích yêu cầu của sáng kiến:


1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục, hiệu quả trong việc gây hứng thú học tập cho
học sinh trong giờ dạy học Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói
chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người học nếu người dạy
tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học. Người học văn cảm thụ được cái hay, cái
đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu... khi có được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm
1


xúc. Cái khó của người dạy là làm thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người
học một cách tự nhiên nhất. Trong nhà trường phổ thông, đối tượng học sinh thường có
đặc điểm tâm sinh lý là thích tìm hiểu và sáng tạo, thế nhưng các em chưa có cách tiếp
nhận văn học chính xác, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu
văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả... Chính những thiếu sót
trên học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là phải
tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết nhảy múa biết vẽ ra những
khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội và phải đi vào tâm hồn các em những tình cảm yêu,
ghét, nhớ nhung, mơ mộng, phải mở ra những cánh cửa tâm hồn từ lâu đã bị khóa chặt
bởi cuộc sống bon chen ngày nay .
Hiện nay chúng ta đang sống trong tình trạng dạy và học văn đầy nghịch lý. Chưa
bao giờ giáo viên dạy văn Việt Nam được trang bị nhiều kiến thức, phương pháp, được
sự hỗ trợ bởi những phương tiện tối tân, đặc biệt là những phương tiện gắn liền với công
nghệ thông tin như bây giờ. Đáng ra với điều kiện đó, chất lượng học văn phải cao hơn,
học trò yêu văn hơn. Nhưng nghịch lý là chưa bao giờ học sinh chán học văn như bây
giờ. Con người ngày nay dường như thực dụng hơn trước. Con cái định thi khối nào,
trường gì, bố mẹ đều định hướng. Thực tế nhiều thầy cô dạy văn cũng không định hướng
cho con thi vào Khoa văn bởi môn này không hứa hẹn gì về đời sống cao, công việc tốt.
Ngoài ra, sự lên ngôi của công nghệ giải trí, kéo theo công nghệ nghe nhìn, làm văn hóa
nghe nhìn chiếm ưu thế, văn hóa đọc bị suy giảm, dẫn tới học sinh không thích học văn
Trong những năm giảng dạy gần đây, tôi nhận thấy, có một bộ phận không nhỏ

học sinh của trường tôi nói riêng và nhiều trường trên địa bàn tỉnh nói chung có thái độ
học tập chưa tốt, cụ thể các em không yêu thích học đối với bộ môn Ngữ văn. Nói cách
khác, các em học sinh này thường xuyên có tâm lý chán học, không thích học và thậm chí
còn muốn bỏ học. Thực trạng ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân.

2


* Về phía giáo viên: Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới.
Hàng năm các thầy cô được tập huấn những phương pháp dạy học mới, thảo luận ưu nhược điểm của của từng phương pháp. Trong giảng dạy, người thầy đã phát huy được
tính cực chủ động trong việc dạy học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu
của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ Ngữ
văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi khuyến khích học sinh tìm
ra con đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học
theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn. Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan
điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang (Tích hợp của ba phân môn Văn - Tiếng
Việt – Tập làm văn); Tích hợp dọc (Tích hợp giữa các bài, các lớp trong cùng một phân
môn) và Tích hợp liên môn (Tích hợp nội dung của môn học này với môn học khác). Bên
cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội một cách phù hợp trong
từng tiết dạy. Qua việc tích hợp và lồng ghép cộng với liên hệ thực tế để giáo dục học
sinh đã đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp dạy
học mới đang được tiếp cận một cách tích cực.
Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân
tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm
tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng nghe- đọc- nói - viết cho
học sinh. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến
thức vào cuộc sống như: nói, viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, biết sáng tác
thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn. Chính những chuyển biến này đã giúp giáo viên
nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong phương pháp dạy học
Ngữ văn.

Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa
ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều
kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn
đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh để giải
quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
3


Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp (1. Ổn định lớp – 2.
Kiểm tra bài cũ – 3. Dạy bài mới - 4. Tổng kết, củng cố - 5. Hướng dẫn tự học) . Nó biến
giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh.
Một số giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh
hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giỏo án mẫu,
thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân.
* Về phía học sinh: Các em học sinh phần nào ý thức được đây là bộ môn chính quyết
định chất lượng học tập. Các em luôn cố gắng để đạt được trung bình để không bị khống
chế trong xếp loại học lực. Các giờ học nhìn chung đã có một không khí mới, hào hứng,
sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong
giờ học với tư cách là một chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, không khí tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận, giảm
thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình.
Tuy nhiên đi sâu vào thì việc học của học sinh chủ yếu là đối phó. Kiến thức thực
tế về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học tập còn lúng túng. Do đó, kiến
thức văn học các em không nhớ được; kiến thức tiếng Việt các em dùng từ ngữ trong giao
tiếp thiếu chính xác. Ngoài ra, HS chưa chủ động trình bày những suy nghĩ cảm nhận của
riêng mình về một vấn đề phát sinh trong học tập. Đặc biệt các bài Tập làm văn thường
mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ
thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là các em chưa có tính sáng tạo trong việc tạo lập văn
bản theo yêu cầu…
Nếu thử điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng ta sẽ thấy rõ thực

trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn ra sao:
+ Em có thấy môn văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau này của mình không ?
+ Em có hứng thú (thích) học văn không ?
Kết quả điều tra sẽ rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trăn trở,
suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn văn và năng lực dạy Ngữ Văn của mình.
4


Năm học 2015-2016, tôi được phân công giảng dạy ở khối hai lớp 10 (10A3 và
10A5). Thực hiện hoạt động khảo sát ở học sinh hai lớp đầu năm học với cùng một nội
dung: “ Bạn có hứng thú (thích) với giờ học Ngữ văn không? Vì sao?” thu được kết quả
như sau:
Tổng
Bạn hứng thú với giờ học Ngữ HS

số Trả lời

HS
8

văn không?
62

Đôi khi
%
12,9

HS
37


Không
%
59,7

HS
17

%
27,4

Trả lời cho câu hỏi Vì sao?
-

Với 12,9% học sinh có hứng thú với môn học Ngữ văn xác định được tầm quan trọng
của môn Văn, bên cạnh các em cũng có niềm yêu thích say mê với môn học này.

-

Với 59,7% học sinh đôi khi thấy hứng thú và 27,4% học sinh không thấy hứng thú với
môn Ngữ văn tôi cũng đã tổng hợp được những lí do sau:
+ Do nội dung chương trình, sách giáo khoa nặng nề, nhiều tác phẩm văn học
không phù hợp với lứa tuổi học sinh.
+ Giáo viên nhồi nhét quá nhiều kiến thức, cho chép bài rất nhiều.
+ Một số giờ học khô khan, buồn ngủ.
+ Do môn Văn không phải là môn các em sẽ thi đại học.
Chính từ thực trạng đó đã thôi thúc tôi quyết định chọn nghiên cứu và áp dụng một

cách có hiệu quả “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn
ở trường THPT Nguyễn Trung Trực”.


2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Mục tiêu giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng
động, sáng tạo và tích cực của học sinh nhằm tạo ra khả năng nhận biết và giải quyết vấn
5


đề cho các em. Để đạt được mục tiêu này không gì hơn là phải đổi mới phương pháp dạy
học. Đây là vấn đề tất yếu và là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Dạy học
theo phương pháp đổi mới đã tạo điều kiện cho giáo viên phát huy hết vai trò chỉ đạo, khả
năng dẫn dắt, gợi mở, tổ chức, điều hành hoạt động học có hiệu quả, giúp học sinh phát
huy hết vai trò trung tâm, học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động
nhận thức và lĩnh hội tri thức để mở rộng tầm hiểu biết và ngày càng đam mê môn học.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học
văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động
thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt
được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, HS cũng không thể học
tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn những năm gần đây tôi nhận thấy, muốn
giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết
gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp
thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ
động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Trong phạm vi của sáng kiến, tôi xin đề cập đến
một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn
lớp 10.
Trước hết, nghiên cứu đề tài để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng
cao chất lượng trong dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Bên cạnh đó, nhằm xác định
các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút ra kết luận về các giải pháp tạo hứng
thú cho học sinh trong tiết học Ngữ văn, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong
tiếp nhận văn học, phù hợp với mục tiêu đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình
dạy học.


3.

Nội dung sáng kiến

3.1.

Cơ sở đề xuất các giải pháp

6


Nghiên cứu về hứng thú, các nhà tâm lí học cho rằng, đây là thái độ đặc biệt của
cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống vừa có khả năng
mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động. Nó được biểu hiện trước hết ở sự
tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động. Mặt khác, hứng thú
bao giờ cũng dẫn đến một đối tượng cụ thể hấp dẫn, nó gắn liền với tình cảm con người.
Trong bất cứ một công việc gì nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ
chịu với hoạt động, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động có sáng tạo. Ngược
lại nếu hứng thú không được thỏa mãn sẽ dẫn đến cảm xúc tiêu cực. Theo các nhà nghiên
cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn
nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói chung và của từng giáo viên. Văn
học dễ làm say mê người học nếu người dạy tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học.
Người học văn cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu.. . khi có
được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc. Cái khó của người dạy là làm thế nào
truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học. Trong nhà trường phổ thông đối
tượng học sinh do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có
phương pháp đúng để cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng
câu thơ, câu văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả. . . Chính
những thiếu sót trên, học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo
viên dạy văn là phải tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết nhảy

múa, biết vẽ ra những khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội; phải đi vào tâm hồn các em
những tình cảm yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng; phải mở ra những cánh cửa từ lâu được
khúa chặt bằng sinh hoạt đời thường.
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn Ngữ
văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy học sinh, mở cho các em
hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc, những khó khăn trong việc tìm
hiểu phân tích. Người giáo viên không còn giảng giải một cách say sưa khi không có
phản hồi từ học sinh, các em được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho
một đề tài thảo luận, các em có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về
7


đề tài, về nhân vật, về tác giả. . . Từ những cảm nhận đôi khi chưa chính xác, gây tranh
cãi góp phần rất lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, gây hứng thú cho các em và văn
học không xa lạ, không “đóng khung trong tháp ngà” mà thật sự gần gũi biết bao...
Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với kết quả, quá
trình của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức cũng như kỹ năng của môn học, do thấy
được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học đối với bản thân học sinh giúp học
sinh nhận thức được về vị trí của môn hoc, tầm quan trọng của việc học tập,vai trò của
môn học. Ngoài ra hứng thú học tập của học sinh còn làm tăng sự chú ý của các em trong
giờ học, giúp các em biểu hiện tốt hơn trong giờ học, vậy làm thế nào để khơi gợi được
hứng thú học tập của học sinh ?
Khổng Tử đã từng nói: “Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng vui mà học”. Từ nội dung của câu nói và thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui
và sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên
trong học tập. Xuất phát từ những cơ sở đó, là một giáo viên dạy văn phải có những nổ
lực nhất định để phát huy khả năng của mình. Với tư cách là một giáo viên trực tiếp giảng
dạy môn Ngữ văn trong thời gian qua, tôi luôn trăn trở để tìm ra những biện pháp tích
cực nhằm gây hứng thú cho học sinh để các em yêu thích, say mê môn học.
3.2.


Các giải pháp và cách thực hiện các giải pháp

3.2.1 Sử dụng các phương pháp,hình thức dạy học tích cực để tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học Ngữ văn
a/. Phương pháp dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm được hiểu là phương pháp giải quyết một vấn đề thông qua sự
cộng tác, tham gia của các thành viên theo sự phân công cụ thể. Học tập theo phương
pháp nhóm sẽ tạo ra một bầu không khí cộng đồng, hòa hợp mà ở đó mỗi HS tìm được
hứng thú thật sự cho riêng mình. Bất cứ HS nào cũng được tham gia học tập, tạo ra tinh
thần dân chủ, thoải mái trong tâm lí, thúc đẩy hứng thú nhận thức của các em.

8


Có nhiều cách tổ chức học nhóm khác nhau, tùy thuộc vào nhiệm vụ của nhóm,
đặc điểm HS, lớp học… Trong đó, có ba hình thức làm việc nhóm được tôi sử dụng trong
quá trình theo dõi nghiên cứu gồm:
-

Làm việc theo cặp hai HS.

-

Làm việc theo nhóm 4-5HS

-

Ghép nhóm (kết hợp với Kĩ thuật “Bể cá”)
Qui trình dạy học nhóm:


-

Bước 1: Định hướng chuẩn bị, khơi gợi hứng thú.

-

Bước 2: Tiến hành các hoạt động nhóm, khơi gợi hứng thú nhận thức.

-

Bước 3: Tăng cường hứng thú học nhóm ngoài giờ học.
Một số minh họa về PPDH theo nhóm
+ Nhóm 2 HS kết hợp với Phiếu học tập – sử dụng trong dạy học bài Tại lầu Hoàng
Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quãng Lăng của Lí Bạch
Nghĩa của từ

Suy nghĩ của em

Suy nghĩ của bạn

Phản hồi

Bạn

(3p)
…………………..

(2p)
…………………..


(1p)
…………………..

Cố nhân

………………….

………………….

………………….

Yên hoa

………………….
………………….

………………….
………………….

………………….
………………….

………………….

………………….

………………….

+ Làm việc nhóm 4 HS kết hợp với kĩ thuật “Bể cá” – sử dụng trong dạy học bài “Lập

dàn ý bài văn thuyết minh”. Thảo luận vấn đề: lập bố cục chung cho một bài văn
thuyết minh
Lớp chia thành 4 nhóm đôi (1A-B; 2A-B; 3A-B; 4A-B)
Các nhóm A thảo luận, nhóm B quan sát.
b/. Phương pháp dạy học nêu vấn đề
Là phương pháp dạy học đặt học sinh vào một tình huống có vấn đề, để từ đó HS
làm rõ vấn đề từ cái đã biết và cái phải tìm. Nó gợi ra cho HS những khó khăn mà các em
9


cảm thấy cần và có khả năng vượt qua nhưng không thể ngay lập tức mà phải trải qua quá
trình tích cực suy nghĩ.
Qui trình dạy học nêu vấn đề:
-

Bước 1: Nêu vấn đề (GV tạo ra tình huống có vấn đề)

-

Bước 2: Vạch kế hoạch giải quyết vấn đề (GV hướng dẫn HS phân tích, tìm hiểu vấn
đề, là rõ mối quan hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm)

-

Bước 3: Tiến hành giải quyết vấn đề (HS đưa ra lời giải dưới sự hướng dẫn, cố vấn
của GV)

-

Bước 4: Đánh giá kết quả, phân tích và khai thác lời giải (GV hướng dẫn HS kiểm tra

tính hợp lí, tối ưu của lời giải, so sánh đối chiếu khái quát hóa)
Minh họa tình huống dạy học nêu vấn đề:
+ Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”: GV nêu vấn đề:
“Có ý kiến cho rằng: nhân vật Mị Châu vừa đáng thương vừa đáng trách. Hãy trình
bày suy nghĩ của bản thân sau khi học xong tác phẩm?”.
+ Truyện cổ tích Tấm Cám có thể nêu câu hỏi: “Có nhiều người cho rằng Tấm hiền
quá hoá dại dột? Em có đồng ý với ý kiến đó không? Nhiều người thắc mắc, tại sao
Tấm trèo cau bị mẹ Cám chặt cây, lừa là bắt kiến mà Tấm vẫn tin? Em kiến giải ý
kiến đó như thế nào?...”
+ Đọc văn: bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể nêu caao hỏi: “Quan niệm
sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ là gì? Theo em quan niệm đó có
phù hợp với cuộc sống ngày nay không? Tại sao?”

c/. Phương pháp trò chơi học tập (phụ lục 2)
Bản chất của phương pháp trò chơi là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động
cho HS. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi,
trong đó mục đích của trò chơi là truyền tải mục tiêu bài học. Luật chơi (cách chơi) thể
hiện nội dung và phương pháp học. Đặc biệt, đây là phương pháp học tập có sự hợp tác
và đánh giá.
10


Trò chơi học tập sẽ tạo được không khí học tập sôi nổi, kích thích tư duy sáng tạo
của HS, làm cho các em cảm thấy các bài học trong chương trình trở nên gần gũi, thân
thiết, do đó HS có hứng thú đối với bài học.
Qui trình thực hiện trò chơi học tập:
-

Bước 1: Chuẩn bị trò chơi


-

Bước 2: Lựa chọn trò chơi

-

Bước 3: Xây dựng và thiết kế trò chơi

-

Bước 4: Tiến hành chơi
Một số trò chơi đã thực hiện:

-

Trò chơi ô chữ/ Đuổi hình bắt chữ

-

Trò chơi ghép tranh

-

Trò chơi đường lên đỉnh olympia (hoặc tương tự)

d/. Hình thức Nhật ký đọc sách
Sử dụng nhật ký đọc sách (NKĐS) là tổ chức cho người học thảo luận, chia sẻ về
văn bản, thể hiện quan điểm kiến tạo kiến thức trong dạy học “người học dùng phương
thức của mình mà xây dựng sự hiểu của mình đối với sự vật, từ đó, những người khác
nhau nhìn sự vật theo những góc độ khác nhau, không có tiêu chuẩn duy nhất cho sự

hiểu, vì vậy trong học đọc, đối thoại, giao lưu, hợp tác học tập làm cho kết quả đọc hiểu
được toàn diện” (Trần Đình Sử, 2007). Kiến thức không phải là cái đã được tìm sẵn,
không phải là cái mà GV cho HS mà do HS tạo ra thông qua cuộc tương tác với văn bản
và những người đọc khác. Hoạt động đọc gắn liền với hoạt động viết, HS có cơ hội rèn kĩ
năng viết đoạn văn, viết ngắn. Điều này sẽ góp phần làm tăng chất lượng các bài luận của
HS.
Bài tập NKĐS
HÌNH ẢNH

QUAN ĐIỂM

Mỗi khi đọc, bạn phải lưu giữ một hình ảnh Đôi khi đọc một nhân vật, tôi nghĩ tác giả
11


trong đầu về câu chuyện. Bạn có thể vẽ nó đã không xem xét các quan điểm hay ý
ra trong NKĐS và chia sẻ cho các bạn trong kiến nào đó. Trong nhật ký, tôi có thể viết
nhóm. Khi vẽ hình, bạn cần chú thích hình ra quan điểm của nhân vật mà tác giả
ảnh đó từ đâu đến, điều gì làm bạn nghĩ ra không đề cập tới.
nó, và tại sao bạn muốn vẽ hình ảnh đó.
TỪ HAY

NGHỆ THUẬT VÀ THỦ PHÁP ĐẶC

Tìm ra những từ thật hay, từ mới, ngộ

BIỆT CỦA TÁC GIẢ

nghĩnh, có khả năng miêu tả cao mà bạn Đôi khi tác giả sử dụng những từ ngữ đặc
muốn sử dụng khi viết; các từ dể nhầm biệt, khắc họa chúng rõ nét trong đầu

lẫn… Viết ra và chia sẻ trong nhóm. Bạn người đọc, làm bạn ước viết được như
cũng ghi chú lí do chọn những từ này và số vậy, dùng ngôn ngữ vui nhộn, viết những
trang chúng xuất hiện để có thể dể dàng tìm cuộc đối thoại cực hay… Trong NKĐS,
lại chúng.

bạn hãy ghi lại các ví dụ về những điều
đặc biệt như thế mà tác giả đã dùng trong
truyện.
HỒ SƠ NHÂN VẬT

ĐIỂM SÁCH/ PHÊ BÌNH

Nghĩ về một nhân vật yêu thích (hoặc không Khi đọc, đôi lúc bạn tự nghĩ: “Hoàn toàn
thích, lí thú). Vẽ sơ đồ thể hiện cách thức tuyệt vời!!!, có đôi lúc bạn nghĩ: “Nếu là
bạn nghĩ: về hình dáng, hành động,cách cư tác giả, tôi sẽ viết khác hơn”. Bạn hãy ghi
xử, điểm thú vị hay nổi bật của nhân vật đó.

ra những điểm hay của tác giả và những
nhược điểm cần khác phục
PHẦN ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN

GIẢI THÍCH

Khi đọc, bạn suy nghĩ xem tác giả muốn nói Bạn sẽ ghi lại số trang để nhớ đâu là đoạn
với chúng ta điều gì qua văn bản, bạn có thể đặc sắc của câu chuyện. Ghi các từ mở
viết ra cách giải thích của mình trong nhật đầu và các từ kết thúc của đoạn này để
ký và chia sẻ với các bạn những suy nghĩ gợi nhớ và chia sẻ trong nhóm. Sau đó
đó. Bạn cần lắng nghe cách giải thích của giải thích tại sao bạn cho rằng đoạn đó
bạn khác để so sánh các quan điểm giống thú vị và đặc biệt.
nhau, tương tự và khác nhau.

BẢN THÂN VÀ TRUYỆN

TRÌNH TỰ SỰ KIỆN
12


Đôi lúc những gì đọc được về nhân vật hay Đôi khi trật tự các sự kiện trong truyện tỏ
sự kiện nào đó khiến bạn nghĩ về cuộc sống ra đáng ghi nhớ. Bạn có thể vẽ một sơ đồ
cá nhân mình. Bạn hãy viết trong nhật ký và chuỗi các hành động và giải thích vì sao
kể lại cho các bạn nghe về nhân vật, sự kiện trật tự đó đáng nhớ.
hay ý tưởng nào đó đã làm cho bạn suy nghĩ
về cuộc đời mình.
Cách tiến hành:
-

GV giao bài tập NKĐS cho HS tự chọn để thực hiện ở nhà trong hệ thống 10 bài tập
NKĐS.

-

Tiến hành thảo luận nhóm và thảo luận chung trên lớp.

-

GV hướng dẫn, định hướng tiếp nhận cho HS.
Minh họa bài tập NKĐS về Hình ảnh do HS thực hiện
+ Truyền thuyết AN Dương Vương và Mị châu, Trọng Thủy.

+ Truyện cười Tam đại con gà.


13


3.2.2 Sử dụng các kĩ thuật dạy học hiện đại để tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học Ngữ văn.
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của GV trong
các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các
KTDH chưa phải là các PPDH độc lập mà là những thành phần của PPDH. Ví dụ, trong
phương pháp thảo luận nhóm có các kĩ thuật dạy học như: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật đặt
câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh ghép…
Có rất nhiều kĩ thuật dạy học có thể kích thích và tăng hứng thú học tập cho HS.
Sau đây, tôi xin chia sẻ một số kĩ thuật dạy học đã được vận dụng trong quá trình nghiên
cứu:
a/. Kĩ thuật “khăn trải bàn”
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân
và hoạt động nhóm nhằm: kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; tăng cường tính độc
lập, trách nhiệm của cá nhân HS; phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS. Từ
đó, tăng hứng thú học tập cho HS.
Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)(có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
14


- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân
làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các
câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)

- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy “khăn trải bàn”
lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng
nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
b. Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các
nhóm nhằm: Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề); kích thích sự tham gia
tích cực của HS; nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn
thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm
vụ ở Vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
-

VÒNG 1: Nhóm chuyên gia

• Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 người [số nhóm được chia = số chủ đề x n (n = 1,2,…)]
• Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ [Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B,
nhóm 3: nhiệm vụ C, … (có thể có nhóm cùng nhiệm vụ)]
• Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi
lại những ý kiến của mình.
• Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất
cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm
hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
-

VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép

15



• Hình thành nhóm 3 đến 6 người mới (1 – 2 người từ nhóm 1, 1 – 2 người từ nhóm 2, 1 –
2 người từ nhóm 3…)
• Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy
đủ với nhau.
• Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm
vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết.
• Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả.
Lưu ý:
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học, học sinh
được chia nhóm ở vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số 1,2,…,n (nếu
không có giấy màu có thể đánh thêm kí tự A, B, C, ... . Ví dụ A1, A2, ... An, B1, B2, ...,
Bn, C1, C2, ..., Cn)
- Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành nhóm mới (mảnh
ghép) theo số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới. Bước này phải tiến hành
một cách cẩn thận tránh làm cho học sinh ghép nhầm nhóm
- Trong điều kiện phòng học hiện nay việc ghép nhóm vòng 2 sẽ gây mất trật tự.
Ví dụ: Bài học tiếng Việt “Thực hành các biện pháp tu từ Ẩn dụ và Hoán dụ” (SGK
Ngữ văn 10 Tập 1.
- Vòng 1 (5p)
Chủ đề A: Thế nào là Ẩn dụ? Nêu ví dụ minh họa và phân tích .(Phiếu học tập 1)
Chủ đề B: Thế nào là Hóan dụ? Nêu ví dụ minh họa và phân tích . (Phiếu học tập 2)
Lớp có 30 học sinh, có 24 bàn học.
Giáo viên có thể chia thành 6 nhóm: mỗi nhóm gồm học sinh 4 bàn ghép lại (mỗi
nhóm có 5 học sinh). Giao nhiệm vụ: nhóm 1,2,3 nhận chủ đề A, nhóm 4,5,6 nhận chủ đề
B. Phát phiếu học tập cho học sinh. Trên phiếu học tập theo màu có đánh số từ 1 đến 15.
Thông báo cho học sinh thời gian làm việc cá nhân và theo nhóm.

16



- Vòng 2 (7p)
Giáo viên thông báo chia thành 6 nhóm mới : mỗi nhóm 4 bàn (mỗi nhóm có 4-6
HS), các nhóm mới gồm từ 2-3 HS của nhóm thực hiện chủ đề A kết hợp với 2-3 HS
thuộc nhóm thực hiện chủ đề B….tương tự cho các nhóm còn lại.
Giáo viên thông báo thời gian làm việc nhóm mới
Các chuyên gia sẽ trình bày ý kiến của của nhóm mình ở vòng 1
Giao nhiệm vụ mới: So sánh điểm giống và khác của biện pháp tu từ Ẩn dụ và Hoán dụ?
phân tích ví dụ minh hoạ ?
c. Dạy học theo sơ đồ KWL và bản đồ tư duy
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học
hoạt động đọc hiểu. (K: know – biết; W: want – muốn; L: learn – học). Học sinh bắt đầu
bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ
được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về
những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận
vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời
cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
Qui trình sử dụng biểu đồ KWL
-

Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa
gợi mở, tìm hiểu, giải thích

-

Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một
mẫu bảng của các em. Có thể sử dụng mẫu sau:

K (Điều đã biết)


BẢNG KWL
W (Điều muốn biết)

L (Điều học được)

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

…………………………

17


-

Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề.
Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết

thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về
những gì các em đã ghi nhận.

Một số lưu ý tại cột K
-

Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh
cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em : “Hãy nói những gì các em đã biết
về……”

-

Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các
em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.

-

Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học sinh
ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý
tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành
câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.

Một số lưu ý tại cột W
-

Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em : “Các em muốn biết thêm
điều gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa
có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau : “Em nghĩ mình sẽ biết thêm được
điều gì sau khi em đọc chủ đề này?”


-

Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan
đến ý tưởng này không?”

-

Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong
muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của học
sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được
thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi
của học sinh.

18


-

Yêu cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. Trong quá
trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và ghi nhận vào cột
W.

-

Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong.

Một số lưu ý tại cột L
-

Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các

em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của
các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời cho câu hỏi ở cột
W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao.

-

Đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi ở cột W
mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều
được bài đọc trả lời hoàn chỉnh).

-

Thảo luận những thông tin được học sinh ghi nhận ở cột L.

-

Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W

nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc.
Mẫu bảng KWL được HS thực hiện:

d. Kỹ thuật “bể cá”
19


Là kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm HS ngồi trước lớp hoặc
giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những HS khác trong lớp theo dõi cuộc thảo luận đó
và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những
HS thảo luận.
Đây gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể

quan sát những người thảo luận tương tự như xem những con cá bơi trong một bể cá.
Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi
vai trò cho nhau.
Câu hỏi dành cho những người quan sát : Người nói có nhìn vào những người
đang nói với mình không? Họ có nói một cách dễ hiểu không? Họ có để những người
khác nói hay không? Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không?
Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không? Họ có lệch hướng khỏi đề
tài hay không? Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không?
e. Kỹ thuật “ổ bi”
Là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó học sinh chia thành hai
nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để
tạo điều kiện cho mỗi học sinh có thể nói chuyện lần lượt với các học sinh ở nhóm khác.
Cách thực hiện : Khi thảo luận, mỗi học sinh ở vòng trong sẽ trao đổi với học sinh
đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác. Sau một ít
phút thì học sinh vòng ngoài ngồi yên, học sinh vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim
đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới.
3.2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học Ngữ văn.(phụ lục 3)
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học Ngữ văn có thể mang lại hứng thú học tập
cho HS vè những lí do sau:
-

Các kiến thức môn học sẽ trở nên sinh động và gần gũi hơn với HS qua các hình ảnh,
tài liệu. Qua đó, thế giới nghệ thuật của các tác phẩm văn học sẽ đến với các em một
20


cách tự nhiên, lôi cuốn, gần gũi và cụ thể hơn so với các văn bản trong sách giáo
khoa.
-


Các kiến thức chỉ thật sự đi vào nhận thức của HS một cách sâu sắc khi chúng phải
được HS tự trải nghiệm, tự nghiên cứu, tìm tòi và thể hiện. Phương tiện giúp HS thực
hiện công việc “tự mình” ấy chính là CNTT với Internet giúp tìm kiếm tài liệu, tranh
ảnh minh họa với các phần mềm hổ trự tạo bài trình chiếu.

-

Ứng dụng CNTT khi kết hợp với các phương pháp dạy học khác như: đọc sáng tạo,
đàm thoại, phát vấn, học nhóm… trong dạy học Ngữ văn sẽ mang lại hiệu quả tích
cực hơn.
Chúng ta có thể ứng dụng CNTT trong dạy học Ngữ văn bằng cách:

-

Xây dựng thư viện tư liệu phục vụ dạy học.

-

Xây dựng giáo án điện tử trong dạy học.

-

Hướng dẫn HS ứng dụng CNTT trong quá trình chuẩn bị cho bài học và phần thực
hành sau bài học.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học Ngữ văn được tôi áp dụng trong một số tiết dạy.
Chẳng hạn như tiết đọc văn Tỏ lòng (Phạm Ngũ lão), Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh
Hạo Nhiên đi Quãng Lăng (Lí Bạch),

V- Hiệu quả đạt được:


21


Tuy thời gian áp dụng các giải pháp trên chưa nhiều, song tôi nhận thấy với
phương pháp này, bên cạnh việc thu hút sự hứng thú học tập, phát huy tính tích cực và tự
giác của học sinh thì còn mang lại hiệu quả thiết thực trong việc giúp các em đạt kết quả
cao hơn về chất lượng chung.
* Trong năm học 2015– 2016, qua khảo sát đầu năm về ý thức học tập của học
sinh khối 10. Với câu hỏi: “ Bạn có hứng thú với giờ học Ngữ văn không? Vì sao?” thu
được kết quả như sau:
Tổng số
Bạn hứng thú với giờ học Ngữ



HS
HS
8

văn không?
62

%
12,9

Trả lời
Đôi khi
HS
37


%
59,7

Không
HS
17

%
27,4

* Đến giữa học kỳ II, tôi cũng tiến hành điều tra thì ý thức học tập của học sinh
với cùng một câu hỏi, nhận thấy có sự chuyển biến nhưng chưa nhiều, kết quả như sau:
Tổng
Bạn hứng thú với giờ học Ngữ HS

số Trả lời

HS
42

văn không?
62

Đôi khi
%
67,7

HS
16


Không
%
25,8

HS
4

%
6,5

Với thái độ học tập như trên, chắc chắn rằng kết quả chất lượng bộ môn sẽ có sự
cải thiện đáng kể. Nhưng chắc rằng với sự nổ lực động viên khích lệ và nhất là chú trọng
đến việc tạo hứng thú cho các em, nên chất lượng bộ môn phần nào được cải thiện hơn
nữa.

VI. Mức độ ảnh hưởng:

22


Giải pháp có thể áp dụng rộng rãi ở cả ba khối lớp THPT và các trường phổ thông
trong cùng địa bàn công tác.
Bên cạnh đó, để sáng kiến có thể áp dụng có hiệu quả thì cần có sự cố gắng của cả
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học Ngữ văn
VII- Kết luận
1. Ý nghĩa của đề tài
Tuy đề tài này còn một số hạn chế, song tôi tin rằng nó lại rất phù hợp với điều
kiện thực tế giảng dạy ở đơn vị trường của tôi và học sinh trường của tôi nói riêng và các
đơn vị trường học khác trên trong toàn tỉnh An Giang nói chung.
Vì với đề tài này là kết quả của quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những đặc điểm

của học sinh nơi tôi công tác trong nhiều năm qua cũng như nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
của các đồng nghiệp. Nên tôi tin tưởng rằng nó sẽ rất cần thiết để cho nhiều giáo viên
giảng dạy bộ môn Ngữ văn tham khảo, học tập.
2. Những ý kiến đề xuất
Mong rằng, trong thời gian tới những nhà quản lý giáo dục cần quan tâm và chỉ
đạo sâu sát hơn nữa mang tính vĩ mô đối với bộ môn học này. Bên cạnh đó, các cấp quản
lí cũng cần có những giải pháp phù hợp và định hướng cụ thể, kịp thời hơn nữa để giúp
cho những giáo viên giảng dạy bộ môn này thực hiện đạt hiệu quả cao hơn.
* Về phía nhà trường:
- Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị, đồ dùng học tập, điều chỉnh số lương HS
trong lớp (khoảng 25 HS) để tạo điều kiện cho HS có thể thực hiện các hoạt động học tập
theo nhóm.
- Tổ chức cho học sinh tham quan tìm hiểu thực tế gắn liền với kiến thức môn học
- Tăng cường đầu tư các phương tiện dạy học như: sách vở, tài liệu tham khảo; phương
tiện công nghệ thông tin phục vụ đạy học.
- Phối hợp với các ban, ngành có liên quan tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho GV các
phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại.
23


* Đối với giáo viên:
- Cần chú ý đến việc phân bố thời gian của tiết học để có những điều chỉnh hợp lý hơn về
tiến trình các bước lên lớp.
- Linh hoạt trong việc kiểm tra, đánh giá; việc soạn bài và giảng bài; cách giao tiếp, ứng
xử và nhận xét học sinh trong giờ học môn Ngữ văn.
- Tránh hiện tượng lây lan tâm lý từ giáo viên tác động đến học sinh.
- Tìm phương pháp phù hợp giúp học sinh dễ dàng học thuộc bài thơ, đoạn thơ hoặc tóm
tắt được nội dung đoạn trích hoặc tác phẩm truyện.
- Thường xuyên kiểm tra việc học bài và soạn bài mới. Đồng thời cần chú trọng đến công
tác hướng dẫn tự học ở nhà cho học sinh.

- Yêu cầu học sinh chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập trước khi đến lớp.
- Xen lồng nội dung và kiến thức văn học trong các buổi hoạt động ngoại khóa để tạo sự
hứng thú cho học sinh.
- Giáo viên chủ động hướng dẫn và chuẩn bị tài liệu học tập cho học sinh.
- Vận dụng phương pháp trực quan sinh động tạo sự hứng thú cho học sinh.
- Điều quan trọng và mang tính quyết định nhất để tạo hứng thú cho học sinh là giáo viên
phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, tránh trường hợp bị động, lúng túng sẽ gây ra sự
chán nản cho học sinh.
* Đối với học sinh:
- Học sinh cần có thái độ tích cực, tự giác trong học tập nói chung và trong giờ học bộ
môn ngữ văn nói riêng.
- Thực hiện nghiêm túc các yêu cầu về học tập của giáo viên khi trên lớp cũng như khi ở
nhà.
- Tích cực tham gia các hoạt động thiết thực liên quan đến nội dung của bộ môn, góp
phần tạo hứng thú cho bản thân và các bạn xung quanh khi học bộ môn Ngữ văn.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc đưa ra một số giải pháp tạo sự hứng thú
cho học sinh trong giờ học môn Ngữ văn. Với đề tài này, tuy không có nhiều điểm mới
nhưng tôi nghĩ nó rất phù hợp với thực tế và phục vụ thiết thực đối với việc dạy học bộ
24


môn này tại trường THPT Nguyễn Trung Trực mà tôi đang giảng dạy. Tuy nhiên, với
năng lực hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót và có những giải pháp chưa được
nghiên cứu thật sâu sắc.
Mong các đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường đóng góp những ý kiến
chân thành, giúp tôi bổ sung đầy đủ hơn vào sáng kiến này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến


Người viết sáng kiến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
------------- *** ------------

25


×