Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

sự vận dụng quan điểm của c mác, ph ăngghen, hồ chí minh về bản chất giai cấp công nhân của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.95 KB, 21 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về chính đảng vô sản kiểu mới
vào điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng nước ta và sự kết hợp nhuần nhuyễn
học thuyết đó với truyền thống. Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện thành
công Đảng vô sản kiểu mới ở một nước thụộc địa, nửa phong kiến, kinh tế chưa
phát triển v.v. được thể hiện trong các tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), tư
tưởng xây dựng Đảng kiểu mới của Người được phát triển thành các nguyên lý có
hệ thống trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947). “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. “Di chúc”.
Đối với Đảng ta, một đảng ra đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp
lạc hậu, giai cấp công nhân chiếm phần lớn trong dân cư. Phần lớn đảng viên xuất
thân không phải từ giai cấp công nhân thì việc tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Đảng là càng phải được đặc biệt coi trọng
Từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta thường xuyên quan tâm đến vấn đề này,
đã đề ra các chủ trương, giải pháp tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng. Nhờ đó Đảng ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm tròn sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam từng bước giành độc lập dân tộc, đưa đất nước tiên
lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng chứng tỏ Đảng ta là một
đảng thực sự của giai cấp công nhân. Kiên định mẫu mực trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là
một bài học kinh nghiệm lớn về xây dựng Đảng của Đảng ta.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đảng đứng trước những thách thức mới,
quyết liệt chưa từng có. Việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
được đặt ra cấp bách. Có những thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó
khăn, thách thức to lớn, quan hệ đến sự sống còn của Đảng và sự tồn tại, phát triển
1



của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng ta đã nhận thức sâu sắc vấn đề đó, đã
đề ra các chủ trương, giải pháp tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trong điều kiện mới và tổ chức thực hiện kết quả quan trọng. Nhờ đó đảng ta ngày
càng phát triển, lớn mạnh, thực sự là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh
đạo công cuộc đổi mới giành thằng lợi to lớn.
Tuy nhiên, trong điều kiện mới, trước sự biến đổi phức tạp của tình hình thế
giới, trước yêu cầu rất cao của cách mạng, sự tác động nhiều chiều của kinh tế thị
tường, mở cửa chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, sự tăng cường phá
hoại Đảng của các thế lực thù địch. Một bộ phận cán bộ đảng viên đã có những
biểu hiện giảm sút bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Điều đó ảnh hưởng nhất
định đến năng lực lãnh đạo và sức chiên đấu của Đảng.
Với nhận thức đó, em chọn vấn đề “sự vận dụng quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta” làm đề tài
tiểu luận cho học phần Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin Hồ Chí
Minh về Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.

2


PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN, HỒ
CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG CÔNG
SẢN
1.1. C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.LêNin bàn về bản chất giai cấp công nhân
của Đảng cộng sản.
C.Mác, Ăng-ghen Lê-Nin là người sáng lập ra học thuyết C.Mác- Lê-Nin về
Đảng cộng sản- Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Học thuyết đó là một bộ
phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học. C.Mác, Ăng-ghen Lê-Nin đã trực
tiếp áp dụng học thuyết đó vào xây dựng, giáo dục, rèn luyện Đảng cộng sản, làm
cho đảng ngày càng lớn mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, vượt

qua mọi thử thách quyết liệt, đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giành
thắng lợi to lớn. Học thuyết Mác- Lê-Nin về Đảng cộng sản chỉ ra những quy luật
ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng cộng sản, những nguyên tắc xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền, trong lãnh đạo cải tạo xây dựng xã hội cũ, xây dựng chủ nghĩa cộng
sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Trong đó bản chất giai cấp công nhân
của Đảng là vấn đề đặc biệt quan trọng bao trùm và xuyên suốt chỉ đạo các hoạt
động xây dựng bản thân đảng, hoạt động lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
C.Mác, Ăng-ghen đã khẳng định, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó,
giai cấp công nhân phải hành động với tính cách là một giai cấp. Điều đó có thể
thực hiện được khi giai cấp công nhân tổ chức được chính đảng cách mạng. Đảng
cộng sản, khác hẳn về chất, đối lập với các Đảng do giai cấp hữu sản lập ra. Ăngghen viết “Để giai cấp vô sản đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút
quyết định- Mác và tôi đã bảo vệ lập trường này từ năm 1847- thì nó cần thành lập
một đảng đặc biệt, không giống bất kỳ đảng nào, đối lập với chúng và tự nhận
3


mình là một đảng có tính giai cấp” 1. Theo Mác-Ăng-ghen: “Đảng có tính giai cấp”
đó là đảng cộng sản, tính giai cấp của Đảng chính là tính chất giai cấp công nhân.
Hai ông đặt ra yêu cầu quan trọng chủ yếu hàng đầu của Đảng là phải kiên
trì tính độc lập giai cấp của mình, đảng phải có bản chất chính trị riêng. Đó là bản
chất của giai cấp công nhân và phải tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên lý của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng phải kiên trì tính độc lập về chính trị, tư tưởng,
nhưng không có nghĩa là đảng phải tồn tại một cách biệt lập, tách rời các đảng và
các tổ chức khác của giai cấp công nhân. Trái lại đảng phải tăng cường quan hệ
hợp tác với các đảng và các tổ chức đó. Do đại vị khách quan, do điều kiện sống,
điều kiện làm việc, do sự nổi trội của giai cấp công nhân so với các giai cấp khác,
nên giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiến tiến nhất của xã hội, dễ
dàng tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học, có sự đoàn kết chặt chẽ với nhân dân lao

động ở tất cả các nước, đi tiên phong trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Đảng cộng sản, đảng của giai cấp công nhân mang đầy đủ các tính chất
đó của giai cấp công nhân, song đảng không đồng nhất với giai cấp công nhân.
Đảng là tập hợp những người kiên quyết nhất, tiên tiến, ưu tú của giai cấp công
nhân, tiên phong trong hành động và tiên phong về lý luận, C.Mác, Ăng-ghen viết
“Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các
đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến
lên: Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điệu kiện tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”2.
Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản. C.Mác, Ăngghen chỉ rõ sự giống nhau và đặc biệt là sự khác nhau về chất giữa Đảng cộng sản
với các đảng khác của giai cấp công nhân (những đảng chưa phải là đảng cộng
sản) và những đảng cải lương, đưa ra tiêu chí phân biệt sự khác nhau ấy. Hai ông
khẳng định. Đảng cộng sản là đảng triệt để cách mạng nhất của giai cấp công
1
2

Dẫn theo xây dựng Đảng: Nxb. Sách giáo khoa Mác-Lê-Nin, H, 1982, t.1, tr.26
C.Mác, Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995. t.4, tr.615

4


nhân, nhưng lại không đối lập với các đảng khác của giai cấp công nhân. Hai ông
viết “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các
đảng khác”.
Đảng cộng sản là kết tinh của những đặc tính tiên tiến, ưu việt nhất của giai
cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp lao động khác. Theo Lê-Nin đảng là “trí
tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta” 3. Lê-Nin chỉ rõ: sự gắn bó mật
thiết giữa Đảng cộng sản với quần chúng là một đặc tính cơ bản của đảng cộng
sản, bảo đảm cho Đảng có sức mạnh và đó cũng là sinh mệnh của Đảng. Lê-Nin

đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen về tính quốc tế của
Đảng cộng sản trong điều kiện lịch sử mới và là sâu sắc hơn tính quốc tế của
Đảng. Điều đó dựa trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ nhiệm
vụ cách mạng và sứ mệnh lịch sử của Đảng là lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Lê-Nin còn chỉ rõ, nếu đảng không coi trọng rèn luyện, phát triển đặc tính đó, cắt
đứt mối liên hệ mật thiết với quần chúng, xa rời quần chúng, thì đó là một nguy cơ
của đảng, nhất là trong điều kện đảng cầm quyền. Trên cơ sở đó, Lê-Nin cũng đã
phát triển các nguyên tắc tập trung dân chủ, đây là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, bảo đảm cho đảng phát triển có đủ khả
năng hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Người chỉ rõ: “Các đảng ra nhập
Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc Tập trung dân chủ” 4. LêNin cũng cho rằng: Tự phê bình và phê bình là quy luật bất di, bất dịch về sự phát
triển của Đảng cộng sản. Tự cao, tự đại, không thấy những sai lầm, khuyết điểm
của mình, giấu giếm những sai lầm, khuyết điểm là một trong những nguyên nhân
làm giảm sút sức chiến đấu, thậm chí tan rã đảng. Người viết: “Tất cả những đảng
cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không

3
4

V.I.Lê-Nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978,t.34, tr.122
V.I.Lê-Nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978,t.41, tr.253

5


biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói những
nhược điểm của mình”5.
1.2. Hồ Chí Minh bàn về bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng
sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết MácLê-Nin về Đảng cộng sản, xây dựng thành công một đảng kiểu mới ở nước ta, đưa
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong đó, vấn đề quan
trọng hàng đầu được người quan tâm là bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta.
Đối với đảng ta, một đảng sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu,
đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ rất thấp, Người luôn tìm các
biện pháp giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất
định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ
nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặn chẽ nhất. Mà đảng vô sản là
bộ tham mưu của giai cấp công nhân”6.
Như vậy, có thể nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những tính chất
cơ bản của Đảng ta, gồm: Tính cách mạng; tính tiên phong, tính trong sạch, kiểu
mẫu (Kiểu mẫu cả trong phẩm chất đạo đức, lối sống và trong tổ chức hoạt động)
Một vấn đề nữa được Chủ tịch Hồ Chí Minh luận bàn, đó là tinh trí tuệ của
Đảng. Luận điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” đã bao hàm trong nó tính trí
tuệ của Đảng. Là đảng văn minh đòi hỏi đảng phải có trí tuệ cao ngang tầm trí tuệ
của thời đại mới có thể lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động lật đổ xã
hội dựa trên sự áp bức bóc lột, xây dựng xã hôi cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội văn minh, tươi sáng của nhân loại. Người còn
5

.I.Lê-Nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978,t.45, tr. 81-82

6

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 9, tr. 283

6



nhấn mạnh: “trong đảng ta, gồm có những người có tài, có đức. Phần đông những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất
đều ở trong đảng ta, chúng ta chắc chắn đi đến thắng lợi và thành công”7.
Từ khi ra đời đến nay, trong các văn kiện đại hội và hội nghị Ban chấp hành
trung ương, nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã bàn đến tính
chất, bản chất của Đảng với những nội dung ngày càng cụ thể, phong phú hơn.
Như vậy vận dụng sáng tạo lý luận về Đảng của Mác- Lênin, Hồ Chí Minh
đã xây dựng thành công Đảng vô sản kiểu mới ở nước ta.
Hồ Chí Minh có 2 cách thể hiện bản chất giai cấp của Đảng cộng sản Việt
Nam:
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân. Người cho rằng:
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, là đạo quân tiên phong của đạo quân
vô sản, là Đảng của giai cấp vô sản.
Mục đích của Đảng là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Thành viên của Đảng: là những người tin theo chủ
nghĩa cộng sản, chương trình của Đảng và quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và
dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng đảng phí, chịu phấn đấu trong 1
bộ phận đảng. Đảng có mối liên hệ mật thiết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.Về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng: có một hệ thống hoàn chỉnh từ Trung ương đến địa phương.
Tại đại hội II của Đảng ( 2/1951), Hồ Chí Minh cho rằng: "trong giai đoạn
này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một.
Chính vì Đảng Lao Động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam". Sau đó, trong nhiều bài
nói, bài viết của mình Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ vấn đề đó.

7

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 262


7


Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa trên
cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, tuy số lượng ít so
với dân số nhưng có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất nước thực hiện
những mục tiêu của cách mạng.Có thể nói rằng, luận điểm của Hồ Chí Minh về
bản chất giai cấp của Đảng đã định hướng cho việc xây dựng Đảng cộng Việt
Nam thành một Đảng có sự gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ phát triển của cách
mạng Việt Nam.
1.3. Nhận thức bản của Đảng ta về bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Báo cáo chính trị tại Đại hội III của Đảng khẳng định: “Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, công tác xây dựng Đảng cần phải coi vấn đề tăng cường tính
chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng là một vấn đề cơ bản” 8: Nhưng
trong việc chỉ đạo thực hiên…đã thiếu quan tâm chỉ đạo phát triển tổ chức đảng để
đảm bảo vững chắc tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng”9.
Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng cũng chỉ rõ: “Từng thời kỳ, bên cạnh những ưu điểm, chúng ta cũng đã
phạm phải một số khuyết điểm, gây ảnh hưởng không tốt trong một chừng mực
nhất định đến tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng ta” 10; “Lúc này
hơn bao giờ hết, chúng ta phải nhận thức rõ và ra sức phấn đấu để nâng cao hơn
nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng” 11. Văn kiện này cũng chỉ
rõ, Đảng ta có nhiều tính chất, trong đó tính chất giai cấp và tính chất tiên phong
được nhấn mạnh hơn: “Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn, sâu sắc, toàn diện về
tính chất của Đảng. Đồng thời chúng ta ra sức phấn đấu để tăng cường tính chất
tiên phong của Đảng”12.

8


Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 637-638
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 637-638
10
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 637-638
11
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 669, 672, 673,
12
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 669, 672, 673,
9

8


Trong báo chính trị và báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội III còn
bàn đến một tính chất nữa của Đảng ta là tính quần chúng: “Làm cho Đảng trở
thành một đảng quần chúng mạnh mẽ”13: “Nếu như Đảng ta có thái độ hẹp hòi,
không chú ý phát triển Đảng vào các tầng lớp nhân dân lao động khác và trí thức
cách mạng thì cũng không thể xây dựng nổi một Đảng có tính chất quần chúng
mạnh mẽ thích hợp với tình hình xã hội nước ta, không thể đoàn kết, lãnh đạo
nhân dân cả nước đưa cách mạng đi tới thắng lợi”14.
Đại hội IV của Đảng (1976), tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, Đảng đã khẳng định tính chất giai cấp
công nhân của Đảng, đồng thời còn chỉ rõ tính cách mạng và tính khoa học của
Đảng. Trong khi luận bàn về tính chất giai cấp công nhân, Đảng cũng bàn đến tính
tiền phong, tính quần chúng của Đảng. Văn kiện nhấn mạnh: “Nâng cao tính chất
giai cấp công nhân… kết hợp tính cách mạng và tính khoa học, đảm bảo cho
đường lối của Đảng luôn luôn đúng đắn, sáng tạo và được tổ chức thực hiện thắng
lợi, đảm bảo chho Đảng thực sự vững mạnh, luôn luôn đoàn kết nhất trí, gắn bó
chặt chẽ với quần chúng để trong bất cư tính huống nào Đảng cũng có thể làm tròn
nhiệm vụ lịch sử của mình”15. Đại hội cũng khẳng định: “Phấn đấu không ngừng

nâng cao tính chất giai cấp công nhân của Đảng” 16 là một bài học kinh nghiệm lớn
lao bao trùm xuyên suốt toàn bộ công tác xây dựng Đảng của Đảng ta. Đồng thời
đại hội cũng khẳng định, tính quần chúng của Đảng và tiến hành công tác xây
dựng Đảng qua phong trào cách mạng của quần chúng là một trong những phương
châm xây dựng ta.
Đại hội V (1982) Đảng ta khẳng định. Đảng có tính chất giai cấp công nhân
và tính tiền phong ; Đồng thời đại hội còn chỉ rõ bản chất cách mạng và khoa học
của Đảng, tính quần chúng của Đảng. Văn kiên đại hội viết: “ Tiếp tục nâng cao
tính chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng… làm cho Đảng ta luôn
13

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 669, 672, 673,
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 669, 672, 673,
15
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 37, tr. 794, 795, 773
16
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 669, 672, 673,
14

9


luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng”17.
Nhìn một cách tổng thể, từ năm 1930 đến 1985. Đảng ta luôn giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng đẫ đề ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng
đắn, phù hợp với điều kiện của Đảng và nhiệm vụ cách mạng mà đảng phải gánh
vác nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nhờ đó, Đảng ta
luôn luôn được xây dựng và ngày càng vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu cao, lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua biết bao khó khăn thử thách

quyết liệt, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tại Đại hội IV, Đảng đã tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta từ
năm 1930 đến năm 1975 và khẳng định: “Trong suốt quá trình xây dựng Đảng từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn xác định Đảng là đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam và phấn đấu không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân
của Đảng”18.
Tại đại hội V và Đại hội VI, Đảng lại khẳng định điều đó và nhấn mạnh.
Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, luôn giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng. Khẳng định đó là cơ sở quan trọng để Đảng bước vào lãnh đạo
công cuộc đổi mới giành thằng lợi.
Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội VII lại bàn đến
bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng” 19. Tiếp theo Đại hội
VIII lại nhấn mạnh: “Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng”20. Đáng chú ý là trong Văn kiện Hội Nghị Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII)

17

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1982, t. 3, tr. 34
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 37, tr. 773
19
Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Báo cáo Xây dựng Đảng, Nxb.
Sự thật. Hà Nội, 1991, tr. 14
20
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội,
1996, tr. 139
18

10



Đảng ta sử dụng khái niệm “Bản chất giai cấp công nhân” và “Bản chất cách
mạng, khoa học của Đảng”21.
Tại Đại hội X. Đảng ta đưa ra một số quyết định quan trọng, trong đó Đảng
đã bổ sung và có diễn đạt rõ hơn, chặn chẽ và khoa học hơn về bản chất của Đảng
ta. Một trong những nội dung được đại hội nhất trí bổ sung, sửa đổi, đó là cách
diễn đạt mới về Đảng trong phần mở đầu của Điều lệ Đảng: “Đảng cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. so với điều lệ Đại hội IX
thì Điều Lệ X có bổ sung thêm cụm từ “Đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam”. Đây là một nội dung rất quan trọng khẳng
định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Nhìn từ cơ sở lý luận:
Theo quan điểm của Mác-Ăng –ghen về chính Đảng cộng sản thì đảng ra
đời từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Đảng là của giai
cấp công nhân . Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, mọi chủ trương, chiên lược, sách lược của Đảng
đều phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Đảng không chỉ đại biểu cho
quyền lợi của giai caao công nhân mà còn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể
nhân dân lao động. Bởi vì: Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng được mình
nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội thoát
khỏi ách áp bức, bóc lột.
Trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C.Mác đã viết: Giai cấp công
nhân trước hết phải tự giải phóng, khi ấy Đảng của giai cấp công nhân vừa là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc, vừa là đại biểu của GCCN, đại
biểu của toàn dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhâ dân, của dân tộc. Đảng
21

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ VI (lần 2) BCHTW, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1999,
tr. 52


11


không có lợi ích nào khác. Chính vì vậy mà Đảng ta được nhân dân thương yêu,
cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình. Đảng đã tập hợp
được đông đảo lực lượng của nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Làm cuộc tổng khởi nghĩa 8/1945 lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, giành lại độc lập, thống nhất tổ
quốc. Lãnh công cuộc xây dựng CNXH và sự nghiệp đổi mới… Đặc biệt trong
điều kiện các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNXH lâm vào khủng
hoảng, thoái trào, các thế lực thù địch ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến Hòa
Bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Đảng ta đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam vượt qua được mọi khó khăn thách thức này, tiếp tục đưa sự
nghiệp đổi mới tiên lên.
Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay tình hình nhiệm vụ cách mạng của Đảng có những thay đổi, phức
tạp. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải huy động sự tham gia đông đủ các cấp, các tầng
lớp nhân dân của cả dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của đảng không chỉ giai cấp công
nhân mà tất cả tầng lớp nhân dân lao động đã và đang ra sực phấn đấu thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, trong sự nghiệp đó. Đảng không chỉ là đội tiên phong
của giai cấp công nhan mà còn là tiên phong dẫn đường cho cả dân tộc Việt Nam.
Đảng không chỉ thu nhận những thành viên công nhân ưu tú mà còn thu
nhận công nhân ở các tầng lớp khác. Do vậy chúng ta càng phải quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc diễn đạt bản chất của Đảng, nhất là trong điều kiện
đảng ta trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là
đội tiên phong lãnh đạo của nhân dân.
Từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên chúng ta có thể khẳng định:
Cách diễn đạt về Đảng như trong điều lệ Đảng do Đại hội X thông qua không làm

thay đổi bản chất giai cấp của Đảng. Nó vừa khẳng định được bản chất GCCN của
Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lê-Nin vừa nói lên được nét đặc thù của Đảng ta theo
12


sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế của Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước hiện ay, đáp
ứng nguyện vọng tình cảm của nhân dân ta, cách diễn đạt như thế hoàn toàn không
hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, không phải trượt sang quan điểm “Đảng toàn
dân” mà chính là hiểu bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, nhuần
nhuyền hơn. Điều đó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với GCCN,
nâng cao lập trường, tư tưởng của GCCN, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy
truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phấn đấu và lợi ích
của cả giai cấp và dân tộc.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ BẢN CHẤT GIAI
CẤP CÔNG NHÂN THEO QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,
V.I.LÊNIN, HỒ CHÍ MINH
Trong hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Bên
cạnh một số thuận lợi. Đảng ta đã đứng trước không ít những khó khăn, thách thức
quyết liệt. Điều kiện và hoàn cảnh đó, một lần nữa thử thách và khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của đảng ta.
Trong điều kiện mới, trước sự biến đổi phức tạp của tình hình thế giới,
trước yêu cầu rất cao của cách mạng, sự tác động nhiều chiều của kinh tế thị
trường, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sự tăng cường phá hoại Đảng
của các thế lực thù địch, đã có những biểu hiện giảm sút bản chất giai cấp công
nhân của Đảng. Điều đó ảnh hưởng nhất định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
Trên thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa đang lâm vào khủng hoảng nặng
nề. Mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, bao cấp đã bộc lộ những nhược điểm của
nó, không còn khả năng đưa các nước xã hội chủ nghĩa phát triển trong cuộc cạnh

tranh, chạy đua quyết liệt với chủ nghĩa tư bản. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô tiến hành cải cách, cải tổ, song do nhiều sai lầm đã bị sụp đổ. Sự
13


sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã tác động mạnh
mẽ đến cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên
hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lê-Nin, vào con
đường xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng. Một số ít đã phai nhạt lý tưởng,
giảm sút ý chí phấn đấu, cá biệt có người đã phản bội đầu hàng, số này tuy rất ít
nhưng hoạt động của họ gây tác hại rất xấu.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, tình hình chính trị thế giới càng
diễn biến phức tạp, đề quốc Mỹ càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược thế giới một
cực, lợi dụng việc chống khủng bố để tiến công một số nước, bất chấp luật pháp
quốc tế. Những cuộc chiến đẫm máu nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Nam tư,
Ápgannítxtan… làm cho thế giới ngày càng phức tạp thêm.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ngày càng thu được
những thành tựu to lớn, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục phát triển.
Đó là nhân tố quyết định nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta trên
trường quốc tế. Thành tựu to lớn đó, bắt nguồn và được quyết định bởi những
thành tựu của công tác xây dựng Đảng. Cùng với tiến trình lãnh đạo đổi mới, công
tác xây dựng đảng luôn được Đảng coi trọng. Đảng đã từng bước trưởng thành
trong điều kiện mới, bản chất giai cấp công nhân của Đảng từng bước được tăng
cường, làm cho Đảng ta thực sự là một Đảng mácxit chân chính trong điều kiện
hiện nay.
Để tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong những năm tới,
để sứng đáng là người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta, thực hiện thắng lợi mục tiêu thời kỳ đẩy mạnh cồn nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tiến tới mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh, cần nhìn nhận, xem xét bản chất giai cấp công nhân của Đảng và hoạt động

tăng cường bản chất ấy trong hơn 20 năm qua.

14


Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành
ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt
Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong khối đại đoàn kết dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp
to lớn vào quá trình phát triển của Đất nước cùng với các giai cấp khác, tầng lớp
và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị- xã hội
vững chắc của Đảng và Nhà nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân
ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm
trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế, đa phần công nhân từ
nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm
thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính của giai cấp công nhân chưa thể hiện
đầy đủ, giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đều,
sự hiểu biết về chính trị, pháp luật còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo

xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa tha thiết phấn đấu
vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị-xã hội. Nhìn tổng
15


quát, lợi ích của một bộ phận chưa tương xứng những thành tựu của công cuộc đổi
mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân
lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân va doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Tình hình trên có nhiều nguyên nhân: Quá trình đổi mới, phát triển
kinh tế- xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp
công nhân, tuy nhiên những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế xã hội cũng
ảnh hưởng hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của
công nhân. Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân nhưng quan tâm chưa
đầy đủ, chưa ngang tầm với với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ
đổi mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật này vấn còn nhiều hạn
chế, bất cập. công đoàn và các tổ chức chính trị- xã hội khác có nhiều đóng góp
tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân nhưng hiệu quả chưa cao, còn
nhiều yếu kém. Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng
góp tích cực vào tạo việc làm và thu nhập cho công nhân, nhưng không ít trường
hợp còn vi phạm chính sách, pháp luật đối với người lao động.
Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh
của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng,
phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
16


ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc- động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước,
đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân
trên toàn thế giới.
Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặn chẽ
với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước,
hội nhập kinh tế quốc tế, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân,
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, nhà nước và toàn
xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan
tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai câp công nhân.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng
trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây
dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao,
ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững
vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công
nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động, trong đó, sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn
có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức công đoàn. Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị- xã hội khác trong giai
cấp công nhân vững mạnh.

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh
chính trị vững vàng, có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu
17


cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước, có tinh
thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng
cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yếu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí
thức hóa: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả
năng tiếp cận và làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế, có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động cao.
Từ nay đến 2010 phải phấn đấu quyết liệt để hình thành và phát triển chiến
lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược xây dựng phát
triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết có hiệu
quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được bước
chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của công nhân (như nhà ở, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh
hoạt văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ…) tương sứng với những thành quả của công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân.
Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh
nghiệp. Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành
công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề
cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân.
Nâng cao hơn nữa về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp

luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh
trong công nhân, nhất là công nhân trẻ.
18


Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
Tăng số lượng và chất lượng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm
thanhg lập tổ chức cơ sở đảng ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy
định của Điều lệ Đảng; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức
đảng tại các doanh nghiệp phù hợp với từng thành phần kinh tế.
Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam trong các loại hình
doanh nghiệp. Củng cố, đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng
các tổ chức cơ sở đã có; sớm thành lập tổ chức có sở Đảng tại các doanh nghiệp có
đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và điều lệ của các tổ chức đó; tăng số
lượng và chất lượng của các tổ chức cơ sở này tại các loại hình doanh nghiệp, nhất
là ở những doanh nghiệp có đông công nhân.

19


PHẦN C: KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu của Người, như: “Đường cách
mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc” và “Di chúc” v.v... cho ta thấy được quá trình phát
triển nhận thức của Đảng ta về bản chất giai cấp công nhân của Đảng (thể hiện
trong Điều lệ của Đảng) từ năm 1930 đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là
một vấn đề rất lớn, then chốt quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Với những nội dung nêu trên đã khẳng định, những nhận thức, những
quan điểm lý luận vẫn còn có giá trị thực tiễn sâu sắc trong thời đại ngày nay.
Trong suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến

bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá
trị. Những tư tưởng đó đã, đang và sẽ mãi tiếp tục soi đường cho công cuộc xây
dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta.
Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu các tác phẩm của Người là vô cùng
cần thiết, nhằm quán triệt và vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ta, làm
cho Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ
của cách mạng đặt ra. Đồng thời thông qua đó góp phần bổ sung, phát
triển lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân luôn
tràn đầy sức sống trong mọi thời đại, mà trước hết trong thời đại ngày nay.
Đảng ta luôn coi việc quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng và xây dựng Đảng vào trong công tác xây dựng Đảng ta
hiện nay là vấn đề sống còn của Đảng. Để Đảng ta thật sự trong sạch vững
mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo và niềm tin của nhân dân, xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,lãnh đạo nhân
dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội..

20


21



×