Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

GIẢI PHÁP THU hút NGOẠI tệ của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại cổ PHẦN đầu tư và PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.83 KB, 88 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

GIẢI PHÁP THU HÚT NGOẠI TỆ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


2

HÀ NỘI - NĂM 2015


NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

GIẢI PHÁP THU HÚT NGOẠI TỆ CỦA


NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH HẢI PHÒNG
CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ

: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
: 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN


4

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được nêu trong Luận văn có nguốn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu do chính tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Lan.
Hà Nội, tháng 9 năm 2015
Người thực hiện

NGUYỄN THỊ HƯỜNG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NHTM
TMCP
NHNN
NHTƯ
PGD
TCTD
TCKT

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Ngân hàng Thương mại
Thương mại cổ phần
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Trung ương
Phòng giao dịch
Tổ chức tín dụng
Tổ chức kinh tế

KÝ HIỆU
ADB
ASEAN

VIẾT ĐẦY ĐỦ
The Asian Development Bank
Association of Southeast Asian Nations

TIẾNG VIỆT
Ngân hàng Phát triển châu Á
Hiệp hội các Quốc gia Đông


ATM
ODA
FDI
SWIFT

Nam Á
Automated Teller Machine
Máy giao dịch tự động
Official Development Assistant
Viện trợ phát triển chính thức
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Society for Worldwide Interbank and Hiệp hội viễn thông liên Ngân

WTO

Financial Telecommunication
Worrld Trade Organnization

hàng và tài chính quốc tế
Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

STT
1
2
3
4

5

Ký hiệu
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5

Tên bảng biểu
Tình hình huy động vốn tại BIDV Hải Phòng
Hệ số đòn bẩy tài chính
Tình hình tín dụng tại BIDV Hải Phòng
Cơ cấu huy động vốn ngoại tệ
Thị phần thu hút kiều hối của các Ngân hàng trên địa

Trang
34
36
38
50
53

bàn Hải Phòng

STT
1

Ký hiệu
Sơ đồ 2.1


STT

Ký hiệu

1

Biểu đồ 2.1

Tên sơ đồ
Cơ cấu tổ chức của BIDV Hải Phòng

Tên biểu đồ
Lợi nhuận trước thuế BIDV Hải Phòng

Tran
g
32
Tran
g
33


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT........................................................................ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ........................................................................i
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................v

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................57
CHƯƠNG 3: .........................................................................................................58
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VỐN NGOẠI TỆ CỦA BIDV HẢI
PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI....................................................................58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3......................................................................................77
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................1


v

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Với đặc trưng của hoạt động Ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Bản chất của
Ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn Ngân hàng huy động được lại là
nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn càng có ý nghĩa
quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng phải
thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động.
Ngoài nguồn vốn bằng đồng nội tệ thì nguồn vốn bằng ngoại tệ cũng hết sức quan
trọng. Vì vậy, việc thu hút nguồn vốn bằng ngoại tệ rất cần thiết đối với hoạt động
của Ngân hàng.
Trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, cùng chính sách mở cửa hội nhập quốc
tế và khu vực, các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động giao lưu
thương mại của nước ta với các nước trên thế giới trong những năm gần đây đã
ngày càng mở rộng và phát triển. Hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến
thương mại quốc tế ngày càng phát triển, việc thu hút nguồn vốn ngoại tệ là việc
làm thường xuyên và thiết yếu. Ngoài ra, trong bối cảnh quốc tế hiện nay với những
cạnh tranh thương mại gay gắt, để có khả năng chủ động hơn trong tiến trình hội

nhập và khẳng định mình trên trường quốc tế thì vấn đề vốn, đặc biệt là nguồn vốn
ngoại tệ đang trở thành một vấn đề vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Là một trong những NHTM lớn ở Việt Nam, với mạng lưới hoạt động rộng
khắp toàn quốc, NHTMCP BIDV Việt Nam đã thực hiện hoạt động kinh doanh đa
năng và có hiệu quả góp phần trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh
đó, quá trình cổ phần hóa, áp lực cạnh tranh khốc liệt thì Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam cần phải tìm kiếm và đưa ra những biện pháp hữu hiệu
nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn ngoại tệ là nhiệm vụ bức thiết của chi nhánh
trong thời gian tới.


2
Bản thân tôi là người được đào tạo chính quy về Tài chính – Ngân hàng, có
đủ kiến thức để nghiên cứu về lĩnh vực này. Chính vì lẽ đó, tôi đã chọn: ‘‘Giải
pháp thu hút ngoại tệ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - chi nhánh Hải Phòng’’ làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ vai trò của nguồn vốn nói chung và vốn ngoại tệ nói riêng với
NHTM
- Phân tích thực trạng thu hút vốn ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam - chi nhánh Hải Phòng trong thời gian qua (giai đoan 2012
-2014), chỉ ra kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân từ đó đề xuất
các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút vốn ngoại tệ cho Ngân hàng.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục các tồn tại hạn chế và đẩy
mạnh thu hút nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - chi nhánh Hải Phòng trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp thu hút vốn ngoại tệ
tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh Hải Phòng trong

thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là luận duy vật biện
chứng, kết hợp với lịch sử, phương pháp thống kê và phân tích, so sánh đối chiếu để
đánh giá thực tế và đề xuất giải pháp, tổng hợp giữa lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu thành ba chương :
Chương 1: Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và hoạt động thu hút vốn
ngoại tệ của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển - chi nhánh Hải Phòng (Giai đoạn 2012- 2014).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút vốn ngoại tệ của của Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Hải Phòng trong thời gian tới.


3

CHƯƠNG 1:
NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN NGOẠI TỆ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1.
Khái quát về nguồn vốn NHTM
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Ngân hàng, được phép thực hiện tất cả các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động Ngân hàng là việc kinh
doanh cung ứng thường xuyên một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng,
cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Các NHTM muốn hoạt động bình
thường thì phải có vốn. Vốn của NHTM gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có đặc

điểm, phương thức sử dụng và biện pháp quản lý khác nhau.
Có thể định nghĩa vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh khác.
Vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhãn rỗi
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng
gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Ngân hàng đã thực hiện
vai trò tập trung và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình
luân chuyển, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
1.1.2. Kết cấu, đặc điểm và vai trò của nguồn vốn
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong sản suất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau.
Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển
đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và các hoạt động về nguồn
vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Nguồn vốn


4
đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của các NHTM trong việc
thực hiện các chức năng của mình.
Cơ cấu vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và
một số nguồn vốn khác.
Sơ đồ Nguồn vốn của NHTM:
1. Vốn và các quỹ

3.3. Tiền vay của TCTD khác

1.1. Vốn của tổ chức tín dụng


4. Các công cụ tài chính phái sinh và
các khoản nợ tài chính khác

1.2. Quỹ của tổ chức tín dụng

5. Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư, cho vay
TCTD chịu rủi ro

1.3. Chênh lệch tỷ giá hối đoái

6. Phát hành giấy tờ có giá

1.4. Chênh lệch đánh giá lại tài sản

7. Các khoản nợ khác

1.5. Lợi nhuận chưa phân phối

7.1. Các khoản lãi phí phải trả

2. Tiền gửi của khách hàng

7.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn

3. Tiền gửi và vay

lại phải trả
7.3. Các khoản phải trả và công nợ

3.1. Các khoản nợ chính phủ và


khác
7.4. Dự phòng rủi ro cho công nợ tiềm

NHNN
3.2. Tiền gửi của TCTC khác

ẩn và các cam kết ngoại bảng

1.1.2.1.Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ Ngân hàng phải có để hoạt động thuộc
quyền sở hữu của NHTM. Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu rất đa dạng, tùy theo tính
chất sở hữu, năng lực tài chính của Ngân hàng yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng bao gồm:
- Vốn điều lệ: Là mức vốn được hình thành khi Ngân hàng được thành lập.
Vốn điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối


5
thiểu phải có khi thành lập một Ngân hàng do pháp luật qui định. Vốn điều lệ được
ghi vào điều lệ thành lập Ngân hàng. Tuỳ thuộc vào loại hình Ngân hàng mà vốn
điều lệ được hình thành từ những nguồn gốc khác nhau như Ngân hàng quốc doanh:
Vốn điều lệ được hình thành từ Ngân sách nhà nước cấp; Ngân hàng cổ phần: Vốn
điều lệ được hình thành từ vốn góp của các cổ đông thông qua việc mua các cổ
phiếu; Ngân hàng liên doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các bên
liên doanh; Ngân hàng nước ngoài: Vốn điều lệ được hình thành từ 100% vốn nước
ngoài; Ngân hàng tư nhân: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn của chủ Ngân hàng.
- Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động bao gồm: Cổ phần phát hành thêm,
Ngân sách nhà nước cấp thêm; thặng dư vốn cổ phần; lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở
hữu; các quỹ dự trữ và dự phòng và các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản,

chênh lệch tỷ giá theo quy định của pháp luật. Chiếm một tỷ trọng nhỏ trong các
khoản mục tạo nên nguồn vốn (thường chỉ chiếm 5% trong tổng nguồn vốn) nhưng
nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn
định nên Ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ
sở vật chất kỹ thuật, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân Ngân hàng, có thể sử
dụng cho vay, đặc biệt là đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ,
vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng được coi như là tài sản đảm bảo gây lòng tin với
khách hàng, duy trì khả năng thanh toán cho khách hàng khi Ngân hàng hoạt động
thua lỗ. Hơn nữa nó là một căn cứ quyết định đối với qui mô và khối lượng vốn huy
động cũng như hoạt động cho vay và bảo lãnh của Ngân hàng. Quy mô và sự tăng
trưởng vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng sẽ quyết định năng lực phát triển của
NHTM. Khi đánh giá về qui mô của một NHTM thì tiêu chí đầu tiên được đề cập là
vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng đó. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu đóng vai trò là tấm
đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những tổn thất về tài chính và
nghiệp vụ. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng đóng vai trò sống còn trong việc duy trì
các hoạt động thường ngày và đảm bảo cho Ngân hàng phát triển lâu dài.
1.1.2.1. Nguồn vốn huy động
Vốn huy động là tài sản bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ) và bằng vàng của các tổ
chức và cá nhân mà Ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm


6
hoàn trả. Nguồn vốn huy động của các NHTM chiếm tỷ trọng tới hơn 90% trong
tổng nguồn vốn. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất của
NHTM. Vì vậy, các hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và phát triển
được là nhờ nguồn vốn huy động này. Vốn huy động được hình thành từ hai bộ
phận là vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ
có giá.
- Vốn huy động tiền gửi: Là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được từ các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân… trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền

gửi, thanh toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh
khác. Bản chất của tài khoản tiền gửi là tài sản thuộc sở hữu của các đối tượng
khách hàng khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết khấu,
thanh toán… nhưng không có quyền sở hữu, Ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn
trả đúng hạn cả gốc và lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Tiền
gửi chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động của các NHTM.
Các hình thức nhận tiền gửi của các NHTM rất đa dạng, tuỳ thuộc vào các
tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
 Theo tiêu thức nguồn hình thành
- Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà cá nhân
và tổ chức trực tiếp chuyển vào Ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tết kiệm, doanh nghiệp
nộp tiền bán hàng… Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được
Ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với kỳ hạn và mục
đích khác nhau, các cá nhân thường gửi tiền để hưởng lãi còn các tổ chức doanh
nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng.
- Tín dụng tạo tiền gửi: Ít người biết được rằng đây là một hình thức nhận
tiền gửi. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay vốn thì Ngân hàng chuyển số tiền cho
vay của khách hàng vào tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay trong Ngân hàng.
Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay lập thì Ngân hàng có thể sử dụng số
tiền đó mặc dù với thời hạn rất ngắn.
• Theo tiêu thức kỳ hạn


7
Ngày nay người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để
có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi và là cơ sở để Ngân hàng xây dựng chiến
lược dự trữ phù hợp và chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn đó vào quá trình
hoạt động kinh doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là các khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác
định, người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào tuỳ theo nhu cầu của mình do đó lãi

suất của loại tiền gửi này thường thấp hơn so với các loại tiền gửi có kỳ hạn xác
định. Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu của những khách hàng chưa có dự
định rõ ràng trong tương lai. Đây là hình thức chủ yếu được các doanh nghiệp lựa
chọn nhằm mục đích giao dịch trong kinh doanh. Do vậy lượng tiền gửi không kỳ
hạn thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Với đặc tính của nguồn tiền này là luôn biến động cho nên Ngân hàng chỉ được sử
dụng một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được
nhất định tuỳ thuộc vào dự tính của Ngân hàng về sự ổn định tương đối của lượng
tiền huy động được trong thời gian tới. Quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần
quan trọng của quả lý dự trữ của Ngân hàng.
- Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa người gửi
tiền và Ngân hàng về số lượng, kỳ hạn và lãi suất của khoản tiền gửi đó. Do có sự
xác định rõ ràng về kỳ hạn nên Ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn
tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn. Do đặc tính của khoản tiền gửi này là có độ ổn định cao nên Ngân hàng chủ
động trong việc sử dụng nguồn tiền đó để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình, vì vậy Ngân hàng trả lãi cho người gửi tiền cao hơn lãi suất của loại tiền gửi
không kỳ hạn và tiền giửi thanh toán. Các khách hàng gửi tiền theo loại này thì khi
đến hạn sẽ được hoàn trả cả gốc và lãi theo qui định, nếu chưa đến hạn mà khách
hàng gửi tiền rút tiền ra trước thì khách hàng chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi
không kỳ hạn.
• Theo tiêu thức loại tiền
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi cơ bản mà các NHTM nhận được,
nguồn vốn nội tệ là nguồn vốn chủ yếu đối với các Ngân hàng, nó phụ thuộc vào


8
mức thu nhập trong nước và lãi suất huy động trong từng thời kỳ, loại tiền này
thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng tiết kiệm.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh nhận tiền gửi nội tệ, Ngân hàng còn nhận tiền

gửi dưới dạng ngoại tệ đặc biệt là các ngoại tệ mạnh như USD, GBP, EUR, AUD,
… Những ngoại tệ này cũng rất cần thiết trong hoạt động của Ngân hàng như kinh
doanh ngoại tệ trong nước, trong quan hệ tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc
tế… Các Ngân hàng có xu hướng mở rộng kinh doanh đối ngoại thường có nguồn
vốn ngoại tệ lớn. Nhận tiền gửi bằng ngoại tệ là một phương thức đa dạng hoá về
phương thức huy động vốn của các NHTM.
NHTM là một Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ trong đó tiền là nguyên liệu
chính trong việc tạo ra sản phẩm của Ngân hàng, là một thứ nguyên liệu độc tôn
không thể thay thế. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của Ngân hàng là hoạt động
huy động vốn. Do đặc trưng của nguồn vốn huy động là luôn có một lượng tồn
khoản rất lớn và Ngân hàng có thể sử dụng lượng tồn khoản này để phục vụ cho quá
trình hoạt động kinh doanh của mình. Nên tình hình hoạt động của Ngân hàng phụ
thuộc rất lớn vào tình hình huy động vốn của chính Ngân hàng đó.
- Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt
động của các Ngân hàng.
Nguồn vốn khả dụng của Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt động bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của
Ngân hàng. Thông thường so với các Ngân hàng nhỏ thì các Ngân hàng lớn có các
khoản mục về đầu tư, cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng tín dụng cũng
lớn hơn. Trong khi các Ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt dộng chủ yếu trong
một khu vực nhỏ hay trong một quốc gia. Nếu khả năng vốn của Ngân hàng lớn thì
Ngân hàng có thể mở rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án
lớn (về qui mô tín dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng về các dịch vụ của Ngân hàng.
- Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Trong cơ cấu vốn của Ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn huy
động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một Ngân hàng không thể chỉ hoạt động với


9

nguồn vốn tự có và vốn đi vay vì vốn tự có của Ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của Ngân hàng còn vốn vốn đi vay thì Ngân hàng phải
phụ thuộc vào đối tượng cho vay về thời hạn, số lượng và các chi phí khác. Do đó
có thể Ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh. Ngược lại nếu Ngân hàng có
lượng vốn lớn sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình. Nguồn vốn lớn làm
tăng khả năng hoạt động của Ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hình thức và
phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục
tiêu cuối cùng của Ngân hàng là an toàn và sinh lời.
- Thứ ba: Vốn huy động giúp Ngân hàng nâng cao vị thế của mình trong lòng
thị trường.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì
Ngân hàng phải tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả
năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng cao
chỉ khi Ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín của Ngân hàng còn
thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể cho
vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như Ngân hàng có nguồn vốn lớn và ổn định
- điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
- Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiến lược cạnh
tranh hợp lý thì yếu tố vế khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối cùng.
Nếu Ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu
hút khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch
vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên kết, đầu tư trên
thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ… Bằng chính những hoạt động này sẽ góp
phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao
khả năng cạnh tranh của Ngân hàng… Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của
Ngân hàng.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên từng

Ngân hàng phải hoạch định được chiến lược huy động vốn cho đơn vị mình nhằm


10
chủ động tạo lập được nguồn vốn ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình - đó là yếu tố đầu tiên quyết định đến hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng.
1.1.2.2. Vốn vay
Vốn vay là nguồn vốn giúp các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn của
mình để đảm bảo duy trì hoạt động một cách bình thường. Trong quá trình kinh
doanh của các NHTM, luôn có tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn. Khi đó các
Ngân hàng có thể gửi vào các TCTD khác để hưởng lãi, hay đi vay vốn để tận dụng
cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn vay được phân thành hai nhóm vốn vay từ Ngân hàng trung ương và
vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng.
- Vay từ Ngân hàng Trung ương
Tuỳ theo tình hình hoạt động của Ngân hàng trong từng thời kỳ và lý do của
các khoản vay của mình mà Ngân hàng có những hình thức vay phù hợp. Với các
hình thức vay như trên Ngân hàng có thể mất rất nhiều thời gian. Đối với mục đích
sử dụng ngay như để đảm bảo khả năng thanh khoản cho Ngân hàng thì hai hình
thức vay vốn trên không phù hợp. Ngân hàng có thể sử dụng phương thức khác như
vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay ở NHTƯ. Thực tế cho thấy hoạt động
huy động vốn và sử dụng vốn thì không đồng đều giữa các Ngân hàng, ở những thời
điểm có những Ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có những Ngân hàng tạm thời đang
thừa vốn thì các Ngân hàng này có thể vay mượn lẫn nhau vì mục đích của cả đôi
bên. Hơn nữa các Ngân hàng đều làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế nên các
Ngân hàng đều mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau và trong những trường hợp Ngân
hàng nào đó thiếu vốn để thanh toán chi khách hàng của mình thì Ngân hàng kia có
thể cho vay để Ngân hàng đó đảm bảo khả năng thanh toán. Trong những trường
hợp cấp bách mà Ngân hàng không thể vay được ở các Ngân hàng khác thì có thể

vay ở NHTƯ vì NHTƯ là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. NHTƯ có
thể cho các tổ chức tín dụng vay vốn ngắn hạn dưới hai hình thức:
+ Tái cấp vốn: NHTƯ cho các NHTM vay vốn trên cơ sở các chứng từ có
giá. Các chứng từ này phải hợp lệ, hợp pháp và an toàn. Tái cấp vốn gồm có các


11
hình thức: Cho vay bằng chiết khấu hoặc tái chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay có
bảo đảm bằng giấy tờ có giá và các hình thức tái cấp vốn khác.
+ Cho vay thanh toán: khi các NHTM tham gia hệ thống thanh toán bù trừ,
nếu Ngân hàng nào thiếu vốn để thanh toán thì sẽ được Ngân hàng nhà nước cho
vay để đảm bảo các khoản giao dịch thanh toán bù trừ thực hiện. Khi cho vay thanh
toán, NHTƯ có thể áp dụng một trong hai phương thức cho vay là cho vay qua đêm
hoặc cho vay thấu chi.
Việc NHTM vay vốn ở NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ quốc gia
trong từng thời kỳ mà NHTƯ có thể cho vay với khối lượng, thời hạn, lãi suất, hạn
mức… khác nhau để thực hiện chính sách tiền tệ của mình.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu
kết dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc
giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các Ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay
mượn tức thời để đảm bảo thanh toán.
Vốn vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của
NHTM, có vai trò góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh, đảm bảo khả
năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu quả sử dung vốn của NHTM. Các
khoản vay trên thị trường liên Ngân hàng dùng để bổ sung nguồn vốn hoạt động,
các Ngân hàng có nhu cầu vay thêm trên thị trường tiền tệ khi cần mở rộng kinh
doanh, bổ sung nguồn vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của mình. Các
nguồn vay từ NHTƯ chỉ có ý nghĩa nâng cao khả năng thanh khoản, tăng thêm

nguồn vốn để cho vay. Ngoài ra, khi Ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, có
nguy cơ sụp đổ, NHTƯ có thể đứng ra cấp vốn cho Ngân hàng nhằm tránh nguy cơ
gây ra khủng hoảng do hiệu ứng lan truyền.
1.1.2.3. Nguồn vốn khác
- Điều chuyển vốn
Ngày nay hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty và các
công ty con gồm Ngân hàng mẹ và các hệ thống các Ngân hàng Chi nhánh trực
thuộc. Có một phương thức huy động vốn rất hiệu quả hiện nay là chu chuyển vốn


12
điều hoà. Do tình hình hoạt động của các chi nhánh tại các địa bàn khác nhau là
khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, do phong
tục tập quán…). Cho nên những Chi nhánh Ngân hàng mà hoạt động sử dụng vốn
vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên Ngân hàng mẹ và xin
được nhận được một lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt động của mình. Còn
những Ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn thì
đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về Ngân hàng mẹ để được
hưởng lãi suất điều hoà. Như vậy Ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn
từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh trong cùng hệ thống. Chi phí nhận
nguồn vốn điều hoà này thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng các Ngân
hàng chỉ được nhận nguồn vốn này sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn huy động
được trong kỳ sau.
- Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
Một số Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng đại lý. Khi đó trong
nguồn vốn của Ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Nguồn vốn
này được hình thành chủ yếu là do các tổ chức tài chính trong nước hoặc nước
ngoài uỷ thác cho Ngân hàng một khoản tiền để Ngân hàng thực hiện cho vay đối
với các dự án của mình, cũng có thể là các khoản vay của Chính phủ được uỷ thác.
- Vốn trong thanh toán

Số vốn có được do NHTM làm trung gian thanh toán như số vốn trong thời
gian như đã trích tài khoản của người chi trả nhưng chưa chuyển vốn vào người thụ
hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán; số vốn trong thời gian khách
hàng lưu ký tại Ngân hàng nhưng chưa thanh toán. Ngày nay, khi công nghệ ngày
càng hiện đại, quy trình, thủ tục, thanh toán được cải tiến thì thời gian của mỗi
khoản thanh toán được giảm đi đáng kể, do đó, vốn mà Ngân hàng có được trong
mỗi khoản thanh toán cũng giảm. Ngoài ra, còn có các khoản phí, lãi phải trả đã
trích nhưng chưa trả, công nợ nội bộ chưa thanh toán.
Trên đây là các nguồn hình thành nên nguồn vốn của các NHTM, nhìn qua ta
thấy trong cơ cấu tổng nguồn vốn thì vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao
nhất (trên 90%), nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng


13
vốn của Ngân hàng. Vì vậy từng Ngân hàng phải có những chiến lược huy động
vốn của riêng mình trên cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế của từng Ngân hàng và
của môi trường kinh doanh để không ngừng nâng cao thị phần huy động nhằm phục
vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2. Hoạt động thu hút vốn ngoại tệ của Ngân hàng thương mại
1.1.3. Các nguồn vốn ngoại tệ
1.1.3.1. Nguồn hình thành từ các hoạt động kinh tế trong nước
- Thứ nhất, ngoại tệ trong dân cư
Ngoại tệ trong dân cư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do thừa
kế, cho tặng, buôn bán tiểu ngạch,... tuy là những món nhỏ, nằm rải rác trong dân
cư nhưng cũng chiếm tỷ trọng đáng kể nếu huy động được.
- Thứ hai, ngoại tệ thu từ xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là đưa nguồn tài nguyên, hàng hóa của một nước ra
nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ. Xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ cần thiết cho tích
lũy ban đầu, cho quá trình phát triển đất nước, tạo ra sự phồn vinh kinh tế. Ngoại tệ
thu được do xuất khẩu hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của quốc gia, không lệ thuộc

vào nước ngoài. Nguồn vốn này được sử dụng để nhập máy móc, nguyên liệu, hay
để trả nợ nước ngoài do đó lại tiếp tục thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tạo ra
sự canh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, do đó lại kích thích đẩy mạnh việc đổi
mới và cải tiến nhanh chóng công nghệ và tăng năng suất lao động. Việc xuất khẩu
hàng hóa ra thị trường quốc tế buộc các nhà sản xuất trong nước phải cải tiến quy
trình sản xuất sản phẩm nội địa để có thể đáp ứng được chuẩn mực cao về kỹ thuật
và chất lượng trên thị trường quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ tạo ra nguồn ngoại tệ cho quốc gia mà còn
tiếp cận được nhiều thông tin và kiến thức về kỹ thuật và quản lý đồng thời tham
gia sâu hơn và có hiệu quả vào sự phân công lao động quốc tế, từng bước hội nhập
nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, nâng cao uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế, góp phần thực hiện đường lối kinh tế mà Chính phủ đề ra.
Xuất khẩu sẽ tạo ra nguồn ngoại tệ để bù đắp nhiều lỗ hổng, nhập thiết bị và
công nghệ cần thiết trả nợ và lãi cho các khoản vay nợ nước ngoài... và do đó lại


14
tiếp tục thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, bao gồm cả những ngành sản xuất
thay thế nhập khẩu phát triển mạnh hơn, tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội, hàng
ngoại, bổ sung thêm những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc làm ra
chưa đủ phục vụ nhu cầu sản xuất tiêu dùng trong nước.
- Thứ ba, hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ
Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, sự giao lưu kinh tế giữa các nước ngày
càng phát triển thì hoạt động dịch vụ cũng không ngừng tăng lên. Dịch vụ thu ngoại
tệ bao gồm: du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo
hiểm quốc tế, dịch vụ kiều hối. Các dịch vụ đó được coi là xuất nhập khẩu hàng hóa
vô hình. Cùng với xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình, xuất nhập khẩu hàng hóa vô
hình ngày càng có vai trò to lớn trong việc làm tăng vốn ngoại tệ của một quốc gia.
1.2.1.2. Nguồn ngoại tệ từ ngoài nước
- Từ các dự án tài trợ phát triển chính thức:

Hỗ trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức ODF khác. ODA chiếm
tỷ trọng lớn chủ yếu trong nguồn ODF.
Nguồn ODF là nguồn phát triển do các tổ chức quốc tế, Chính phủ (hoặc cơ
quan đại diện Chính phủ) cung cấp. Đó là do các tổ chức quốc tế như: Chương trình
phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, Ngân
hàng Phát triển Châu Phi (AFDB)... các quỹ và hiệp hội phát triển khác như: Quỹ
nông nghiệp và phát triển quốc tế, Hiệp hội phát triển quốc tế...
Nguồn vốn này được sử dụng để hỗ trợ các nước nghèo thực hiện các
chương trình phát triển và tăng phúc lợi của mình và nó đem lại rất nhiều lợi thế
cho các nước đang phát triển như: lãi suất thấp, thời hạn vay dài hoặc viện trợ
không hoàn lại.
ODA với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển nên mang tính chất ưu
đãi cao hơn so với bất kỳ nguồn tài trợ nào. Song, đôi khi ODA, nhất là các khoản
do Chính phủ cung cấp, thường được gắn với các ràng buộc nào đó về mặt chính trị,
xã hội, thậm chí về quân sự. Với những điều kiện đó, không phải nước nào cũng có


15
thể nhận được viện trợ hoặc sử dụng viện trợ có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng
của mình. ODA được thực hiện dưới hình thức cho vay của nước cấp vốn nên các
nước nhận coi đây là nợ nước ngoài.
Bởi vậy, nếu đồng tiền của nước cung cấp tăng giá so với đồng tiền của nước
tiếp nhận thì điều này càng tăng thêm gánh nợ của các nước nhận viện trợ. Trên
thực tế, nguồn vốn này đã giúp Việt Nam thực hiện được một số dự án hiệu quả như
dự án viễn thông, cấp thoát nước...
- Vay của tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế:
Các điều kiện ưu đãi dành cho các nguồn vốn này không dễ dàng như nguồn
tài trợ phát triển chính thức. Song bù lại, nó có ưu điểm rõ ràng là hầu như không có
ràng buộc chính trị - xã hội. Tuy nhiên, thủ tục khắt khe, thời hạn trả nợ nghiêm

ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Bộ
phận lớn nhất của nguồn vốn này là do các NHTM trên thế giới. Các NHTM cung
cấp các khoản cho vay theo lãi suất thị trường, chủ yếu được sử dụng để đáp ứng
các yêu cầu xuất nhập khẩu, thường là ngắn hạn và tính theo đồng USD. Vì đây là
những tổ chức tài chính tư nhân dựa trên cơ sở thương mại nên những khoản vay
này không thể dành cho tất cả các nước đang phát triển mà chỉ dành cho các nước
đang phát triển có mức thu nhập trung bình hoặc tỏ ra có triển vọng kinh tế sáng
sủa.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp:
Mục tiêu của đầu tư trực tiếp là để tìm kiếm lợi nhuận, vì vậy nó chỉ hướng
vào những nơi có nhiều triển vọng, có khả năng mang lại lợi nhuận trong tương lai.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp có hai lợi thế quan trọng, đó là
không bị coi là nợ trong cán cân thanh toán quốc tế và chuyển giao công nghệ. Do
những thế mạnh riêng này, các nước đang phát triển cạnh tranh quyết liệt để giành
những nguồn đầu tư trực tiếp.
Bên canh các ưu điểm nổi bật đó, hình thức chuyển giao vốn này lại chứa
đựng khả năng các doanh nghiệp nước ngoài thống trị nền kinh tế bản địa. Trường
hợp này xảy ra khi việc kiểm soát và điều tiết của Chính Phủ nước chủ nhà đối với


16
tư bản nước ngoài bị buông lỏng. Sâu xa hơn, nó có nguồn gốc từ năng lực kinh
doanh thấp của các nhà doanh nghiệp bản địa, từ khả năng hạn chế của Chính phủ
nước đó trong việc định hướng và thực thi một chiến lược phát triển đúng đắn. Sự
chuyển giao công nghệ nếu là công nghệ lạc hậu sẽ gây ra sự ô nhiễm môi trường
sinh thái, sẽ là nước tiêu thụ phế thải cho nước nhận đầu tư. Vì lý do này mà trong
suốt nhiều năm, khối lượng FDI trên thế giới không tăng mạnh. Tuy nhiên, kinh
nghiệm phát triển của một số nước Châu Á lại cho thấy rằng đây là nguồn lực đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì vậy, các nước này đã
có tốc độ phát triển vốn đầu tư nước ngoài nhanh chóng.

1.1.4. Vai trò của ngoại tệ
Trong những năm gần đây các nhà kinh tế thế giới quan tâm rất nhiều đến
vai trò của vốn ngoại tệ đối với chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt đối với quá
trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Hầu hết các nhà kinh tế đều đi
đến một nhận xét thống nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế
của một nước do thu nhập thấp nên khả năng tích lũy vốn quá ít, từ đó thiếu vốn đầu
tư cho mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng, những công trình kinh tế cơ bản và do đó,
năng suất lao động trong nền kinh tế thấp và tất yếu dẫn đến thu nhập lại thấp hơn.
Vòng luẩn quẩn khắc nghiệt đó càng ngày càng thắt chặt lấy số phận kinh tế xã hội
của các nước chậm phát triển như một sợi dây oan nghiệt. Hơn nữa như ở Việt Nam
trong giai đoạn này do nền công nghiệp chưa phát triển nên hàng hóa xuất khẩu,
nếu có đa phần là sản phẩm như nông sản, hàng thủ công, dầu thô... có giá trị gia
tăng thấp – đây là một bất lợi trong phát triển. Ngược lại về phía nhập khẩu, nhu
cầu phát triển đòi hỏi phải nhập hàng cao cấp gồm các máy móc, thiết bị đắt tiền,
mua kỹ thuật công nghệ, các loại hóa chất,... là những thứ có giá trị gia tăng cao.
Cán cân thương mại và cán cân thanh toán vì thế hầu như luôn nằm trong tình trạng
thâm hụt nặng nề. Đối với nước nào không khống chế được xu hướng gia tăng nhập
khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt nạn buôn lậu qua biên giới thì tình trạng
thâm hụt toàn bộ thực tế còn tồi tệ hơn. Trong khi đó đồng tiền quốc gia chưa phải
là đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Vấn đề đô la hóa lại đang diễn ra, làm cho


17
ngoại tệ khan hiếm nhưng không tập trung được vào trong tay Nhà nước để phục vụ
cho chiến lược phát triển kinh tế. Vì vậy nhu cầu vốn ngoại tệ rất lớn và là thách
thức, khó giải quyết trong chặng đường phát triển đầu tiên của một nước.
1.2.3. Các hình thức thu hút vốn ngoại tệ của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Nhận tiền gửi ngoại tệ của dân cư và các tổ chức kinh tế, tài chính
Các Ngân hàng tìm kiếm nguồn vốn ngoại tệ trong dân cư và của các doanh
nghiệp có thu ngoại tệ qua hoạt động xuất nhập khẩu hay các dịch vụ thu bằng

ngoại tệ và của các tổ chức khác thông qua việc cung cấp các hình thức tiết kiệm, hệ
thống tài khoản tiền gửi và các công cụ nhận nợ khác.
Đối với nền kinh tế, khi mà chế độ quản lý ngoại hối còn cho phép người dân
có quyền gửi ngoại tệ vào Ngân hàng, ngoại tệ còn lưu hành trên lãnh thổ thì thói
quen tích lũy bằng vàng hay ngoại tệ còn tồn tại và khi nền kinh tế còn lạm phát cao
thì sự chuyển đổi giữa đồng nội tệ đang mất giá sang đồng ngoại tệ càng lớn gây
sức ép lên giá của đồng ngoại tệ và đồng ngoại tệ càng trở nên khan hiếm đối với
nền kinh tế, đây là một trong những biểu hiện của hiện tượng đô la hóa. Nhiều khi
Ngân hàng phải thực hiện thêm nhiệm vụ là tập trung được nguồn ngoại tệ này. Đây
không chỉ là mục đích kinh doanh của Ngân hàng tức thu hút ngoại tệ để cho vay
mà còn là nhiệm vụ thực hiện chính sách quản lý ngoại hối mỗi quốc gia.
Đối với nền kinh tế chuyển đổi luôn có khoảng cách lớn giữa cung ngoại tệ
và cầu ngoại tệ. Trong khi đó vấn đề đô la hóa lại đang diễn ra giữa các quốc gia
này, làm cho ngoại tệ đã khan hiếm nhưng lại không tập trung được vào trong tay
Nhà nước để phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế.
Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa đó là khi lạm phát cao hoặc việc kiềm
chế lạm phát chưa thật vững chắc thì các tổ chức kinh tế cũng như các cá nhân đều
muốn tránh hậu quả của lạm phát bằng cách chuyển đổi từ đồng bản tệ sang USD,
nhu cầu cất trữ USD tăng làm cho cầu USD lớn hơn cung trên thị trường và trực
tiếp làm cho giá USD tăng. Giá USD tăng lại kéo theo giá đầu vào và giá cả hàng
hóa tiêu dùng tăng tương ứng, chu kỳ tiếp diễn nhau làm cho vòng xoáy của lạm
phát tăng, USD càng được ưa chuộng.


×