Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

ôn tập TTHS chương 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.85 KB, 25 trang )

CHƯƠNG 2: CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
Câu 1: Phân biệt Cơ quan tiến hành TT và cơ quan tư pháp
Cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trong việc
giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hình sự, vụ án hành chính và thi hành án dân sự hoặc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thủ tục tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể trong xã hội. Các quyết định của các cơ quan này có giá trị bắt buộc
các chủ thể khác phải chấp hành. Hoạt động tố tụng của các cơ quan này mang tính độc
lập, không bị lệ thuộc vào cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào khác. Tuy vậy, để đảm bảo
được việc giải quyết vụ án và thi hành án đúng pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ quyền
hạn của mình các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng nhân dân, chịu sự giám sát của
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình. Các cơ quan TT trong TT hình sự bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
TA theo Điều 34 BLTTHS. Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ chức năng của mình theo
PL trong quá trình tố tụng.
Điều 102 khoản 2 của Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Bằng quy định
này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được
khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với
thời kỳ trước Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp đã được định
hình và thu hẹp phạm vi, dẫn đến những đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt
Nam. Hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án hay hệ thống tư pháp là một hệ thống tòa án
nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các
tranh chấp. Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, hệ thống các cơ quan tư pháp có vai trò
quan trọng trong việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả tổ chức, công dân.
Giống: Tòa án là 1 trong những cơ quan tiến hành tô tụng. Đều là cq nhà nước, thực hiện
quyền lực nhà nước thông qua giải quyết vụ việc DS,vụ án HS, vụ án HC. Các quyết định
có hiệu lực của các cq này mang tính bắt buộc. Hoạt động của các cq này mang tính độc
lập tuy nhiên phải đúng theo quy định của PL và chịu sự giám sát của nhân dân.
Khác: về chức năng, quyền hạn. Trong khi cơ quan tư pháp có chức năng chính là thực


hiện quyền tư pháp – quyền xét xử trong mọi vụ việc, vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng
phải thực hiện chức năng trong quyền hạn của mình.
Câu 2: Tất cả những cơ quan có thẩm quyền tiến hành các HĐ TTHS có phải đều là
cq tư pháp ko? Vì sao? (câu 1)
Câu 3: Khác biệt giữa việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS với việc giải quyết
VADS.
1


Trong số những nguyên tắc cơ bản quy định tại chương II Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
(BLTTHS) có nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong cùng vụ án hình sự làm định
hướng cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT).
Khi áp dụng nguyên tắc này, nhiều vấn đề bất cập nảy sinh ảnh hưởng tới tính khách
quan, công bằng không chỉ đối với những nội dung của trách nhiệm dân sự mà cả việc
xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) của những người tham gia tố tụng. Vì vậy, đòi hỏi
phải làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như việc đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật liên quan đến nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự mà người viết
đưa ra để trao đổi.
1. Chương II Bộ luật TTHS 2003 quy định những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS,
trong đó có nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28 Bộ luật
TTHS). Nguyên tắc cơ bản này có những đặc điểm sau:
1. Giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật
TTHS nên nó chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng của Đảng
và Nhà nước ta là giải quyết vấn đề dân sự cùng với TNHS trong vụ án hình sự, không
tách riêng vấn đề dân sự để giải quyết thủ tục tố tụng dân sự. Mặt khác, do đây là một
nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS nên định hướng này chi phối toàn bộ quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự nảy sinh do việc
thực hiện tội phạm. Vì vậy trong quá trình tố tụng, ngoài việc phải chứng minh và giải
quyết phần trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và
giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ

các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tố chức. Định hướng này không những có tác
dụng giải quyết triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh do việc thực hiện tội
phạm mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người
phạm tội trong việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc việc khắc phục hậu quả
do hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy, quan điểm cho rằng giải quyết trách nhiệm dân sự
phát sinh do việc thực hiện tội phạm chỉ xuất hiện ở giai đoạn xét xử và thuộc thẩm
quyền của Tòa án là không đúng với quy định của điều 28 Bộ luật TTHS 2003 về nguyên
tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ giai
đoạn khởi tố VAHS vấn để dân sự đã phải là một trong những nội dung cần phải thu thập
chứng cứ để chứng minh làm rõ và thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tòa án, với chức năng của mình trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập được của Cơ
quan điều tra và trong phạm vi quyết định truy tố của Viện kiểm sát tiến hành xét xử, ra
phán quyết những vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự cùng với việc giải quyết những nội
dung của trách nhiệm hình sự trong cùng một bản án.
2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS chỉ có phạm vi áp dụng đối với
những quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện do việc thực hiện tội
phạm. Có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại cho các
quan hệ dân sự, bao gồm: hành vi phạm tội gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh trách nhiệm hình sự, còn làm phát
sinh trách nhiệm dân sự của những người tham gia tố tụng. Hoặc những vấn đề có liên
quan đến tiền và tài sản như: tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội
2


mà có, đòi lại tài sản, đòi bồi thường thiệt hại…Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề dân
sự nào liên quan đến tiền hoặc tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành giải quyết
cũng đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc quy định tại điều 28 Bộ luật
TTHS. Theo đó, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị
chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc
bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn

liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại
do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Nói cách khác, vấn đề dân sự trong
VAHS chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” theo quy định tại chương XXI Bộ luật dân sự, là những quan hệ bồi thường thiệt
hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị
tội phạm xâm hại.
3. Vấn đề dân sự trong VAHS được giải quyết khi khởi tố VAHS mà không cần có đơn
khởi kiện của đương sự. Khi VAHS có vấn đề dân sự phát sinh khi việc thực hiện tội
phạm bị khởi tố thì việc dân sự đó đương nhiên được xem xét và giải quyêt mà không cần
phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. Đây là một điểm khác biệt so với việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án dân sự. Theo thủ tục tố tụng dân sự thì vụ án dân sự
chỉ được đặt ra và xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi
kiện theo quy định của các điều 161, 162 Bộ luật TTDS, theo đó, cá nhân, tổ chức có
quyền tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho mình và tòa án chỉ giải quyết khi có đơn khởi kiện dân sự. Trong vụ án
hình sự, khi đã khởi tố vụ án mà có vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm
thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết ngay mà không cần phải có thủ
tục khởi kiện dân sự khác nữa. Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ được xem
xét và giải quyết ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự không cần phải có bất kể thủ tục nào khác nữa, kể cả thủ tục phải có yêu cầu khởi kiện
của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
4. Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải tuân theo các quy định của Luật
Tố tụng hình sự. Tuy về thực chất vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là quan hệ pháp luật
dân sự nhưng nó lại phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội, hình phạt cũng như các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với người phạm tội. Vì vậy, khi xem xét, giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự về nội dung phải tuân theo các quy định của Bộ luật
dân sự như về hình thức (về mặt thủ tục) phải tuân theo trình tự, thủ tục của Luật TTHS
chứ không phải là trình tự, thủ tục của Luật tố tụng dân sự như trong vụ án dân sự thuần
túy. Chẳng hạn, theo quy định của Luật TTHS thì trường hợp người bị hại, nguyên đơn

dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy từng trường hợp mà Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử nếu sự vắng mặt của những người này chỉ trở
ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì sẽ tách ra để xét xử sau theo thủ tục tố tụng
dân sự. Đây là điểm khác biệt so với quy định của thủ tục tố tụng dân sự. Luật tố tụng
dân sự quy định nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt lần thứ
3


nhất thì Hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên tòa dù đương sự vắng mặt có lý
do chính đáng hay không. Sở dĩ có sự khác biệt này là do bản chất của việc xét xử vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự là xét xử vụ án hình sự, trong quá trình xét xử vụ án hình sự
thì Hội đồng xét xử giải quyết luôn cả vấn đề dân sự phát sinh do tội phạm gây ra. Nếu
vấn đề dân sự trong vụ án có liên quan đến việc định tội hay định khung hình phạt đối với
bị cáo thì nó là một phần không thể tách rời khởi vụ án hình sự và phải được giải quyết
đồng thời với vụ án hình sự. Trong trường hợp này là lời khai của bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa rất quan trọng đối
với việc giải quyết phần TNHS của vụ án. Vì vậy, Tòa án phải hoàn phiên tòa nếu những
người trên vắng mặt. Tuy nhiên, đối với những vụ án mà phần dân sự không liên quan
đến việc xác định TNHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo thì có
thể tách phần dân sự để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác theo thủ tục tố tụng dân
sự. Do đó, trong trường hợp nảy nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét
xử phần hình sự và tách phần dân sự ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Một điểm khác biệt nữa là, theo quy định của Luật TTHS thì Viện kiểm sát tham gia tất
cả các phiên tòa xét xử các vụ án hình sự của Tòa án (bao gồm phiên tòa xét xử các vụ án
hình sự có giải quyết vấn đề dân sự). Tuy nhiên, theo Bộ luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm
sát không tham gia tất cả các phiên tòa xét xử của Tòa án mà chỉ tham gia phiên tòa đối
với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại; các vụ việc dân
sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (khoản 2 điều 21 Bộ luật

tố tụng dân sự).
5. Khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án áp dụng các nguyên tắc của
Luật TTHS và các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự để giải quyết.
Vấn đề dân sự được giải quyết trong vụ án hình sự nên khi xem xét vấn đề dân sự đó cần
phải áp dụng các quy định, các nguyên tắc chung của Luật TTHS để giải quyết. Tuy
nhiên, Tòa án không áp dụng cứng nhắc các nguyên tắc của TTHS để xét xử vấn đề dân
sự mà còn áp dụng một số nguyên tắc của tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi cho
các đương sự tham gia tố tụng như nguyên tắc đảm bao sự bình đẳng giữa các đương sự,
nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự…Bởi vì dù là vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự nhưng thực chất đó là quan hệ dân sự, mà đặc thù của quan hệ pháp luật
dân sự là quan hệ bình đẳng giữa các bên đương sự, do đó cần đảm bảo sự bình đẳng thỏa
thuận giữa các đương sụ khi tham gia tố tụng.
Một điểm khác biệt quan trọng là trong tố TTHS, việc chứng minh tội phạm thuộc trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng phải điều tra, thu
thập chứng cứ để chứng minh tội phạm. Vấn đề dân sự phát sinh khi có hành vi tội phạm
xảy ra được giải quyết trong vụ án hình sự nên trước hết phải tuân theo các nguyên tắc
của TTHS, do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng
cứ để làm sáng tỏ vụ án, bao gồm cả việc điều tra, thu thập chứng cứ để làm rõ về phần
trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Trường hợp các đương sự không cung cấp được
chứng cứ về vấn đề dân sự mà những vấn đề dân sự này có liên quan đến việc xác định
4


trách nhiệm hình sự của bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải điều tra, làm rõ
thiệt hại đã xảy ra, trên cơ sở đó xác định được mức bồi thường thiệt hại.
6. Trong quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án không bắt buộc
phải mở các phiên hòa giải giữa các đương sự như trong tố tụng dân sự.
Thủ tục mở phiên hòa giải không phải là thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải thực hiện khi
chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử cũng không bắt buộc phải tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Tuy nhiên,

trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tạo điều kiện cho các bên tự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Trường hợp các đương
sự tự nguyện thỏa thuận với nhau thì Tòa án công nhận việc thỏa thuận này của các
đương sự và sự thỏa thuận này được ghi vào phần quyết định của bản án chứ Tòa án
không phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Đây là điểm khác
biệt lớn so với tố tụng dân sự, vì trong tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm bắt buộc phải
mở các phiên hòa giải giữa các đương sự và việc hòa giải được tiến hành trước và tại
phiên tòa. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của đương sự.
2. Nội dung của nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
1. Việc giải quyết vấn đề dân sự đồng thời với việc giải quyết vụ án hình sự
Vấn đề dân sự được giải quyết với những vấn đề trách nhiệm hình sự trong cùng vụ án
hình sự là nội dung cơ bản của nguyên tắc này. Theo đó, ngoài việc chứng minh, xử lý
những vấn đề của trách nhiệm hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh,
xử lý những vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự.
Việc chứng mình, giải quyết vấn đề dân sự được tiến hành đồng thời với việc chứng minh
giải quyết vấn đề thuộc trách nhiệm hình sự, do vậy không thể giải quyết vấn đề dân sự
sau khi đã hoàn tất việc giải quyết trách nhiệm hình sự. Nhiệm vụ của cơ quan tiến hành
tố tụng trong trường hợp vụ án có vấn đề dân sự liên quan đến tội phạm là xác minh, làm
rõ trách nhiệm dân sự của các đương sự trong vụ án. Nhiệm vụ này được thực hiện thông
qua việc tiến hành các hoạt động sau:
- Các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được các mối quan hệ có liên quan đến vấn
đề dân sự cần giải quyết là những mối quan hệ nào trong các mối quan hệ sau: mối quan
hệ về bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản bị xâm phạm; mối quan hệ về đòi tài sản; mối quan hệ về đồi bồi thường
giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; mối quan hệ về
việc yêu cầu sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bị hủy hoại…Ví dụ: trong vụ án giết người, bên
cạnh việc xác định, chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, cơ quan tiến hành tố
tụng còn phải giải quyết các mối quan hệ về dân sự như quan hệ về bồi thường thiệt hại
về vật chất và tinh thần do tính mạng bị xâm phạm (xác định các khoản chi phí cho việc

cứu chữa, mai táng, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, tiền cấp dưỡng…).
Đưa những người có liên quan đến vấn đề dân sự trong vụ án vào tham gia tố tụng. Xác
định những người tham gia tố tụng gồm những ai, tư cách tham gia tố tụng của họ như
5


thế nào (họ tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án). Trên thực tế, khi
vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thường không xác định
chính xác tư cách tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vấn đề dân sự trong
vụ án. Việc xác định thường được thực hiện một cách chung chung, có những vụ án tư
cách của chủ thể tham gia tố tụng là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, song Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát chỉ xác định họ là những người liên quan đến vụ án. Chỉ đến giai
đoạn xét xử, Tòa án mới là cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định chính xác tư cách
tham gia tố tụng của từng chủ thể. Thực tế này cũng là phù hợp. Bởi lẽ ở giai đoạn điều
tra, truy tố thì vấn đề quan trọng là điều tra, làm rõ những nội dung liên quan đến phần
dân sự như tiến hành lấy lời khai, đối chất, yêu cầu của đương sự cung cấp tài liệu, chứng
cứ…Việc xác định tư cách chủ thể tham gia tố tụng không ảnh hưởng nhiều tới hoạt động
điều tra này. Còn ở giai đoạn xét xử, việc xác định tư cách chủ thể tham gia tố tụng có
ảnh hưởng nhiều tới quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ tham gia tố tụng, đặc biệt là
quyền kháng cáo. Có những vụ án, tư cách chủ thể tham gia tố tụng là người làm chứng,
song Tòa án lại xác định họ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Rõ ràng, nếu xác
định như vậy, mặc nhiên họ có quyền kháng cáo. Thực ra họ chỉ là người làm chứng,
không có quyền lợi, nghĩa vụ gì cần được giải quyết trong vụ án nên trong bản án cũng
không xem xét, quyết định vấn đề gì liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
- Xác định nội dung của các mối quan hệ có liên quan đến vấn đề dân sự cần giải quyết
như: xác định mức độ thiệt hại đã xảy ra, mức độ lỗi của các chủ thể tham gia tố tụng…
để từ đó có thể xác định đúng mức bồi thường thiệt hại.
Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, xác minh để làm rõ về những vấn
đề nêu trên và đưa ra hướng giải quyết đối với toàn bộ vấn đề dân sự trong VAHS.

Nguyên tắc chung là khi giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS, về nội dung là các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng của Luật dân sự, còn về thủ tục, các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng những quy định của Bộ luật TTHS quy định việc giải quyết vấn đề dân sự
trong VAHS trên cơ sở kết hợp với các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bộ luật TTHS quy định việc giải quyết vấn đề dân sự được tiến hành đồng thời với việc
giải quyết vân đề phần trách nhiệm hình sự của vụ án là một giải pháp hợp lý vì đối với
người bị hại sẽ được thuận tiện hơn khi ra yêu cầu can thiệp đối với các Cơ quan tiến
hành tố tụng và người bị thiệt hại cũng có thể sử dụng những chứng cứ mà các Cơ quan
tiến hành tố tụng đã thu thập được để phục vụ cho việc giải quyết vấn đề dân sự. Hơn
nữa, việc cùng giải quyết cả vấn đề dân sự và hình sự trong cùng một vụ án sẽ tiết kiệm
hơn vì chỉ có một Tòa án giải quyết cả hai loại vấn đề. Tuy nhiên, khi giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án cần phải nghiên cứu, vận dụng cả những quy định của
pháp luật về dân sự và những quy định của pháp luật về hình sự. Việc nghiên cứu áp dụng
cả hai loại quy phạm pháp luật dân sự và hình sự là một khó khăn đối với Tòa án, đặc biệt
là đối với những vụ án phức tạp, chính vì vậy Bộ luật TTHS đã quy định việc tách vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết riêng bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng
dân sự trong phần nội dung thứ hai của nguyên tắc mà chúng ta xem xét dưới đây.
6


2. Việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Phần nội dung thứ hai của nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS quy định về
việc tách phần dân sự trong VAHS để giải quyết bằng một vụ án dân sự. Điều 28 Bộ luật
TTHS quy định: “Trong trường hợp VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn
mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì có
thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Có thể thấy căn cứ chung để thực hiện việc tách phần dân sự trong VAHS theo quy định
tại điều 28 Bộ luật TTHS là việc chưa có điều kiện chứng minh về phần bồi thường, bồi
hoàn và việc tách này không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS. Nội dung này được
làm rõ trong công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao

về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS.
Theo đó, thì các căn cứ để tách phần dân sự trong VAHS là: Phần dân sự được tách
không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, việc xem xét tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS của bị cáo; chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên
đơn dân sự; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại hoặc
nguyên đơn dân sự có yêu cầu nhưng không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu của mình; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa
và việc này thực sự gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự. Như vậy, ở mức độ khái
quát nhất có thể hiểu căn cứ “Việc tách vấn đề dân sự trong VAHS không ảnh hưởng đến
việc giải quyết vụ án” theo điều 28 Bộ luật TTHS chính là phần dân sự được tách không
liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, việc xem xét tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Còn căn cứ chưa có điều kiện chứng minh về phần bồi
thường” tức là chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người bị hại và
nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu nhưng không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên
tòa và việc này thực sự gây trởi ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
Bên cạnh việc quy định tách vấn đề dân sự trong VAHS tại cấp sơ thẩm công văn số
121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết các vấn
đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS còn nêu rõ việc tách vấn đề dân
sự trong VAHS tại cấp phúc thẩm: “trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện
các biệc pháp xác minh, thu thập chứng cứ nhưng vẫn không được và thuộc một trong
các trường hợp cần tách phần dân sự trong VAHS để giải quyết bằng một vụ án dân sự
theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét
xử, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự
trong VAHS và tách phần dân sự này để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng
dân sự khi có yêu cầu”. Công văn số 121 cũng xác định việc tách phần dân sự trong
VAHS tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm như sau: “Nếu xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện các biện pháp để xác minh, thu thập chứng cứ, bổ
sung chứng cứ song vẫn không được và thuộc một trong các trường hợp cần tách phần
dân sự trong VAHS để giải quyết bằng vụ án dân sự, khi có yêu cầu, nhưng Tòa án cấp sơ

thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử, thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm hủy quyết định của bản án phúc thẩm, quyết định của bản án sơ thẩm về
7


phần dân sự và tách phần dân sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân
sự khi có yêu cầu”.
Liên quan đến việc tách vấn đề dân sự trong VAHS, khoản 1 điều 191 Bộ luật TTHS còn
quy định trường hợp sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ
trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi
thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy, Bộ luật TTHS và Công văn số
121 mới chỉ quy định thẩm quyền tách vấn đề dân sự trong VAHS thuộc về Hội đồng xét
xử cấp sơ thẩm, phúc thẩm và Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm. Một vấn đề đặt ra là liệu
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án có quyền ra quyết định tách
vấn đề dân sự trong VAHS ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự không hay việc
tách vấn đề dân sự chỉ được thực hiện bởi Hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm? Những người tham gia tố tụng có được quyền đề nghị
tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không?
Từ những phân tích nêu trên cho thấy vấn đề dân sự trong VAHS là nội dung lớn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS nhưng lại chỉ được đề cập tại một số các
điều luật trong Bộ luật TTHS 2003 nên cần có bổ sung khi hoàn thiện Bộ luật TTHS.
3. Thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS.
Do vấn đề dân sự được giải quyết trong cùng vụ án hình sự nên Bộ luật TTHS 2003
không quy định thủ tục riêng mà vấn đề dân sự trong VAHS sẽ tuân theo trình tự, thủ tục
giải quyết VAHS. Xuất phát từ đặc thù của quan hệ dân sự nên khi giải quyết vấn đề dân
sự trong VAHS còn phải tuân theo những nguyên tắc riêng của tố tụng dân sự nhằm đảm
bảo quyền bình đẳng của các đương sự khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án không thể
đồng thời áp dụng cả thủ tục tố tụng hình sự và thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết một
vụ án mà chỉ có thể áp dụng thủ tục TTHS trên cơ sở kết hợp với những nguyên tắc và
thủ tục của tố tụng dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án đó. Vì vậy, việc giải

quyết vấn đề dân sự trong VAHS sẽ tuân theo thủ tục TTHS trên cơ sở kết hợp với các
nguyên tắc của tố tụng dân sự. Qúa trình giải quyết một vụ án phải trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, bắt đầu từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và kết
thúc ở giai đoạn thi hành án. Mỗi giai đoạn đều có một chức năng và nhiệm vụ khác nhau
nhưng đều nhằm mục đích giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, bảo đảm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó giai đoạn xét xử là giai đoạn trọng tâm của
TTHS. Các hoạt động khởi tố, điều tra chỉ nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy
tố và xét xử. Trên cơ sở những chứng cứ thu thập được, Tòa án sẽ xem xét và đánh giá
một cách chính xác để đưa ra phán quyết cuối cùng nên ở tất cả các giai đoạn TTHS, các
cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vấn đề dân sự sẽ tuân theo thủ tục TTHS.
4. Từ những phân tích nêu trên cần hoàn thiện Bộ luật TTHS về nguyên tắc giải quyết
vấn đề dân sự trong cùng vụ hình sự theo những hướng sau:
- Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong cùng VAHS đã được quy định trong Bộ luật
TTHS 2003, nhưng nội dung của nguyên tắc này chưa được thể hiện trong các điều luật
có liên quan. Trên cơ sở tiếp cận vấn đề dân sự là một trong những nội dung quan trọng
8


của quá trình giải quyết vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh, giải
quyết thì cần bổ sung vào nguyên tắc “xác định sự thật khách quan vụ án” (điều 10 Bộ
luật TTHS 2003). Nội dung này cụ thể như sau:
“Điều 10 xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ
xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo, đồng thời thu thập chứng cứ xác định phạm vi, mức độ
thiệt hại đối với những vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm, chứng minh những vấn đề dân sự liên quan đến việc
thực hiện tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội; Bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác

có quyền nhưng không buộc phải chứng minh những thiệt hại về dân sự liên quan đến
việc thực hiện tội phạm”.
Cũng tương tự như vậy, bổ sung thêm khoản 5 vào điều 63 Bộ luật TTHS 2003, đối
tượng chứng minh khi điều tra, truy tố, xét xử VAHS của các cơ quan tiến hành tố tụng
về vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm.
“Điều 63. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố, xét xử VAHS, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng
minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại hại do hành vi phạm tội gây ra.
5. Những vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm
- Giải quyết vấn đề dân sự trong cùng VAHS. Do vấn đề dân sự được giải quyết trong
cùng VAHS, nên xuất phát từ đặc thù của quan hệ dân sự, khi giải quyết vấn đề dân sự,
ngoài việc phải tuân theo thủ tục TTHS còn phải kết hợp những nguyên tắc của tố tụng
dân sự nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của các đương sự khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên,
Bộ luật TTHS 2003 chưa thể hiện rõ tinh thần này nên cần bổ sung quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS trong Bộ luật TTHS
hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật TTHS.
- Bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật về người tham gia tố tụng, đặc biệt là
những người tham gia tố tụng có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết phần trách nhiệm
9


dân sự của vụ án đó là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đó. Cụ thể:

Thứ nhất, cần đưa ra quy định về nội hàm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án mà Bộ luật TTHS 2003 chưa có theo hướng sau: “Người có quyền lợi liên quan đến
vụ án là người có lợi ích vật chất hoặc tinh thần có liên quan đến hành vi phạm tội của bị
cáo và được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án
là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và theo pháp
luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình. Trách nhiệm của người có nghĩa vụ liên
quan bao gồm cả trách nhiệm về vật chất và trách nhiệm về mặt tinh thần”.
Thứ hai, sửa đổi khái niệm về nguyên đơn dân sự theo hướng: Trường hợp tội phạm
không trực tiếp xâm hại tới tài sản của cơ quan, tổ chức thì dù cơ quan, tổ chức đó có làm
đơn yêu cầu bồi thường hay không cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải xác định họ tham
gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Bởi vì, trong trường hợp này dù nguyên
đơn dân sự có yêu cầu bồi thường hay không thì bị can, bị cáo, bị đơn dân sự vẫn phải
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn dân sự.
- Bổ sung quy định thẩm quyền về việc tách vấn đề dân sự trong VAHS và việc tách này
được thực hiện ở giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án. Theo tác giả chỉ nên tách
vấn đề dân sự trong VAHS ở giai đoạn xét xử, vì ở giai đoạn điều tra nếu vấn đề dân sự
được giải quyết ngay trong VAHS thì cơ quan điều tra có thể làm sáng tỏ các tình tiết liên
quan đến việc bồi thường ngay từ khi tiến hành điều tra vụ án. Còn nếu vấn đề đó được
tách ra từ giai đoạn điều tra để giải quyết riêng ở phiên tòa dân sự thì khả năng đó sẽ
không còn nữa bởi lẽ cơ quan điều tra không có trách nhiệm điều tra, xác minh các tình
tiết của vụ án dân sự và điều này sẽ là sự thiệt thòi của người tham gia tố tụng, phần nào
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Bổ sung quy định trong Bộ luật TTHS hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành các
nội dung: “vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, “chưa có điều kiện chứng minh”, “không
ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án hình sự” mà Bộ luật TTHS 2003 đã nêu ra những
chưa được quy định cụ thể theo hướng sau:
Thứ nhất, “vấn đề dân sự trong VAHS là những quan hệ về đòi tài sản; đòi bồi thường giá
trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; yêu cầu sửa chữa
tài sản bị hư hỏng, bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử
dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị

chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị hành vi phạm tội gây ra…”.
Thứ hai, “chưa có điều kiện chứng minh là trường hợp chưa xác định được người bị hại,
nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có yêu cầu nhưng
không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng
mặt tại phiên tòa và việc này thực sự gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự”.

10


Thứ ba, tách vấn đề dân sự không ảnh hưởng tới việc giải quyết VAHS là “phần dân sự
được tách ra không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, việc xem xét tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo”.
Câu 4: Trong thực tế giải quyết VAHS, có khi nào một người tham gia tố tụng với
nhiều tư cách tố tụng khác nhau?
Người tham gia tố tụng là các cơ quan, tổ chức và cá nhân có năng lực pháp lý để tham
gia vào các qh PL TTHS, có quyền và NV TT theo quy định PL TTHS. Người tham gia
TT được chia làm 3 nhóm: người tham gia TT có quyền và lợi ích trong vụ án; người
tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác và góp phần bảo vệ công lý; ng tham
gia TT theo nghĩa vụ pháp lý. Việc xác định đúng tư cách tham gia tố tụng là rất quan
trọng, vì nó liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử
cho thấy nhiều trường hợp do xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng nên dẫn đến
việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử những vướng mắc trong
việc xác định người tham gia tố tụng chỉ xảy ra trong một số trường hợp do quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự không rõ ràng và chưa có hướng dẫn chính thức của các cơ quan
tiến hành tố tụng ở Trung ương hoặc do nhận thức không thống nhất của cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Vì vậy trong khuôn khổ dự án Hỗ trợ thể chế cho Việt Nam do cộng đồng châu Âu tài trợ

nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ Thẩm phán mà đặc biệt là Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên toà, chuyên đề này chỉ tập trung giới thiệu một số vấn đề vướng mắc
trong việc xác định, cũng như thay đổi một số người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng trong giai đoạn xét xử mà thực tiễn đặt ra.
1.2.1. Nhầm lẫn giữa tư cách tham gia tố tụng của người bị hại, nguyên đơn dân sự và
người có quyền lợi liên quan đến vụ án khi họ đều là cá nhân
Khi nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức thì tư cách của họ dễ dàng phân biệt với
người bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, khi họ là cá nhân thì
việc xác định rõ tư cách của từng đối tượng không dễ. Chẳng hạn, trong vụ án Gây rối
trật tự công cộng, người bị hành vi của người phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tài sản
nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội độc lập, họ tham gia tố tụng với tư cách gì? Có ý
kiến cho rằng, những người này là người bị hại vì thiệt hại của họ do hành vi của người
phạm tội gây ra, nếu không xác định họ là người bị hại sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của
11


họ. Ý kiến khác lại cho rằng, những người này không phải là người bị hại vì thiệt hại
của họ không phải là đối tượng tác động của tội phạm nên họ là nguyên đơn dân sự.
Chúng tôi cho rằng, để xác định người bị thiệt hại trong trường hợp này với tư cách nào
cần phải làm rõ khách thể của Tội Gây rối trật tự công cộng. Khách thể của Tội Gây rối
trật tự công cộng được hiểu là trật tự, an toàn công cộng mà trực tiếp là các quy tắc sống
lành mạnh cũng như hoạt động bình thường của xã hội tại những khu vực công cộng 1.
Như vậy, quyền sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể không phải là đối
tượng tác động của tội này nên người bị thiệt hại không phải là người bị hại. Tuy nhiên,
trong vụ án này, để xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng thì người phạm tội phải tác
động đến quy tắc sống lành mạnh, hoạt động bình thường của xã hội, đó có thể là việc
bảo đảm quyền của chủ sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con
người cụ thể ở nơi công cộng. Thiệt hại của các chủ thể này cũng được xác định do tội
phạm gây ra, nhưng họ không phải là người bị hại, vì họ không phải là đối tượng tác
động của tội phạm. Họ cũng không phải là người có quyền lợi liên quan đến vụ án vì

người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất, tinh thần liên quan
đến vụ án và không phải là người bị thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy,
việc xác định người bị thiệt hại trong vụ án này là nguyên đơn dân sự là phù hợp với lý
luận và quy định của BLTTHS.
1.2.2. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên
quan đến vụ án cũng chưa rõ ràng
Trong vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên có gây thiệt hại cho người khác thì các
CQTHTT thường xác định cha, mẹ bị cáo là người đại diện hợp pháp cho bị cáo và là bị
đơn dân sự. Tuy nhiên, không phải bất kể người chưa thành niên nào phạm tội mà có gây
thiệt hại thì cha, mẹ người đó đều là bị đơn dân sự.
Trong trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
15 tuổi thì cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do bị cáo gây ra
khi thực hiện hành vi phạm tội. Trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ bị cáo với tư cách bị
đơn dân sự là trách nhiệm của chính mình, không phải là trách nhiệm nhân danh bị cáo.
Trong trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi thì cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu đối với thiệt hại do
bị cáo gây ra và tham gia tố tụng với tư cách người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo. Việc toà án quyết định bị cáo phải bồi
thường cho ai, với mức và các khoản bồi thường như thế nào ảnh hưởng đến nghĩa vụ của
cha, mẹ bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ tài sản để bồi thường.
Cần lưu ý, việc xác định tư cách cha, mẹ bị cáo là người chưa thành niên là bị đơn dân sự
hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án không làm mất đi tư cách đại diện hợp pháp
12


của cha, mẹ bị cáo, vì phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là người đại diện hợp
pháp với nguyên đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan là khác nhau. Do sự khác nhau
đó, người tham gia tố tụng này không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng khác. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền mời
người bào chữa cho bị cáo; có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm liên

quan đến bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
cha, mẹ bị cáo có quyền có người đại diện hợp pháp và mời người bảo vệ quyền lợi cho
mình; quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến việc bồi thường
thiệt hại và nghĩa vụ của họ2.
1.2.3. Nhầm lẫn trong việc xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án và người làm chứng
Trong các vụ án Chứa mại dâm, Mua bán trái phép chất ma túy và Đánh bạc thì có
CQTHTT xác định người mua dâm, người mua ma túy sử dụng, người tham gia đánh bạc
là người làm chứng; có cơ quan lại xác định những người này là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án khi hành vi của họ không bị khởi tố về tội độc lập.
Để xác định đúng tư cách của người mua dâm, người đánh bạc và người mua ma túy sử
dụng cần phải nắm rõ quy định của pháp luật về tư cách của từng chủ thể. Người có nghĩa
vụ liên quan là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và
theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình, trách nhiệm này chủ yếu là
trách nhiệm vật chất. Trong khi đó, người làm chứng là người biết các tình tiết có liên
quan đến vụ án và được các CQTHTT triệu tập để cung cấp thông tin về những tình tiết
có liên quan đến vụ án. Như vậy, cả người làm chứng và người có nghĩa vụ liên quan đều
nắm được thông tin liên quan đến vụ án. Đối chiếu với các vụ án trên, người mua dâm,
người đánh bạc và người mua ma túy đều có hành vi liên quan đến tội phạm do bị cáo
thực hiện; nhưng họ cần phải có điều kiện là theo quy định của pháp luật thì họ phải có
trách nhiệm về hành vi của mình. Do đó, nếu hành vi của họ không được pháp luật quy
định trách nhiệm thì họ không được xác định là người có nghĩa vụ liên quan mà phải
được xác định là người làm chứng.
1.2.4. Việc xác định tư cách người làm chứng, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi
liên quan trong vụ án Chống người thi hành công vụ còn có sự nhầm lẫn
Việc xác định tư cách người thi hành công vụ bị gây thương tích nhưng không cấu thành
tội độc lập trong vụ án Chống người thi hành công vụ cũng có sự nhầm lẫn. Có cơ quan
xác định người thi hành công vụ là người bị hại vì họ đã bị gây thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra; có cơ quan xác định họ là người làm chứng; cơ quan khác lại xác định họ là
người có quyền lợi liên quan. Trong ba quan điểm này, quan điểm xác định người thi

hành công vụ là nguyên đơn dân sự là phù hợp vì người thi hành công vụ có thiệt hại về
13


sức khỏe; thiệt hại này do tội phạm gây ra và họ có đơn yêu cầu bồi thường. Nếu họ
không có yêu cầu bồi thường thì quyết định của CQTHTT có liên quan đến quyền và lợi
ích của người này nên họ là người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Nếu họ không bị
thiệt hại về sức khỏe thì họ có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng trong
vụ án. Cần lưu ý, tại phiên tòa, trường hợp nếu không có căn cứ thể hiện ý chí của người
thi hành công vụ bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường hay không có yêu cầu bồi thường từ
khởi tố đến xét xử thì tư cách của người thi hành công vụ vẫn là nguyên đơn dân sự và họ
có quyền khởi kiện tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.
1.2.5. Trường hợp người đã bỏ tiền ra cứu chữa, mai táng cho người bị hại trong vụ
án Cố ý gây thương tích, vụ án Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ
Chẳng hạn, trong các vụ án xâm phạm quyền sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm người khác, mặc dù là người đã thành niên khi thực hiện hành vi
phạm tội nhưng bị cáo lại không có tài sản để khắc phục thiệt hại nên tác động người thân
(gia đình, bạn bè) hoặc người thân của họ tự nguyện bỏ tiền ra bồi thường để khắc phục
hậu quả, thì tư cách của những người này cần được xác định như thế nào để đảm bảo
quyền lợi của họ trong việc yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền đã bỏ ra.
Thực tiễn có cơ quan xác định họ là nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Khi giải quyết vụ án, CQTHTT sẽ giải quyết cả phần chi phí cứu chữa, mai táng đã
bỏ ra. Nếu có căn cứ sẽ công nhận số tiền mà chủ thể đã sử dụng vào việc cứu chữa, mai
táng. Trong trường hợp này cần xác định người đã bỏ tiền cứu chữa, mai táng là người có
quyền lợi liên quan đến vụ án. Trong trường hợp người bị hại chết mà chi phí này do
người đại diện hợp pháp của họ bỏ ra thì xác định họ có hai tư cách vừa là người đại diện
hợp pháp cho người bị hại, vừa là người có quyền lợi liên quan đến vụ án.
1.2.6. Trường hợp người đã đưa tiền cho bị cáo khắc phục hậu quả
Đối với trường hợp này, thực tiễn có cơ quan xác định họ là người có quyền lợi liên quan;

có cơ quan không đưa họ vào tham gia tố tụng vì cho rằng họ không liên quan đến vụ án.
Theo chúng tôi, trong trường hợp này, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có trách
nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả số tiền bồi thường lại của người khác. Khi giải
quyết vụ án sẽ đề cập đến số tiền của người đã bỏ ra bồi thường. Vì vậy, phần quyết định
giải quyết sẽ liên quan đến số tiền đã bỏ ra bồi thường. Do đó, cũng như người đã bỏ ra
chi phí mai táng, cứu chữa cho người bị hại thì cần xác định chủ thể này là người có
quyền lợi liên quan đến vụ án để đảm bảo quyền lợi của họ sau này, còn việc họ có yêu
cầu bị cáo giao trả lại hay không phụ thuộc vào ý chí của họ.
2. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xác định không đúng tư cách người
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
14


Khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hồ sơ có thể bị trả để điều tra bổ sung theo
quy định tại Khoản 3 Điều 168 (trường hợp Viện Kiểm sát trả hồ sơ cho cơ quan điều
tra), điểm c Khoản 1 Điều 179 (trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát). Đối với
Tòa án sơ thẩm, bản án của cấp này có thể bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử lại theo quy
định tại điểm a Khoản 2 Điều 250 hoặc bị cấp giám đốc thẩm hủy theo quy định tại
Khoản 3 Điều 273 BLTTHS.
Trước khi Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày
27/8/2010 của liên bộ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối
cao về hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS (TTLT số 01) được ban hành, việc
xác định trường hợp nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng chưa rõ ràng, trong đó
việc xác định không đúng tư cách NTGTT của CQTHTT trước có được xem là vi phạm
nghiệm trọng thủ tục tố tụng để CQTHTT sau trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án hay
không, nên thông thường trong thực tiễn, khi CQTHTT trước xác định sai tư cách
NTGTT thì CQTHTT sau sửa lại cho đúng mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung hay hủy
án. Tuy nhiên, từ khi TTLT số 01 ra đời, điểm c Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch này đã
quy định việc “xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của NTGTT trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ”

là một trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định tại
Khoản 3 Điều 168, điểm c Khoản 1 Điều 179 BLTTHS và có thể xem quy định này cũng
được áp dụng cho quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 250, Khoản 3 Điều 273 BLTTHS.
Tuy nhiên, theo điểm a Khoản 3 Điều 4 của TTLT số 01, không phải cứ xác định không
đúng tư cách NTGTT thì CQTHTT sau có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án mà việc
xác định không đúng này phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
NTGTT.
Vấn đề đặt ra là quyền và lợi ích hợp của NTGTT bị xâm phạm là người bị xác định
không đúng tư cách hay NTGTT khác hay tất cả NTGTT. Bởi vì, điểm c Khoản 2 Điều 4
của TTLT số 01 quy định xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xác định sai
tư cách trong khi điểm a Khoản 3 Điều 4 của TTLT số 01 lại quy định phải xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT nói chung.
Thực tiễn cho thấy, việc xác định sai tư cách NTGTT có thể xâm hại quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị xác định sai tư cách, cũng có thể NTGTT khác hoặc có thể không.
Trường hợp không xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì không đề cập đến.
Đối với hai trường hợp còn lại, khi xác định không đúng tư cách NTGTT hoặc sẽ ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đó hoặc NTGTT khác. Chẳng hạn, người
bị thiệt hại về sức khỏe nhưng chưa đến mức bị khởi tố về tội độc lập trong vụ án gây rối
trật tự công cộng nếu xác định họ là người bị hại thì họ có quyền kháng cáo bản án tăng
15


nặng hình phạt đối với bị cáo, trong khi xác định đúng tư cách là nguyên đơn dân sự
trong vụ án thì họ không có quyền này và việc xác định sai tư cách sẽ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Ngoài trường hợp xác định sai tư cách thì việc xác định không đúng tư cách còn bao gồm
việc xác định một người không phải là NTGTT nhưng lại xác định họ là NTGTT và
ngược lại. Chẳng hạn, người đứng tên trong giấy đăng ký mô tô, xe máy mà bị cáo đã sử
dụng để cướp giật tài sản nhưng cơ quan điều tra không đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong khi bị cáo mua xe của họ nhưng

chưa thanh toán đủ và chưa chuyển tên nên đã ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ.
Bên cạnh đó, hành vi xác định không đúng tư cách của NTGTT còn phải xâm hại nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì mới thuộc trường hợp vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thông tư liên tịch số 01 không giải thích thêm xâm hại
nghiêm trọng là như thế nào. Theo Từ điển tiếng Việt, xâm phạm là “động chạm đến
quyền lợi của người khác”; nghiêm trọng là “ở trong tình trạng xấu, gay go đến mức trầm
trọng, có nguy cơ dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại” 3. Từ đó, xâm hại nghiêm trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT được hiểu là hành vi vi phạm làm mất hoặc hạn
chế quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT mà đáng ra họ phải được hưởng trọn vẹn;
đồng thời, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại cho họ. Chẳng hạn, một người là
người bị hại trong vụ án nhưng cơ quan điều tra không mời người này tham gia tố tụng,
làm mất quyền của họ, hay một người bị trộm cắp 3.000.000 đồng và có đủ chứng cứ xác
định là người bị hại nhưng cơ quan điều tra lại xác định họ chỉ bị chiếm đoạt 1.900.000
đồng nên người này chỉ có thể được xác định là nguyên đơn dân sự trong vụ án và làm
hạn chế quyền và lợi ích của họ. Việc xác định không đúng như hai trường hợp trên có
thể gây thiệt hại cho NTGTT trong việc yêu cầu bồi thường. Như vậy, chỉ xem việc xác
định không đúng tư cách NTGTT để trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án khi hành vi xác
định không đúng đó xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng trong vụ án.
3.2. Giải pháp về thực tiễn
Thứ nhất, về hình thức xác định tư cách NTGTT trong các giai đoạn tố tụng. Để có cơ sở
xác định đúng tư cách NTGTT trong từng giai đoạn tố tụng, các cơ quan, NTHTT cần
phải xác định rõ tư cách của mỗi chủ thể (có thể kèm theo lời khai của họ) trong các văn
bản kết thúc các giai đoạn khởi tố - điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm để cơ quan có thẩm
quyền ở giai đoạn tố tụng sau biết được việc xác định tư cách của NTGTT ở giai đoạn tố
tụng trước có đúng quy định pháp luật hay không. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cần
tránh ghi gộp chung tất cả các tư cách cũng như ghi thừa tư cách NTGTT trong văn bản
kết thúc giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền của mình. Riêng Viện kiểm sát, tránh sự sai
16



sót trong việc xác định tư cách NTGTT trong Cáo trạng hay quyết định truy tố với danh
sách những người cần triệu tập đến tòa. Đối với Tòa án, trước khi ban hành quyết định
xét xử, Thẩm phán, Thư ký tòa án cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để xác định đúng tư
cách NTGTT.
Thứ hai, NTHTT phải nắm vững quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tư cách của
từng NTGTT để dễ dàng áp dụng. Từng CQTHTT cần phải quán triệt quy định về
NTGTT trong BLTTHS và văn bản hướng dẫn đến tất cả những NTHTT trong cơ quan
để thống nhất áp dụng. Khi có sự hiểu khác nhau về tư cách NTGTT, các CQTHTT cần
phải thống nhất khi họp phối hợp ba ngành hàng tháng hoặc có thể họp bất thường để
tránh việc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng như tránh bị sửa, hủy án sau khi xét xử.
Câu 5: Vì sao trong PL TTHS quy định người làm chứng không thể trở thành người
bào chữa và ngược lại?
Người làm chứng là người biết được tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan có
thẩm quyền tiến hành TT triệu tập tham gia TT. Người làm chứng là người trực tiếp tham
gia TT, họ k thể ủy quyền cho ng khác hoặc ng đại diện họ tham gia TT thay họ; ng bào
chữa của bị can, bị cáo; ng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà k có kn nhận
thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có kn khai báo đúng đắn thì ko đc tham
gia làm chứng. Khi một người tham gia tố tụng với tư cách là ng làm chứng trong vụ án
thì họ không thể tham gia TT với tư cách là ng bào chữa. PL TTHS chỉ cho phép 1 ng tiến
hành TT hoặc tgia TT (làm chứng, giám định, phiên dịch) với tư cách là nhằm để cho ng
đó có chính kiến về vụ án và đảm bảo sự vô tư, khách quan của sư tham gia tố tụng của
họ.
Câu 6: Trong TTHS, khi nào có sự tham gia của ng đại diện? Khi tham gia TTHS,
ng đại diện có quyền và nghĩa vụ gì?
Trong TTHS, có sự tham gia của ng đại diện với vai trò là người đại diện của bị hại,
nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; ng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Theo quy định của PLTTHS VN thì ng bị hại chỉ là cá nhân (thể nhân, tự nhiên nhân) mà
k thể là cơ quan hay tổ chức (pháp nhân). PL TTHS VN k coi thân nhân của ng bị hại là
ng bị hại mặc dù tổ thất do hành vi phạm tội gây ra cho ng bị hại có mang đến cho họ

những khó khăn về vật chất cũng như đau khổ và mất mát tinh thần. Ng đại diện của ng
bị hại tham gia vào quá trình TT khi ng bị hại chết thì ng đại diện hợp pháp của họ sẽ có
những quyền của ng bị hại theo quy định của PL TTHS. Nếu ng bị hại là ng chưa thành
niên và có nhược điểm về tâm thần hay thể chất thì ng đại diện hợp pháp của họ sẽ tham
gia TT để thực hiện quyền và nghĩa vụ của ng bị hại.
Trường hợp bị đơn dân sự, cha, mẹ hoặc ng giám hộ của bị can, bị cáo là ng chưa thành
niên đã gây ra thiệt hại.
17


Từ đây có thể thấy, đại diện phải là đại diện theo PL
Câu 7: Quan điểm cá nhân về người làm chứng và người chứng kiến.
Người làm chứng (ng tham gia TT vs nghĩa vụ pháp lý) là người biết được tình tiết có
liên quan đến vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành TT triệu tập. Như v, để trở
thành ng làm chứng cần có 2 điều kiện: biết được tình tiết có liên quan đến vụ án và được
cơ quan tiến hành TT triệu tập để làm chứng. Ng làm chứng là ng trực tiếp tham gia TT,
họ k thể ủy quyền cho ng khác hoặc cho ng đại diện họ tham gia TT thay họ; ng bào chữa
của bị can, bị cáo; ng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà k có khả năng nhận
thức được những tình tiết vụ án hoặc k có kn khai báo đúng đắn thì k được tham gia làm
chứng.
Người tham gia TT vs tư cách là người làm chứng thì k thể tgia vs tư cách là ng bào chữa.
PLTTHS chỉ cho phép 1 ng tiến hành TT hoặc tham gia TT (làm chứng, giám định, phiên
dịch) vs 1 tư cách là nhằm để ng đó có chính kiến về vụ án và đảm bảo sự vô tư, khách
quan của sự tgia TT của họ.
Người làm chứng phải có mặt khi cơ quan tiến hành TT triệu tập, nếu họ vắng mặt k có lý
do chính đáng thì ng làm chứng có thể bị dẫn giải. Họ có nghĩa vụ khai báo một cách
trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết được về vụ án cho cơ quan và ng có thẩm
quyền giải quyết vụ án. Về quy định trách nhiệm của những ng làm chứng trong TTHS,
quan điểm cá nhân cho rằng những quy định này quá nghiêm khắc vì thực ra ng làm
chứng chỉ giúp đỡ cơ quan tiến hành TT chứ họ k có quyền lợi gì. Thiết nghĩ, cần phải có

những quy định về quyền lợi cho ng làm chứng và những biện pháp bảo vệ nhân chứng.
Như vậy sẽ khuyến khích sự tự nguyện làm chứng và họ có trách nhiệm hơn.
Người chứng kiến theo Điều 67 BLTTHS 2015 thì là người được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành TT yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động TT theo quy định của bộ luật
này. Những trường hợp k được là người chứng kiến quy định tại k2 Điều này nhằm để ng
đó có chính kiến về vụ án và đảm bảo sự vô tư, khách quan của sự tgia TT của họ. Ngoài
ra, nghĩa vụ của người chứng kiến k nặng nề bằng ng làm chứng.
Câu 8: Quan điểm cho rằng nguyên đơn dân sự và bị hại trong VAHS là một. Ý
kiến?
Nguyên đơn dân sự và bị hại đều là người tham gia tố tụng thuộc nhóm ng tham gia TT
có quyền và lợi ích trong vụ án.
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần, về tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra theo
Điều 62 BLTTHS 2015. Dấu hiệu “đã thực tế bị thiệt hại” k phải là dấu hiệu bắt buộc của
ng bị hại. Chỉ cần có hành vi đe dọa gây ra thiệt hại cho một người được xác định thì
người đó là người bị hại. Và thiệt hại của người bị thiệt hại là thiệt hại trực tiếp do tội
18


phạm gây ra. Người bị hại được cơ quan có thẩm quyền tiến hành TT công nhận tư cách
tham gia TT của họ.
Nguyên đơn dân sự là … theo Điều 63 BLTTHS 2015. Trong VAHS, hành vi phạm tội k
chỉ gây ra thiệt hại cho ng bị hại mà còn gây ra thiệt hại cho những ng khác thì vấn đề bồi
thường thiệt hại cho những ng này cần được giải quyết. những ng bị tội phạm gây thiệt
hại về vật chất sẽ tgia TT vs tư cách TT là nguyên đơn dân sự nếu có đơn yêu cầu. theo
quy định của PL để có tư cách nguyên đơn dân sự trong VAHS phải có 2 điều kiện: có
thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra; có đơn yc btth.
Câu 9: Những điểm bất cập trong BLTTHS (2003) hiện hành về người THTT và
người TGTT.
Những quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng


BLTTHS hiện hành chưa phân định đầy đủ sự vận hành của các chức năng cơ bản trong
tố tụng hình sự (buộc tội - bào chữa - xét xử) nên quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan tiến hành tố tụng có mặt chưa phù hợp.
- Đối với Cơ quan điều tra
+ Việc phân định thẩm quyền điều tra giữa các cấp Cơ quan điều tra trong cùng hệ thống
chưa cụ thể, chặt chẽ, dấn đến Cơ quan điều tra Bộ Công an thụ lý điều tra số lượng lớn
các vụ án hình sự. Thực tế này đã làm giảm vai trò của các cơ quan tố tụng Trung ương
trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn các cơ quan tố tụng địa
phương; mặt khác, tạo ra những xáo trộn không nhỏ trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là với Viện kiểm sát, do số vụ ủy quyền cho Viện kiểm sát
cấp dưới thực hiện quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm có số lượng lớn, gây khó
khăn cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hiện việc ủy quyền.
+ Hầu hết Cơ quan điều tra ở nước ta được tổ chức trong bộ máy hành chính và phụ
thuộc vào bộ máy hành chính. Thủ trưởng Cơ quan điều tra vừa là người tiến hành tố
tụng, đồng thời vừa là người lãnh đạo bộ máy hành chính nên chưa có sự tách bạch rành
mạch giữa quan hệ hành chính với tính chất là “quyền uy - phục tùng” với quan hệ tố
tụng tư pháp có tính chất là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
+ Không có cơ quan được giao trách nhiệm đầu mối quản lý toàn bộ tố giác, tin báo về
tội phạm. Việc này chỉ giao cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là chưa phù hợp. Trên
thực tế, một số lượng lớn tố giác, tin báo về tội phạm do lực lượng công an cấp cơ sở (xã,
phường) tiếp nhận, xác minh ban đầu.
- Đối với cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
+ Hiện nay, trên nhiều lĩnh vực quản lý chuyên ngành có tính đặc thù như thuế vụ, quản
lý thị trường, chứng khoán, kiểm ngư xảy ra nhiều hành vi vi phạm, tội phạm nhưng do
các cơ quan này không được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, dẫn đến hạn chế
tính kịp thời trong phát hiện, xử lý tội phạm ở các lĩnh vực này.
+ Thẩm quyền của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
như Hải quan, Kiểm lâm còn hẹp. Việc không quy định các cơ quan Kiểm lâm, Cảnh sát
19



biển có quyền bắt khẩn cấp; Kiểm lâm và Hải quan không có quyền tạm giữ người đã gây
khó khăn cho việc điều tra, ngăn chặn tội phạm…
+ Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra (Hải quan, Kiểm lâm…)
không được quy định là cơ quan tiến hành tố tụng, người thực hiện hoạt động điều tra của
cơ quan này không được quy định là người tiến hành tố tụng dẫn đến có sự nhận thức và
thực hiện không thống nhất về giá trị tài liệu, chứng cứ do các cơ quan này thu thập…
- Đối với Viện kiểm sát
+ Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp, nhưng BLTTHS hiện hành còn thiếu các quy định để Viện kiểm sát thực
hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, dẫn đến Viện kiểm sát còn thụ động trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
+ Một số vấn đề cụ thể cần được xem xét như: Viện kiểm sát có trách nhiệm phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can nhưng lại chưa có quy định để Viện kiểm sát thực hiện tốt trách
nhiệm này; thời gian xem xét phê chuẩn quá ngắn (3 ngày) nên trong nhiều trường hợp
chỉ xem xét trên cơ sở tài liệu, báo cáo của Cơ quan điều tra. Quy định giới hạn Viện
kiểm sát chỉ có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp Viện kiểm sát
hủy bỏ quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra (Điều 104); chỉ khởi tố bị can sau khi
nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác thực hiện hành vi phạm
tội chưa được khởi tố (Điều 126) là không phù hợp với vai trò, trách nhiệm của cơ quan
thực hiện quyền công tố. Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện chức năng công tố, quyết
định việc khởi tố vụ án nhưng không có quyền xác minh, chỉ kiểm sát kết quả giải quyết
của Cơ quan điều tra đối với các tố giác, tin báo về tội phạm đã được tiếp nhận; chưa có
quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra (Điều 103).
+ Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giam thuộc
phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Tuy nhiên, Bộ luật lại không quy định các biện
pháp áp dụng trong trường hợp Cơ quan điều tra và Điều tra viên không thực hiện các

yêu cầu của Viện kiểm sát (Điều 114) nên thực tế nhiều yêu cầu của Viện kiểm sát không
được thực hiện. Chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm các đối tượng vi phạm phải thực
hiện yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát; chưa phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát
trong giai đoạn xét xử.
- Đối với Tòa án
Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại đang được pháp luật giao thực hiện một số thẩm
quyền không phù hợp với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo đảm sự khách
quan trong tố tụng hình sự (ví dụ: thẩm quyền khởi tố vụ án). Mặc dù có quy định giới
hạn xét xử để ràng buộc phạm vi xét xử của Tòa án; tuy nhiên, Bộ luật lại cho phép Tòa
án được xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều
196) là không phù hợp, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo.

20


- Việc phân định quyền hạn của người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong
các cơ quan tố tụng; quy định về thẩm quyền của những người trực tiếp tiến hành tố tụng
(Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) còn chưa rõ ràng, phù hợp
+ Quy định về phân công tiến hành tố tụng giữa Thủ trưởng với Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, giữa Viện trưởng với Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, giữa Chánh án và Phó
Chánh án Tòa án (các Điều 34, 36 và 38) còn chưa cụ thể, rõ ràng. Trong mọi trường hợp,
việc tiến hành tố tụng của cấp phó đều là thực hiện thay cấp trưởng, theo sự phân công
của cấp trưởng. Việc cấp phó ký thay cấp trưởng đã dẫn đến vướng mắc khi cấp trưởng
thay đổi, hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của cấp phó gặp
nhiều khó khăn, vì thực chất các quyết định đó do cấp phó ký thay chính là quyết định
của cấp trưởng.
+ Các thẩm quyền tố tụng tập trung chủ yếu vào Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng Viện kiểm sát. Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người trực tiếp tiến hành hầu
hết các hoạt động tố tụng nhưng quyền năng pháp lý thì rất hạn chế, hầu như chỉ có

quyền báo cáo, đề xuất với lãnh đạo cùng với một vài quyền nhỏ như ký quyết định triệu
tập bị can, triệu tập người làm chứng, người bị hại… đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, đồng thời chưa phát huy hết trách nhiệm
của họ trong quá trình giải quyết vụ án.
+ Chưa xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp Điều tra viên, Kiểm sát viên;
giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên được phân công thụ lý chính đối với vụ án với các Điều
tra viên, Kiểm sát viên khác tham gia vào việc giải quyết vụ án. Một số biện pháp tố tụng
đơn giản có thể giao cho Trợ lý Điều tra viên, Trợ lý Kiểm sát viên tiến hành nhưng do
không quy định họ là những người tiến hành tố tụng nên văn bản tố tụng do những người
này thực hiện không bảo đảm tính pháp lý.
Người tham gia TT:
Thứ nhất, theo pháp luật về tố tụng hiện hành, “người đại diện” trong tố tụng được hiểu
là người thay mặt đương sự, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và bị hại tham gia các giai
đoạn tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử, hoà giải tại phiên toà,…) để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp. Tuy nhiên, việc quy định chủ thể nào là “người đại diện” lại không được quy
định hoặc có quy định nhưng không cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố
tụng, dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hiểu và áp dụng khác nhau.
Có thể thấy, tại Điểm b Khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định, người
bào chữa cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ là ‘người đại diện” hợp pháp của họ; song,
lại không quy định ai là “người đại diện” hợp pháp. Chính vì vậy, khi Trợ giúp viên pháp
lý tham gia tố tụng để bào chữa cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ là đối tượng được trợ
giúp pháp lý (người nghèo, người đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật,…) với tư
cách là “người đại diện” hợp pháp được quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 21 Luật Trợ
giúp pháp lý 2006[1], các cơ quan tiến hành tố tụng đã từ chối cấp giấy chứng nhận bào
chữa cho Trợ giúp viên pháp lý (không công nhận Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng
với tư cách “người đại diện” hợp pháp); bởi vì theo họ, pháp luật tố tụng hình sự không
quy định ai là “người đại diện” hợp pháp, Trợ giúp viên pháp lý không phải là luật sư
(theo Khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, chủ thể tham gia tố tụng là luật sư)
21



và theo pháp luật dân sự Trợ giúp viên pháp lý không phải phải là “người đại diện” hợp
pháp.
Thứ hai, trong tố tụng hình sự, quyền của bị hại được quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ
luật Tố tụng hình sự 2003 như: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo về kết
quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này; đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi
thường; tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình và khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi
thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Và quyền này được trao cho “người đại
diện” hợp pháp trong trường hợp người bị hại chết (Khoản 5 Điều 51 Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003).
Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, có rất nhiều người bị hại là trẻ em
dưới 13 tuổi không có người thân thích, nguời có nhược điểm lớn về tâm thần (bị điên,
mất trí), người mất hành vi năng lực dân sự,... không thể thực hiện các quyền nêu trên.
Do đó, quyền của bị hại theo Khoản 2 Điều 51 thực hiện như thế nào? Ai sẽ thực hiện?
Và nếu không thực hiện, hậu quả pháp lý ra sao? Đó là một khoảng trống trong pháp luật
tố tụng cần được bổ sung nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị hại là trẻ em dưới 13 tuổi không
có người thân thích, nguời có nhược điểm lớn về tâm thần (bị điên, mất trí), người mất
hành vi năng lực dân sự,...
Câu 10: Ý kiến cá nhân về định hướng sửa đổi BLTTHS 2003 về ng tiến hành TT và
ng tham gia TT
* người tham gia TT
Một là, đối với pháp luật tố tụng hình sự, đề nghị Chính phủ, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xây dựng và trình Quốc hội bổ sung Trợ giúp viên pháp lý là một chủ thể tham gia
tố tụng với tư cách “người đại diện” hợp pháp của các đối tượng được trợ giúp pháp lý là
người bị tam giam, bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng sửa đổi, bổ sung (vai trò, vị trí
như luật sư) nhằm thống nhất quy định về “người đại diện” hợp pháp trong Luật Trợ giúp
pháp lý 2006 và pháp luật về tố tụng hình sự, đảm bảo hoạt động tranh tụng của Trợ giúp

viên pháp lý (“người đại diện” hợp pháp), kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đối tượng được trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, bổ sung vào Khoản 5 Điều 51 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003 quy định “ trong trường hợp người bị hại là trẻ em dưới 13 tuổi
không có người thân thích, nguời có nhược điểm lớn về tâm thần (bị điên, mất trí), người
mất hành vi năng lực dân sự,... thì “người đại diện” hợp pháp của họ có những quyền quy
định tại Điều này”.
* người tiến hành TT

Một là, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo hướng phân định rõ thẩm quyền
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động TTHS;
tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Có như
22


vậy, hoạt động tố tụng mới chủ động, khách quan, hiệu quả; người tiến hành tố
tụng mới phản ứng kịp thời với tình hình và dám tự mình chịu trách nhiệm về các
quyết định của mình;
Hai là, đảm bảo quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm trong hoạt động tố
tụng của người tiến hành tố tụng. Không để xảy ra tình trạng quyền hạn của một
người còn trách nhiệm lại thuộc về người khác hoặc tình trạng quyền hạn thì quy
định cụ thể nhưng trách nhiệm thì chung chung. Chỉ khi quyền hạn đi liền với trách
nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong thực hiện nhiệm vụ tố
tụng của mình, góp phần xử lý vụ án đúng đắn, khách quan;
Ba là, đảm bảo nguyên tắc độc lập trong TTHS. Người trực tiếp tiến hành
các hoạt động tố tụng phải là người được quyết định các vấn đề liên quan đến việc
giải quyết vụ án;
Bốn là, các quy định phải đảm bảo tính khả thi. Nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định phải được bảo đảm thực hiện bằng các quy định của pháp luật, bằng các
biện pháp tổ chức và được sự kiểm tra, giám sát cụ thể, chặt chẽ v.v..
Xuất phát từ những yêu cầu trên, qua phân tích, đánh giá các quy định của pháp

luật hiện hành và yêu cầu của việc hoàn thiện BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, chúng tôi kiến nghị:
Hình thành hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng, nhiệm vụ
được xác định rõ ràng, có tính độc lập theo tính chất của chức năng tố tụng.
- Cần xây dựng một hệ thống cơ quan điều tra thống nhất, có tính độc lập
tương đối với chức năng duy nhất là điều tra vụ án hình sự. Hệ thống cơ quan này
bao gồm cơ quan điều tra của công an nhân dân và cơ quan điều tra trong quân đội.
Không nên giao chức năng điều tra vụ án hình sự cho các cơ quan như Hải
quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển hoặc các cơ quan quản lý hành
chính khác của Bộ Công an, đơn vị bộ đội. Các cơ quan này chỉ thực hiện một số
hoạt động điều tra ban đầu nhằm thu thập, bảo vệ chứng cứ; việc khởi tố, điều tra
vụ án phải do Cơ quan điều tra thực hiện. Có như vậy, mới tách thẩm quyền hành
chính ra khỏi thẩm quyền tố tụng; tách chức năng quản lý hành chính khỏi chức
năng quản lý tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra; hạn chế sự phụ thuộc hoạt
động điều tra vào sự quản lý, chỉ huy của người chỉ huy hoặc quản lý hành chính;
- Xây dựng cơ quan công tố thay cho Viện kiểm sát với chức năng duy nhất
là thực hành quyền công tố trong TTHS. Để thực hành quyền công tố, cơ quan
công tố phải là người chỉ đạo hoạt động khởi tố vụ án (phát động hoạt động tố
tụng), chỉ đạo hoạt động điều tra và thực hiện việc buộc tội, quyết định truy tố
người phạm tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó trước Toà. Từ
góc độ đó, cơ quan công tố tự mình có thể ra bất kỳ quyết định tố tụng nào và tự
mình hoặc giao cho cơ quan điều tra thi hành hoặc phê chuẩn các quyết định tố
23


tụng của cơ quan điều tra; đồng thời phải chịu trách nhiệm về việc ra quyết định
hoặc về sự phê chuẩn đó.
Cơ quan công tố có quyền hạn và trách nhiệm không chỉ trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, mà quan trọng hơn nữa là phát
hiện tội phạm và áp dụng mọi biện pháp pháp luật quy định để tội phạm được xử

lý. Vì vậy, theo chúng tôi, cần tăng cường hơn nữa quyền hạn, trách nhiệm của cơ
quan công tố trong xử lý tin báo về tội phạm, phát hiện tội phạm, xác minh và khởi
tố vụ án hình sự.
Về chức năng, cơ quan công tố chỉ đạo hoạt động khởi tố, chỉ đạo hoạt động điều
tra để chuẩn bị cho việc buộc tội người phạm tội. Vì vậy, không nên giao cho cơ
quan công tố chức năng điều tra và không nên tổ chức cơ quan điều tra riêng của
cơ quan công tố.
Phân biệt rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động tố tụng
và trong tiến hành tố tụng đối với vụ án cụ thể. Tăng quyền hạn, trách nhiệm cho
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong hoạt động tố tụng.
Đây là nội dung rất quan trọng trong việc hoàn thiện quy định của BLTTHS
về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp (tăng cường tranh tụng, đảm bảo dân chủ, công khai các
hoạt động tố tụng, gắn quyền hạn với trách nhiệm của người tiến hành tố tụng…),
nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng và bảo đảm tính kịp thời của hoạt động tố
tụng đối với từng vụ án cụ thể.
- Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án chỉ
thực hiện các nhiệm vụ hành chính tư pháp và phát động quá trình tố tụng thuộc
chức năng, thẩm quyền của cơ quan mình (như quyết định khởi tố vụ án, quyết
định phân công Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…);
- Các nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng cụ thể liên quan đến giải quyết vụ án
(như ra các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, các quyết định về giải quyết
thực chất vụ án như tạm đình chỉ, đình chỉ, kết luận điều tra, đề nghị truy tố, truy
tố, đưa vụ án ra xét xử…) do Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được phân
công thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật; không nên để tình trạng người
trực tiếp thực hiện các biện pháp tố tụng thì không có thẩm quyền quyết định và
ngược lại, người có thẩm quyết định thì chỉ nghe báo cáo mà không trực tiếp tiến
hành tố tụng làm cho các quyết định tố tụng khó có thể chính xác, khách quan.
Hơn nữa, tình trạng này cũng dễ dẫn đến trách nhiệm không rõ ràng giữa những

người tiến hành tố tụng;
Từ những phân tích trên, về cơ cấu, BLTTHS chỉ cần điều khoản quy định
nhiệm vụ, quyền hạn hành chính tư pháp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
24


trưởng Viện kiểm sát, Chánh án (không bao gồm nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng) và
điều khoản quy định nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán (bao gồm cả của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án khi họ trực tiếp
tiến hành tố tụng đối với vụ án).
Quy định rõ hậu quả tố tụng và trách nhiệm đối với việc vi phạm các quy
định về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng.
- Chúng tôi cho rằng, mọi trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng quyền hạn, trách nhiệm được quy định trong BLTTHS đều là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục TTHS và phải được khắc phục bằng các biện pháp tố tụng: các quyết
định trái pháp luật phải được hủy bỏ hoặc hủy bỏ để tiến hành tố tụng lại cho đúng
pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người tham gia tố tụng, tính
chính xác, khách quan trong giải quyết vụ án hình sự.
- Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về khiếu nại theo hướng: Khiếu nại
về các hành vi hay quyết định hành chính tư pháp của cơ quan, người tiến hành tố
tụng thì do Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng tự mình hoặc cấp trên giải quyết;
khiếu nại về các hành vi và quyết định tố tụng thì do các cơ quan, người có thẩm
quyền tố tụng có thẩm quyền giải quyết bằng các biện pháp tố tụng như hủy bỏ,
thay thế, hủy bỏ và tiến hành tố tụng lại hoặc tự mình sửa đổi… Cụ thể là: khiếu
nại liên quan đến hoạt động điều tra vụ án do Kiểm sát viên chi đạo hoạt động điều
tra giải quyết; khiếu nại liên quan đến hoạt động công tố do cơ quan công tố cấp
trên giải quyết; khiếu nại liên quan đến hoạt động xét xử do Tòa án cấp trên giải
quyết1.


25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×