CHƯƠNG III:
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
I. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
* Sự ra đời của
- Quá trình ra đời và phát triển của GCCN đã được C.Mác và Ph.Ă
trình bày trong tác phẩm “Những nguyên lý của CNCS” (1847) và
đặc biệt là trong tác phẩm “Tuyên ngôn của ĐCS” (1848). Trong
các tác phẩm này Mác- Ăngghen đã chỉ ra rằng GCCN là con đẻ của
một hoàn cảnh lịch sử cụ thể tức là muốn nói tới GCCN cũng là một
hiện tượng xã hội, nó chỉ ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất
TBCN. Sự ra đời của nền sản xuất TBCN đã dẫn tới sự ra đời và
phát triển của GCCN. Trước nền sản xuất TBCN thì chỉ có những
người thợ thủ công chứ chưa có GCCN.
Vậy GCCN được hình thành trên những tầng lớp, giai cấp nào?
+ CNTB ra đời, cùng với nền đại công nghiệp ra đời và phát triển,
nó đã thúc đẩy sản xuất phát triển chưa từng có, làm cho năng suất
lao động cao hơn nhiều so với cách làm truyền thống. Nó đã làm
phá sản những người thợ thủ công …Họ đã bị thất bại trong cạnh
tranh ( hàng hóa do họ sản xuất ra không thể cạnh tranh với nền sản
xuất TBCN), họ bị phá sản và trở thành những người thất nghiệp.
Muốn sống họ phải làm thuê cho giai cấp Tư sản và họ trở thành
GCCN.
+ Công nghiệp hóa TBCN trong lĩnh vực nông nghiệp đã đẩy những
người nông dân ra khỏi ruộng đất, họ bị giai cấp Tư sản tước đoạt
mất ruộng đất. Họ cũng trở thành những người thất nghiệp sống
lang thang ở các đô thị, họ cũng phải đi làm thuê cho giai cấp tư sản
và trở thành GCCN.
Do vậy, trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của ĐCS” Mác – Ăngghen
đã khẳng định: “ Giai cấp vô sản được tuyển mộ trong tất cả các
tầng lớp của dân cư” nên “ Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
1
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, giai cấp vô sản trái
lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” .
Tóm lại: GCCN được hình thành cùng với sự ra đời và phát
triển của nền sản xuất TBCN. Cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp, GCCN ngày càng phát triển về số lượng và chất
lượng.
- C.Mác và P.Ă đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về
GCCN như: GC vô sản, GC lao động, lao động làm thuê… như
những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm: GCCN – con
đẻ của nền đại công nghiệp TBCN, giai cấp đại diện cho LLSX tiên
tiến, cho PTSX hiện đại. C.Mác và P.Ă còn dùng nhiều thuật ngữ
hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau như
công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp… Để chỉ công nhân
trong các giai đoạn khác nhau của công nghiệp, công nhân thủ công,
công nhân công trường thủ công, công nhân hiện đại… Song dù có
nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C.Mác và P.Ă
vẫn chỉ có 2 thuộc tính cơ bản nói lên thế nào là GCCN:
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ
sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hóa cao.
C.Mác và P.Ă đã nêu lên tiêu chí này khi 2 ông mô tả quá trình phát
triển của GCCN từ những người thợ thủ công thời Trung Cổ đến
những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến
những người công nhân trong công nghiệp hiện đại. Các ông cho
rằng: “ Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người
công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì
người công nhân phải phục vụ máy móc”.
Chính điều này để phân biệt GCCN với các tầng lớp lao động khác
Vậy theo các anh chị cái khác căn bản của GCCN với các giai cấp
tầng lớp lao động khác trong lịch sử là gì?
Có 2 điểm khác biệt của GCCN so với các giai cấp tầng lớp lao
động khác trong lịch sử là:
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
2
Về tính chất của TLSX: Sử dụng máy móc
(Trực tiếp hoặc gián tiếp ) trong nền sản xuất
Vật chất với công nghệ ngày càng hiện đại.
Về tính chất của lao động: Là lao động tập
thể tức lao động của nhiều người.
Ở tiêu chí này cần lưu ý tới thuật ngữ người lao động trực tiếp hay
gián tiếp.
+ Lao động trực tiếp: tức trực tiếp lao động bằng sức lao động chân
tay; trực tiếp vận hành máy móc, dây truyền sản xuất tự động, điều
chỉnh hoạt động của hệ thống máy móc tự động để tạo ra sản phẩm.
+ Lao động gián tiếp: Đây là những công nhân không nằm trong dây
truyền sản xuất nhưng hoạt động của họ lại đảm bảo những điều
kiện vật chất, kỹ thuật cho hệ thống máy tự động ( như bảo dưỡng,
tiếp nhiên liệu…). Họ có thể là những chuyên gia trực tiếp chăm lo
nghiên cứu, sáng chế, cải tiến sản xuất để nâng cao NSLĐ và chất
lượng sản phẩm. Họ có thể là những người hoạt động ở các ngành
dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp như bưu điện,
viễn thông, giao thông… hoặc gián tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển
như một số khâu trong thương nghiệp ( tiếp thị, môi giới…). Họ có
thể là những người lao động trong những ngành dịch vụ đang được
công nghiệp hóa trở thành những ngành công nghiệp thực sự
( “công nghiệp không khói”) như du lịch, thông tin, ngân hàng…
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN, đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
+ Lưu ý: không phải tất cả những người không có TLSX đều là
những người vô sản. Trong các tác phẩm của mình C.Mác và
Ăngghen còn nói tới những người “vô sản lưu manh” để phân biệt
với GCCN, đó là những người nghèo đói, lang thang sẵn sàng làm
những việc xấu xa, họ không có ý thức giác ngộ giai cấp dễ dàng bị
giai cấp tư sản mua chuộc để phá hoại phong trào công nhân.
Như vậy tiêu chí thứ 2 này nói lên một trong những đặc trưng cơ
bản của giai cấp công nhân. Điều này thể hiện:
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
3
+ Trong quá trình phát triển của CNTB, giai cấp tư sản bằng cách
này hay cách khác tước đoạt hết TLSX của người lao động và biến
họ thành những người tay trắng- những người vô sản. Những người
bị tước đoạt này không có con đường nào khác để đảm bảo sự tồn
tại của mình là họ phải bán sức lao động cho nhà TB để duy trì sự
sống.
Như vậy trong chế độ TBCN, đối diện với nhà TB ( kẻ sở hữu
TLSX ) là những người lao động được tự do về mặt thân thể, do
không có TLSX muốn sống họ phải bán sức lao động cho nhà TB.
+ C. Mác và Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí thứ hai vì chính
điều này khiến cho những người công nhân trở thành giai cấp đối
kháng với giai cấp tư sản. Tiêu chí thứ hai này nói lên đặc trưng cơ
bản của GCCN dưới chế độ TBCN, căn cứ vào tiêu chí này mà
C.Mác và Ăngghen gọi GCCN là giai cấp vô sản.
Tóm lại :
Hai tiêu chí (đặc trưng) cơ bản của GCCN cho đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta xem xét
phân tích GCCN hiện đại trong các quốc gia tư bản phát triển, hay
các nước phát triển theo định hướng XHCN.
Ở nước ta (đặt biệt trong TKQĐ) thì GCCN được đặc trưng chủ
yếu ở tiêu chí thứ nhất, còn tiêu chí thứ 2, nếu xét toàn bộ giai cấp
công nhân là những người làm chủ nhưng trong điều kiện tồn tại
nhiều thành phần kinh tế như kinh tế TBTN, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài … Những người này vừa tham gia làm chủ cùng toàn bộ
GCCN và nhân dân lao động vùa làm thuê xét về một cá nhân
nhưng địa vị làm thuê của họ cũng không hoàn toàn giống như dưới
chế độ TBCN bởi họ được nhà nước XHCN bảo hộ.
Ví dụ: Các xí nghiệp tư nhân khi đăng ký với nhà nước mở xí
nghiệp phải tuân thủ pháp luật , trong quan hệ thuê mướn lao động
phải thực hiện tuân thủ những điều đã ký kết giữa chủ thuê và người
công nhân về thời gian, về bảo hộ lao động
Từ những vấn đề trình bày ở trên, chúng ta có thể đi tới định
nghĩa GCCN.
2. ĐỊNH NGHĨA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
4
- GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao: là lực
lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trính sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội
; đại biểu cho LLSX và PTSX tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Ở định nghĩa nêu trên chúng ta cần chú ý đến đặc điểm đó là GCCN
cải tạo các quan hệ xã hội.
Chúng ta thấy rằng nếu như trước đây GCTS tiến hành cuộc cách
mạng tư sản và thiết lập chính quyền tư sản, GCTS đã không cải tạo
QHSX cũ đó là QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất mà GCTS lại tiếp tục duy trì sở hữu tư
nhân . Do đó khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất
định nó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
CHTNTBCN về TLSX . Nhiệm vụ của GCCN là xóa bỏ QHSX đó
mở đường cho LLSX phát triển.
Mà trong chương trình triết học chúng ta đã được tìm hiểu khá chi
tiết về nội dung khái niệm QHSX. Nội dung quan trọng của QHSX
là quan hệ giữa người với ngưới trong quá trình sản xuất. Quan hệ
giữa người với người là mối quan hệ xã hội. Do đó nói GCCN là
giai cấp cải tạo quan hệ xã hội
GCCN ở các nước TBCN và GCCN ở các nước XHCN có những
điểm gì giống và khác nhau
* Ở các nước TBCN:
+ Do sự phát triển của nền sản xuất TBCN, GCCN ở các nước này
đã có sự thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của GCCN có
những thay đổi to lớn. Bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ
khí ( trực tiếp dùng cơ bắp để vận hành sản xuất ) đã xuất hiện công
nhân của ngành tự động hóa (đó là những người công nhân điều
khiển hệ thống Rô bốt, máy tự động…)
Bên cạnh công nghiệp đã phát triển, ngày càng nhiều các loại
ngành dịch vụ ở các nước tư bản phát triển, ngành này chiếm từ
50% - 70% lao động . Nhưng điều đó không hề làm giảm vai trò của
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
5
GCCN trong nền kinh tế bởi vì một bộ phận lớn vẫn là công nhân
xét cả về hai tiêu chí cơ bản đã nêu ở trên.
+ Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, GCCN có xu hướng
“Trí thức hóa” ngày càng tăng, ngày càng tiếp thu đông đảo những
người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình.
Có điều do yêu cầu khách quan của sự phát triển sản xuất, máy
móc, công nghệ hiện đại đòi hỏi trình độ của người công nhân phát
triển theo. Nhưng trình độ tri thức không làm thay đổi bản chất của
GCCN. Nếu trước đây công nhân bán sức lao động chân tay là chủ
yếu thì nay họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc.
Căn cứ vào 2 tiêu chí cơ bản vừa trình bày ở trên ta có thể coi
những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch
vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương
trong các ngành y tế, văn hóa, giáo dục ( không liên quan trực tiếp
đến sản xuất công nghiệp) là những người lao động nói chung chứ
không phải là công nhân.
+ Trong điều kiện hiện nay, để tồn tại và phát triển giai cấp tư sản
đã thực hiện một số điều chỉnh để xoa dịu mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội tư bản mà sự điều chỉnh quan trọng nhất là chế độ sở
hữu . Do vậy, phần đông công nhân không còn là những người vô
sản trần trụi với hai bàn tay trắng như trước. Cụ thể một số công
nhân có TLSX phụ họ cùng gia đình làm thêm ở nhà hay sử dụng để
làm những công đoạn phụ cho các xí nghiệp chính.
Hay một số công nhân có cổ phần trong các xí nghiệp và tựa hồ là
những người cùng làm chủ xí nghiệp, một số khác công nhân bằng
tiền tiết kiệm của mình hay bằng chế độ mua trả góp đã sắm được
nhiều tiện nghi trong gia đình … Nhưng tất cả tình hình ấy không
làm thay đổi một sự thật là toàn bộ những TLSX cơ bản nhất, quyết
định nhất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản và GCCN về cơ bản vẫn
là những người không có tư liệu sản xuất nên phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư
Ví dụ: Tình trạng khoảng cách giàu nghèo giữa người lao động và
các ông chủ tư sản trên thế giới ngày càng xa nhau. 20% dân số giàu
nhất chiếm trên 80% số lượng của cải và ngược lại. Hay lương của
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
6
một công nhân so với một cán bộ quản lý : 1980 là 1/40, 1996 là là
1/149
Ví dụ: ở Mỹ hiện nay, một số bang cũng thực hiện cổ phần hóa đối
với các xí nghiệp nhỏ và vừa, người công nhân đã có TLSX . Nhưng
người ta tính rằng cổ phần của người công nhân trong các xí nghiệp
này chiếm không quá 1% . Nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số
nên GCCN vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào giai cấp tư sản.
* Ở các nước XHCN:
+ Sau khi cách mạng vô sản thành công, GCCN trở thành giai cấp
cầm quyền thì địa vị kinh tế - xã hội của GCCN đã thay đổi cơ bản.
Họ vẫn là giai cấp công nhân nhưng không còn là những người vô
sản như trước nữa. Bởi vì GCCN cùng với nhân dân lao động trở
thành người làm chủ những TLSX cơ bản đã công hữu hóa tiến
hành đấu tranh cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Nhưng đó chỉ
là bước quá độ ( tất nhiên còn rất lâu dài) để cuối cùng khi xây dựng
thành công CNCS thì GCCN cũng mất đi, mọi người đều là những
người lao động được giải phóng.
II. NỘI DUNG VÀ ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN
1. Nội dung SMLS của GCCN.
Thế nào là SMLS của một giai cấp ?
- SMLS hay vai trò lịch sử của một giai cấp được các nhà kinh điển
của CNM - Ln khẳng định: Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách
mạng của xã hội loài người từ một HTKT – XH này sang HTKT –
XH khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm là giai
cấp đại diện cho LLSX tiên tiến có vai trò lịch sử ( sứ mệnh) là lực
lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến đó. Giai cấp này có nhiệm vụ
lịch sử: thủ tiêu chế độ cũ xây dựng chế độ xã hội mới, phù hợp với
yêu cầu khách quan của tiến trình lịch sử và do địa vị khách quan
của của giai cấp đó trong xã hội đương thời quy định.
Ví dụ: Trong thời kỳ chuyển biến từ HTKT – XH pk lên HTKT –
XH TBCN, GCTS là giai cấp đại diện cho LLSX tiên tiến, nó là giai
cấp đứng ở vị trí trung tâm của cuộc cách mạng lật đổ chế độ pk.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
7
Nhưng GCTS chỉ đóng vai trò là giai cấp CM khi nó chống PK và
phát triển sức sản xuất TBCN. Khi nó trở thành giai cấp thống trị nó
lại tiến hành áp bức và bóc lột GCVS và nhân dân lao động thì nó
không còn là một giai cấp CM nữa. Bởi QHSX TBCN dựa trên chế
độ chiếm hữu TNTBCN về TLSX, nó trở thành một vật kìm hãm sự
phát triển của LLSX đã mang tính chất xã hội hóa. Lúc này GCCN
lại là giai cấp đại diện cho LLSX tiên tiến . Nó là giai cấp tiêu biểu
cho xu thế phát triển mới của thời đại lịch sử mới. Là giai cấp có
khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành
cuộc cải biến cách mạng, từ HTKT – XH TBCN sang HTKT –XH
CSCN, giải phóng nhân loại ra khỏi ách áp bức, bất công và mọi
hình thức bóc lột.
GCCN có SMLS là:
- Nội dung SMLS của GCCN: xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế
độ người bóc lột người, giải phóng GCCN, nhân dân lao động
và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng XH CSCN văn minh .
Ph. Ăngghen viết: “ Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy – đó
là SMLS của giai cấp vô sản hiện đại”
V.Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở
chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là
người xây dựng xh – XHCN”
Câu hỏi : SMLS của GCCN có gì khác so với giai cấp tư sản trước
đây?
+ Về ktế: không phải là thực hiện sự chuyển biến từ một chế độ tư
hữu này sang một chế độ tư hữu khác, thay thế hình thức bóc lột này
bằng hình thức bóc lột khác mà là xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc
lột người – đó là chế độ tư hữu.
+ Về tính chất: SMLS của GCCN khác hẳn về tính chất và mục
đích với SMLS của các giai cấp trong các thời đại trước vì phong
trào vô sản là phong trào của tuyệt đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt
đại đa số
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
8
+ SMLS của GCCN là sự nghiệp vừa mang tính dân tộc vừa mang
tính quốc tế, phải kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa vụ dân tộc và nghĩa
vụ quốc tế.
Trong tác phẩm “TNCĐCS” M – Ă khẳng định: “ Cuộc đấu tranh
của GCVS chống lại GCTS, dù nội dung không phải là cuộc đấu
tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc.
Đương nhiên là trước hết GCVS mỗi nước phải thanh toán xong
GCTS nước mình đã”
+ SMLS của GCCN chỉ hoàn thành khi xây dựng xong xã hội mới,
xh CSCN ở mỗi nước và trên toàn thế giới.
- Có thể tóm tắt SMLS của GCCN: ta có thể nói một cách vắn tắt:
Nội dung SMLS của GCCN được gói gọn trong 4 chữ đó là xóa bỏ
và xây dựng. Xóa bỏ chế độ người áp bức bóc lột người, mà nguồn
gốc của nó là chế độ tư hữu và điều quan trọng hơn là tổ chức và
xây dựng xã hội mới XH – XHCN và tiến tới xây dựng CNCS.
+ Thủ tiêu xóa bỏ chế độ TBCN
+ Tổ chức và xây dựng xã hội mới
Tất nhiên là CNXH phủ định biện chứng CNTB nên nó kế thừa
những thành tựu mà XHTB mang lại như trình độ phát triển khoa
học - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý đất nước.
-Thực hiện SMLS của GCCN trải qua 2 giai đoạn
+ Giai đoạn thứ nhất: GCCN và chính đảng của nó tiến hành cuộc
đấu tranh giành chính quyền, trở thành giai cấp thống trị
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của ĐCS” M- Ă đã cho rằng: “ Mục
đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước
mắt của tất cả các các ĐCS khác. Tổ chức những người vô sản
thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của GC TS , GC VS giành lấy
chính quyền”
+ Giai đoạn thứ 2: GCCN liên minh chặt chẽ với quảng đại quần
chúng nhân dân do ĐCS của GCCN lãnh đạo tiến hành cải tạo xã
hội cũ xây dựng xã hội mới trên tất cả lĩnh vực của đới sống xã hội,
đi tới mục đích cuối cùng là xây dựng CNXH và CNCS trên phạm
vi toàn thế giới.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
9
Trong tác phẩm “TNCĐCS” M-Ă đã khẳng định rằng: giai đoạn thứ
2 là giai đoạn mà “ GC VS sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình
để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay GC TS, để tập
trung tất cả các công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước tức là
trong tay GC VS đã được tổ chức thành giai cấp thống trị và để
tăng nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên”
2. Những điều kiện khách quan quy định SMLS của GCCN.
Lí luận về lịch sử của GCCN được C.Mác và Ph. Ă trình bày sâu
sắc trong TNCĐCS trên quan điểm cơ bản sau:
a. Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN
- Một là, GCCN là bộ phận và là bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các bộ phận cấu thành LLSX của XHTB. Họ
đại diện cho PTSX tiên tiến có trình độ xh hóa ngày càng cao.
+ GCCN là một bộ phận quan trọng nhất vì: nếu không có sức lao
động của người công nhân thì TLSX dù có hiện đại hóa đến đâu
cũng không thể tạo ra được hàng hóa. Hơn nữa các yếu tố của
LLSX chỉ trong sự kết hợp với nhau khi có sức lao động của người
công nhân.
+ GCCN là bộ phận cách mạng nhất trong LLSX vì: đại công
nghiệp cùng với sự áp dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ hiện đại làm cho công cụ lao động luôn được cải tiến, làm cho
công nhân cũng không ngừng nâng cao trình độ để sử dụng, điều
khiển các công cụ lao động ấy.
+ GCCN đại diện cho LLSX tiên tiến vì theo đặc trưng thứ nhất của
GCCN nên họ chính là người tìm tòi, phát minh hoặc trực tiếp áp
dụng những thành tự khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Từ đó làm
cho GCCN học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm.
- Hai là, do không có TLSX trong XHTB và bị nhà TB bóc lột giá
trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối
các kết quả lao động của chính họ.
+ Trong quá trình phát triển của xh TB, GCTS đã tìm cách tước
đoạt TLSX và đẩy họ xuống hang ngũ giai cấp vô sản như đúng
nghĩa đen của từ ấy. Vì không có TLSX nên họ không tự mình lao
động sản xuất mà phải bán sức lao động cho nhà TB để sống. Cũng
vì không có quyền chiếm hưu đối với TLSX nên họ cũng không có
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
10