Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.56 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
––––––––––

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH CÔNG
ĐỀ TÀI:

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ CÔNG
TẠI VIỆT NAM

GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng
Danh sách thành viên nhóm 5 –Lớp TC01 – CH23
Nguyễn Văn An

MSHV: 7701230268

Nguyễn Văn Đạo

MSHV: 7701230947

Đoàn Ngọc Thúy

MSHV: 7701231034

Nguyễn Thị Kim Duyên MSHV: 7701230394
Trần Thị Ngọc Diễm

MSHV: 7701230365

Trình Ngọc Lân


MSHV: 7701230618

Lê Thị Thanh Thảo

MSHV: 7701230947

TP.Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014


MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................2
I.Tổng quan nợ công...................................................................................................3
1.Khái niệm nợ công..........................................................................................................................3
2.Vai trò của nợ công.........................................................................................................................4

II.Thực trạng nợ công của Việt Nam.........................................................................5
1.Chính sách quản lý nợ công............................................................................................................5
2.Quy mô và cơ cấu nợ công..............................................................................................................6
3.Tình hình sử dụng nợ công.............................................................................................................7
4.Tình hình trả nợ của Việt Nam........................................................................................................8
5.Tình hình quản lý nợ công...............................................................................................................9
6.Đánh giá tính bền vững của nợ công............................................................................................12

III.Kết luận................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................19


I. Tổng quan nợ công
1. Khái niệm nợ công
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp, xung quanh khái niệm và nội

hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân hàng Thế giới
(WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu
vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa
phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do
NSNN quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ
nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của
Chính quyền Trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc
lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán. Quan niệm về nợ công của WB và IMF cũng
tương tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Diễn đàn
Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc, bao gồm bốn nhóm chủ thể: (1) nợ của
Chính quyền Trung ương và các Bộ, ban, ngành Trung ương; (2) nợ của các cấp chính
quyền địa phương; (3) nợ của Ngân hàng Trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc
lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự
phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong
trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Hiện nay, tùy thuộc vào thể chế kinh tế - chính trị, quan
niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật
Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ
bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó:
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài
nước, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước hoặc các khoản vay khác do Bộ
Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ
Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ;
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Khái niệm về nợ công của Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ
quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định: Nợ
công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng

lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan,
Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan,
Inđônêxia…).


Như vậy, một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công là tổng giá trị các
khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm
bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách” và Chính phủ phải chịu trách nhiệm trong
việc chi trả khoản vay đó. Vì thế, nợ công nói cách khác là thâm hụt ngân sách lũy kế
tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ Chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với GDP.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn của Chính phủ. Chi tiêu
công nhằm: Phân bổ nguồn lực; phân phối lại thu nhập; ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền
kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều trong khi các nguồn thu không đáp ứng nổi buộc
Chính phủ phải đi thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp
định tín dụng) và vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính
quốc tế… để bù vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến tình trạng nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách.
Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế
tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh
thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách
đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt
động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an
toàn hay rủi ro của nợ công. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ
phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng phát triển
của nền kinh tế.
2. Vai trò của nợ công
Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là
xấu. Nợ đem lại rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay.

Những nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… cũng chính là
những con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác
động tiêu cực. Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước.
Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất.
Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải
quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế;
Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân
cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước
vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả
kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư;


Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan
trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như
muốn hợp tác kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm
nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích
đối tác, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước.
Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động
tiêu cực: Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các
khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế
giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng,
lãng phí tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư và
điều quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động tích cực và
tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết
trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
II. Thực trạng nợ công của Việt Nam
Kể từ khi mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những bước phát triển

vượt bậc. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế vẫn nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc
chủ yếu vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ. Vì vậy, hiện tại
và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là
một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn cẫn rất nhiều sự hỗ trợ về mặt tài chính của các
tổ chức trên thế giới để phát triển.

1. Chính sách quản lý nợ công
Nhà nước đã ban hành nhều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm quản
lý nợ công ở Việt nam. Một số Luật liên quan như Luật Quản lý nợ công 2009, luật
NSNN 2002,..Bên cạnh đó, đối với hoạt động quản lý nợ công điều được điều chỉnh
bằng các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, quyết định của Chính phủ và TTCP


như: Nghị định 134/2005/NĐ-CP của chính phủ ngày 01/11/2005 ban hành quy chế
vay và trả nợ nước ngoài, nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của chính phủ
ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hổ trợ phát triển chính thức. Nhìn chung,
các văn bản quy phạm pháp luật điều chình hoạt động vay nợ nước ngoài tương đối
đồng bộ và đầy đủ, thể hiện những quan điểm đối mới trong quản lý nợ của chính phủ
phù hợp với luật NSNN 2002.
2. Quy mô và cơ cấu nợ công
Những năm qua nợ công của Việt Nam tăng nhanh cả về giá trị tuyệt đối cũng
như những tỷ lệ nợ công trên GDP.
Theo số liệu từ Bộ tài chính, quy mô nợ ngày cảng lớn và tăng nhanh trong
những năm gần đây. Nếu năm 2006, nợ công khoản gần 16 tỷ USD chiếm 44,5%
GDP, tuy nhiên đến năm 2012, mức nợ đã tăng lên 77 tỷ USD (5 lần) chếm 55,7%
GDP. Nợ nước ngoài và nợ trong nước của Chính phủ đều tăng, việc phát hành trái
phiếu Chính phủ thành công cùng với việc thu hút vốn ODA từ nước ngoài làm cho
tổng mức nợ của Chính phủ tăng lên trung bình đạt 43% trong 3 năm gần đây. Về cơ
cấu nợ, trước năm 2010, nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá lớn (hơn 80%) trong tổng

số nợ công, tuy nhiên tỷ lệ này có xu hướng giảm trong các năm 2010 – 2012.


Tính đến 31/12/2012, cơ cấu dư nợ công chia theo chủ nợ: nợ công của Việt
Nam chủ yếu được vay bằng Việt Nam đồng, đồng yên, đồng đô la, điều này cũng
đồng nghĩa với việc rủi ro về tỷ giá, lãi suất. Vay nước ngoài lớn nhất chủ yếu là vay
Nhật Bản 17%; thứ hai là vay World Bank (WB) thông qua nguồn vốn đặc biệt 13%;
thứ ba là vay của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) 8%. Vay trong nước thì chủ
yếu là đầu tư trái phiếu 28%, bảo hiểm xã hội 5%, vay tạm ứng tồn ngân kho bạc 9%,
vay khác là 20%. Như vậy, cơ cấu dư nợ công chia theo chủ nợ thì sẽ liên quan nhiều
tới tỷ giá, lãi suất.
3. Tình hình sử dụng nợ công
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển
tải vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển
kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu
quả cao, thể hiện ở các khía cạnh như:
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Tình trạng chậm trễ trong
giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ


diễn ra khá thường xuyên. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp,
kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật
tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng
như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả
các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR: Hiệu quả đầu tư tính
theo hệ ố ICOR của toàn nền kinh tế luan cao hơn hiệu quả đầu tư của khu vực công.
Điều này đồng nghĩa với việc lượng vốn đầu tư khu vực công bỏ ra cho tăng trưởng
luôn cao hơn con số tương ứng cần bỏ ra của đầu tư trong phạm vi toàn nền kinh tế.
cụ thể, trong các giai đoạn kế hoạch KT-XH 5 năm, giai đoạn từ 1996-2000, vốn đầu

tư công cần cho một đơn vị tăng trưởng cao gấp 1,4 con số trung bình của toàn nền
kinh tế, sau đó tiếp tục tăng cao hơn trong 2 giai đoạn kế hoạc 5 năm tiếp theo (tương
ứng là 1,4 và 1,5 cho giai đoạn 2000-2005 và 2006 -2010), giai đoạn từ 2011 đến nay,
tuy có giảm hơn nhưng vốn đầu tư công cho tăng trưởng vẫn cao hơn 1,3 lần so với
mức vốn đầu tư trung bình toàn nền kinh tế

4. Tình hình trả nợ của Việt Nam
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và
hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam đàn ra
trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dẫn qua các
năm , từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó quy mô của các
khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ nhanh chóng.


5. Tình hình quản lý nợ công
Nợ công được đo bằng tỷ lệ phần trăm so với GDP. Nhưng nếu chỉ xét chỉ tiêu
tỷ lệ nợ công/GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng
thực chất vấn đề. Do đó, để đánh giả hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam. Ta sẽ
dùng phương páp và cơ sở mà WB (2005) áp dụng đánh giá hiệu quả quản lý nợ công
cũng như tình trạng nợ công của các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao (viết tắc là HIPCs).
 Đánh giá tính ổn định của nợ nước ngoài
Việc đánh giá tính ổn định và mức độ bền vững của nợ công được thực hiện
qua việc đánh giá các chỉ tiêu sau:
− Tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu (NPV/X): Đo lường giá trị hiện tại ròng của nợ
nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu xuất khẩu.
Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 150%.
− Tỷ lệ nợ nước ngoài/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): Đo lường giá trị
hiện tại ròng của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ
nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 250%.
− Một quốc gia được xem là an toàn nếu như tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ lệ

NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Theo mức ngưỡng của HIPCs, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử
dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc
bằng 30%; tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP (DBR/GDP) phải lớn hơn 15%.
Qua tính toán của nhóm tác giả Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt
(2011) , có thể thấy từ năm 2004 đến năm 2010, tỷ lệ X/GDP của Việt Nam luôn ở
mức ca, trung bình 64,28%; trong khi tỷ lệ DBR/GDP trung bình ở mức 31,75%, thấp
nhất là 22,35% vào năm 2009. Do đó, Việt Nam đáp ứng được hai điều kiện X/GDP
1

Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt
Nam, Tạp chí Ngân hàng so 14 năm 2011.
1


30% và DBR/GDP 15%. Trong khi đó, tỷ lệ NPV/X 150% (NPV/X thấp, luôn dưới
mức 60%) và NPV/DBR 250% (NPV/DBR luôn dưới 150%). Như vậy, nợ công của
Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền vững và được đánh giá là vẫn ở ngưỡng an
toàn mà Ngân hàng Thế giới đưa ra.
 Sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ nước ngoài
Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà Ngân hàng Thế giới đưa vào
để đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách và thể
chế. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao
hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng dựa
vào tỷ lệ nợ truyền thống để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc gia.
Dựa vào giá trị ngưỡng, Ngân hàng Thế giới phân loại 3 mức thực hiện chính sách:
kém, vừa và mạnh (Bảng 4). Trong quá trình đánh giá chính sách, quản lý được xem
là có trọng số lớn nhất.

Qua tính toán ta thấy, từ năm 2004 đến năm 2010, ba chỉ số nợ công của Việt
Nam là NPV/GDP 30% trong khi NPV/X < 60%, NPV/DBR <150%. Điều này cho

thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài củaViệt Nam xếp vào chỉ số CPIA3,
tức là ở mức kém.
 Đánh giá nợ trong nước
Nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là Nợ trong nước/GDP và Nợ
trong nước/DBR. Với tỷ lệ Nợ trong nước/GDP nhìn chung luôn ở mức thấp hơn
nhưng khá sát với ngưỡng 20%-25%, tương tự, Nợ trong nước/DBR luôn ở mức thấp
hơn nhưng khá sát với ngưỡng 92% (Bảng 5). Do đó, nợ trong nước của Việt Nam
được đánh giá là ổn định.


 Tính công bằng về gánh nặng nợ giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai
Như đã phân tích ở trên, thông qua chỉ số ICOR, ta thấy rằng hiệu quả sử dụng
nợ công và hiệu quả của các dự án đầu tư còn rất thấp. Việt Nam vay nợ để đầu tư và
phát triển kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp khiến nguồn thu hồi để trả nợ
trong tương lai từ các dự án này thấp và bị hạn chế. Các khoản vay và chi tiêu hiện tại
của chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả trong tương lai; chúng làm tăng sức
ép lên bội chi mới. Hậu quả là, thế hệ tương lai sẽ phải chịu gánh nặng nợ cao hơn thế
hệ hiện tại. Tóm lại, tính công bằng liên thế hệ về gánh nặng nợ ở Việt Nam được
đánh giá là thấp.
Bảng 6. Một số chỉ số đo lường hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam năm 2004
– 2010 theo mức ngưỡng của HIPCs (%)
Chỉ số

2005

2006

2007

2008


2009

2010

51,03

50,91

45,96

35,44

51,41

40,49

NPV/DBR 116,42

92,48

89,96

82,29

67,56

137,7
4


101,28 98,10

NPV/GDP 32,32

31,28

33,07

30,72

24,12

30,79

28,43

30,10

Nợ trong 10,31
nước/GDP

12,54

12,66

19,14

21,09

19,67


25,67

17,30

Nợ trong 37,12
nước/Thu
ngân sách

37,07

34,44

50,65

59,07

88,01

91,42

56,82

X/GDP

58,69

61,28

64,95


66,84

68,06

59,88

70,23

64,28

DBR/GDP 27,77

33,82

36,76

37,79

35,71

22,35

28,08

31,75

NPV/X

2004

55,08

2004
-2010
47,19

Nguồn: Mai Thu Hiền và Nguyên Thị Như Nguyệt (2011), Tình hình nợ công
và quản lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 14 năm 2011


Như vậy, áp dụng phương pháp đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của Ngân
hàng Thế giới, có thể khẳng định rằng nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn
an toàn theo mức ngưỡng của HIPCs, song nếu xét tính công bằng liên thế hệ về gánh
nặng nợ công thì quản lý nợ công của Việt Nam còn kém hiệu quả, cần phải được cải
thiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
6. Đánh giá tính bền vững của nợ công
Nợ công nước ngoài của một quốc gia được coi là bền vững nếu như các nghĩa
vụ nợ (trả gốc và lãi) được thực hiện một cách đầy đủ mà không cần sử dụng đến các
biện pháp tài trợ ngoại lệ (ví dụ như xin miễn giảm), hoặc không cần phải thực hiện
những điều chỉnh lớn đối với cán cân thu nhập và chi tiêu của mình. Đối với các quốc
gia có thu nhập thấp, việc thực hiện nghĩa vụ nợ thường gặp khó khăn khi các chủ nợ,
bao gồm các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước, và các nhà tài trợ không cung
ứng các khoản vay hoặc tài trợ mới đủ để tài trợ cho thâm hụt tài khoá cơ bản. Ngoài
ra, việc thực hiện nghĩa vụ nợ cũng gặp rắc rối nếu như nó có chi phí tiền lãi quá lớn.
Mặc dù nợ nước ngoài thường có quy mô lớn và thường là nguyên nhân chính
gây ra các cuộc khủng hoảng nợ, nợ trong nước ở các nền kinh tế phát triển cũng
không hề nhỏ. Hơn nữa, không giống như nợ nước ngoài, nợ trong nước thường có lãi
suất rất cao và dễ thay đổi theo môi trường kinh tế vĩ mô ở các nước thu nhập thấp.
Đặc biệt, nợ trong nước thường có kì hạn ngắn nên nó có thể làm nảy sinh những rủi
ro đi liền với nhu cầu đảo nợ hàng năm. Do vậy việc đánh giá tính bền vững của nợ

công dựa trên cả các thông tin về nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước.
Đánh giá hiện trạng nợ công bao gồm việc xem xét quy mô hiện tại, cơ cấu kỳ
hạn, cơ cấu lãi suất cố định hay thả nổi, cơ cấu tiền tệ và chủ nợ
 Cấu trúc nợ của Việt Nam
Tổng nợ nước ngoài phản ánh tất cả các nghĩa vụ nợ đối với nước ngoài của cả
khu vực công lẫn khu vực tư của nền kinh tế Việt Nam. Tổng nợ nước ngoài được
phân tách ra thành nợ công nước ngoài (gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ
nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh) và nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo
lãnh (gồm cả của khu vực tư và DNNN). Tổng nợ công được định nghĩa là nợ trong
nước và nước ngoài của khu vực công, bao gồm nợ của chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương nhưng không bao gồm nợ của DNNN, kể cả những doanh
nghiệp mà Nhà nước sở hữu trên 50% vốn. Chỉ có nợ của các DNNN được Chính phủ
bảo lãnh mới được tính vào tổng nợ công.
Trước tiên, có thể thấy rằng, việc tiếp cận các nguồn thông tin chính thống và
cập nhật về nợ công, nợ nước ngoài và nợ của DNNN ở Việt Nam là hết sức khó
khăn. Nguồn thông tin chính thống về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay được


cung cấp duy nhất qua Bản tin Nợ nước ngoài phát hành định kì sáu tháng/lần của Bộ
Tài chính. Các thống kê khác về nợ công trong nước và đặc biệt là nợ của khối DNNN
đều không được công bố chi tiết và chính thống. Các số liệu về nợ của DNNN được
thu thập và tính toán dựa vào báo cáo của Bộ Tài chính tại các kì họp Quốc hội và
thống kê dư nợ tín dụng trong hệ thống ngân hàng của NHNN, do vậy các con số này
có thể khác nhau về thời điểm tính toán. Thách thức đầu tiên trong việc quản lý nợ
công Việt Nam đó là việc xây dựng một hệ thống cung cấp và quản trị thông tin nợ
công/nợ nước ngoài một cách minh bạch và nhanh chóng. Điều này có lẽ cần có sự
nhìn nhận đúng đắn của các nhà quản lý và hoạch định chính sách ở Việt Nam về vấn
đề quản lý rủi ro nợ công hiện nay.
Đến cuối năm 2013, nợ công bằng 54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%,
nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước

ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến cuối năm 2014 nợ công khoảng 60,3%
GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ của chính
quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP2.
Tuy nhiên, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không
phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách. Những khoản nợ xấu của khu vực
DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe
doạ tính bền vững của nợ công Việt Nam. Cụ thể, khoản nợ nước ngoài của khu vực
tư, mà chủ yếu là DNNN, không được Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,6% GDP. Ngoài
ra, nợ trong hệ thống ngân hàng của khu vực DNNN theo ghi nhận trong đề án Tái
cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính (2012) cũng chiếm xấp xỉ khoảng 16,5% GDP. Nếu
tính đến các con số này và cộng với các khoản nợ bằng trái phiếu trong nước không
được Chính phủ bảo lãnh khác của DNNN, thì nợ công Việt Nam sẽ lên tới xấp xỉ
95% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn (60% GDP) được khuyến cáo bởi các tổ
chức quốc tế như WB hay IMF.
 Cơ cấu kỳ hạn và lãi suất
Là quốc gia có thu nhập thấp cộng với những thành tựu kinh tế đáng kể đã
khiến giúp Việt Nam được hưởng các khoản vay ưu đãi với kì hạn dài và lãi suất thấp
từ các tổ chức quốc tế trong suốt hơn một thập kỉ qua. Những tính toán đơn giản từ
Bản tin Nợ Nước ngoài số 7 của MoF cho thấy, tính đến 31/12/2010, có tới hơn 76,4%
nợ nước ngoài của Chính phủ có mức lãi suất cố định ưu đãi dưới 3%.
Tuy nhiên, nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay
ODA, vay ưu đãi nước ngoài với kỳ hạn dài, lãi suất thấp trong nợ công giảm dần nên

2

Baodientu.chinhphu.vn, “Thông cáo báo chí của Phiên họp CP thường kỳ tháng 10 về nợ công”


chúng ta chuyển sang vay trong nước. Tỷ trọng vay trong nước tăng lên, chủ yếu qua
phát hành trái phiếu Chính phủ ngắn hạn dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính

phủ tăng nhanh trong ngắn hạn. Điều này hàm ý gánh nặng lãi suất của các khoản nợ
công nước ngoài của Việt Nam là khá nhỏ trong khi gánh nặng lãi suất nợ công trong
nước là khá cao.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng, trong vài năm trở lại đây, quy mô của các khoản
vay thương mại trong nợ nước ngoài với lãi suất cao đang có xu hướng tăng lên. Tính
đến hết ngày 31/12/2010, đã có gần 6,8% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi
suất lên tới 6-10% và hơn 7,0% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất thả nổi.
Bên cạnh đó, cơ cấu kì hạn của các khoản nợ công trong nước cũng gây rủi ro
khá lớn. Trong khi các khoản nợ nước ngoài có kì hạn dài tới vài chục năm thì hơn
88,7% nợ TPCP và TPCP bảo lãnh có kì hạn chỉ từ 2-5 năm. Do vậy, nghĩa vụ nợ
nước ngoài được dàn khá đều qua mỗi năm (khoảng 1,5-2 tỉ USD/năm) thì nghĩa vụ
nợ trong nước lại dồn nén trong tương lai gần (xấp xỉ 4,5-5 tỉ USD/năm trong vòng
bốn năm tới). Cùng với triển vọng cán cân ngân sách cơ bản tiếp tục thâm hụt.
Như vậy, với tỉ trọng đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây,
nợ công trong nước đang hàm chứa những rủi ro do lãi suất cao cộng với kì hạn ngắn
của nó. Chỉ tính riêng năm 2012, nghĩa vụ trả nợ lãi và gốc lên tới xấp xỉ 5,44 tỉ USD
hay tương đương 4,5% GDP của năm 2011. Đây là những nguyên nhân chính của
hiện tượng chi tiêu công lấn át chi tiêu tư nhân kết hợp với lạm phát cao do sức ép tài
trợ trái phiếu thông qua việc tăng cung tiền.
 Cơ cấu đồng tiền và tỉ giá
Mặc dù nợ nước ngoài có thể được hưởng lãi suất thấp, nó lại tiềm ẩn đầy rủi
ro về tỉ giá. Sự mất giá của đồng nội tệ sẽ khiến cho gánh nặng nợ nước ngoài tính
theo nội tệ tăng lên. Cũng theo Bản tin Nợ nước ngoài số 7, trong nhiều năm qua, cơ
cấu nợ nước ngoài của Chính phủ Việt Nam theo các đồng tiền khác nhau khá ổn định.
Nếu phân theo loại tiền, tính đến hết tháng 12/2010, cơ cấu nợ nước ngoài của Chính
phủ Việt Nam chủ yếu bao gồm những đồng tiền mạnh như JPY (38,8%), SDR
(27,1%), USD (22,2%) và EUR (9,2%). Nợ theo các đồng tiền khác chỉ chiếm một tỉ
lệ rất nhỏ (chưa đến 3%).
Hình 2. Tỷ trọng nợ công nước ngoài theo các đồng tiền khác nhau



Nếu phân theo chủ nợ, các chủ nợ lớn của Chính phủ Việt Nam bao gồm Nhật
(34,3% tổng nợ) và các tổ chức quốc tế như IDA (24,9%) và ADB (15,0%). Nước Mỹ
và khối EU chỉ chiếm lần lượt 0,3% và gần 6,9% tổng nợ của Chính phủ Việt Nam,
tuy nhiên nợ theo đồng tiền của các nước/khu vực này lại chiếm tỉ trọng lớn. Điều này
cho thấy các chủ nợ thường có xu hướng sử dụng những đồng tiền mạnh, và việc vay
nợ theo các đồng tiền mạnh này khiến nợ nước ngoài chịu rủi ro cao khi chúng có xu
hướng lên giá theo thời gian. Cụ thể, chỉ tính kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng
6/2011, ba đồng tiền chủ chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của
Việt Nam đã lên giá lần lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cho
thấy gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây
sức ép đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ.
 Các chỉ số phản ánh gánh nặng nợ
Trong phần này, chúng ta thực hiện việc so sánh nghĩa vụ và khối lượng nợ với
các thước đo phản ánh năng lực trả nợ của Việt Nam.
Nghĩa vụ nợ (Debt service) bao gồm chi trả nợ gốc và lãi hàng năm. Nó phản
ánh nguồn lực mà Việt Nam phải bỏ ra hàng năm để thực hiện nghĩa vụ vay nợ của
mình và phản gánh nặng tài khoá đối với khu vực tư nhân. So sánh nghĩa vụ nợ với
khả năng thanh toán sẽ cho ta những chỉ báo tốt nhất để phân tích xem nước đó có gặp
phải khó khăn gì trong việc chi trả ở thời điểm hiện tại hay không. Tuy nhiên, thước
đo này không giúp gì được cho việc dự báo nợ bởi nó không tính được các khoản vay
nợ có thể phát sinh trong tương lai.
Khối lượng nợ (Debt stock) là chỉ số phản ánh gánh nặng nợ có tính đến các
khoản thanh toán nợ trong tương lai. Khối lượng nợ có thể được đo lường bởi giá trị
danh nghĩa hoặc giá trị hiện tại ròng (NPV) của nợ. Khi đo lường theo giá trị danh
nghĩa, khối lượng nợ chính là tổng giá trị của các khoản chi trả nợ gốc trong tương lai,
mà không liên quan gì đến lãi suất của nợ. Khi đo lường theo NPV, khối lượng nợ là
tổng giá trị chiết khấu của các dòng chi trả nợ gốc và lãi trong tương lai. Tuy nhiên,
thước đo NPV cũng bỏ qua sự thay đổi của năng lực trả nợ theo thời gian. Gánh nặng
nợ hiện tại có thể không đáng ngại nếu như năng lực trả nợ của quốc gia tăng dần

trong tương lai. Ngoài ra, cũng như nhiều quốc gia có thu nhập thấp khác, nợ nước
ngoài của Việt Nam phần lớn là nợ ưu đãi với lãi suất thấp và kì hạn dài. Do vậy,
thước đo NPV có thể phản ánh chính xác hơn gánh nặng nợ nước ngoài. Trong khi đó,
nợ trong nước thường có lãi suất thị trường, do vậy giá trị danh nghĩa thường được sử
dụng khi xem xét tổng nợ công. Công thức tính NPV của nợ có thể được viết như sau:


Trong đó DSt phản ánh các nghĩa vụ nợ ở năm t và r là lãi suất thị trường,
thường được gọi là tỉ lệ chiết khấu. NPV của nợ sẽ nhỏ hơn giá trị danh nghĩa của nợ
nếu như lãi suất nợ nhỏ hơn tỉ lệ chiết khấu và ngược lại.
Các báo cáo về nợ của Việt Nam hiện nay không cung cấp đầy đủ thông tin về
các dòng chi trả nợ gốc và lãi trong tương lai. Bản tin Nợ nước ngoài của Bộ Tài
chính hiện chỉ cung cấp các dòng chi trả của nợ nước ngoài cho đến năm 2026. Trong
khi đó, các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam có kì hạn dài lên đến 20-30 năm nên
việc tính toán NPV là không khả thi. Do vậy, chúng ta sử dụng giá trị danh nghĩa để
phản ánh khối lượng nợ trong phân tích tính bền vững của nợ Việt Nam. Việc tính
toán NPV sẽ được thực hiện khi các nguồn thông tin được cung cấp đầy đủ.
Năng lực trả nợ có thể được đo lường theo GDP, xuất khẩu và thu ngân sách.
GDP phản ánh nguồn lực tổng thể của nền kinh tế, trong khi xuất khẩu cung cấp thông
tin cho chúng ta về lượng ngoại tệ có thể dùng để trả nợ. Thu ngân sách phản ánh khả
năng của chính phủ trong việc tạo ra nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các nguồn nguyên vật liệu và máy
móc nhập khẩu. Do vậy, việc sử dụng tổng giá trị xuất khẩu làm thước đo phản ánh
năng lực trả nợ nước ngoài có thể sẽ cung cấp những thông tin kém chính xác.
Theo thông lệ, nợ nước ngoài thường được so sánh với GDP và xuất khẩu
trong khi nợ công thường được so sánh với GDP và thu ngân sách. Tương tự như vậy,
nghĩa vụ nợ nước ngoài và nghĩa vụ nợ công thường lần lượt được tính toán trong mối
quan hệ với xuất khẩu và tổng thu ngân sách.
Việc xếp hạng một nước rơi vào trường hợp chính sách yếu, trung bình hoặc tốt
được WB xếp hạng dựa trên điểm đánh giá chất lượng chính sách và thể chế CPIA

(Country Policy and Institutional Assessment). Nói một cách tóm tắt, CPIA đo lường
mức độ hỗ trợ của chính sách và khung thể chế của một quốc gia đối với tăng trưởng
bền vững và giảm đói nghèo. CPIA được chấm theo thang điểm 6. Những nước có
điểm CPIA thấp hơn hoặc bằng 3,25 được coi là có chính sách yếu, bằng hoặc lớn hơn
3,75 được coi là tốt. Việt Nam được chấm điểm 3,86, tức là thuộc vùng thấp ở diện
những nước có chính sách tốt vào năm 2010. Tuy nhiên, lạm phát cao và tăng trưởng
giảm sút trong năm 2011 do các chính sách thắt chặt tài khoá và tiền tệ thì nhiều khả
năng điểm CPIA của Việt Nam sẽ rơi vào nhóm trung bình.
Bảng dưới đây cho thấy một số chỉ tiêu phản ánh khối lượng nợ đã tiệm cận
với các ngưỡng cảnh báo. Cụ thể, tổng nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam đã vượt
ngưỡng khuyến cáo đối với quốc gia có môi trường chính sách trung bình và trong khi
nợ nước ngoài/thu ngân sách đang tiến dần tới ngưỡng của quốc gia có chính sách
yếu. Tuy nhiên, nếu xét theo các chỉ số phản ánh nghĩa vụ nợ nước ngoài, dù rơi vào
nhóm môi trường chính sách nào đi chăng nữa thì nghĩa vụ nợ nước ngoài của Việt


Nam còn ở dưới xa các ngưỡng cảnh báo của IMF và WB. Có được điều này là nhờ
các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế.
Bảng 7. Ngưỡng an toàn của tổng nợ nước ngoài theo WB và IMF

Do vậy, có thể thấy rằng, rủi ro nợ công của Việt Nam chủ yếu đến từ phần nợ
trong nước. Nợ nước ngoài tuy quy mô khá lớn nhưng nhờ được hưởng lãi suất thấp
và kì hạn dài nên gánh nặng trả nợ hàng năm là tương đối thấp trong những năm tới.
Tuy nhiên, trạng thái an toàn này chỉ được đảm bảo nếu như Việt Nam ổn định được tỉ
giá hối đoái. Điều này, đến lượt nó lại được quyết định bởi việc liệu chúng ta có cải
thiện được cán cân vãng lai và duy trì được môi trường lạm phát thấp trong tương lai
hay không.
Ngược với nợ nước ngoài, gánh nặng nợ công trong nước đang đè nặng lên cán
cân tài khoá hàng năm. Cụ thể, tổng nợ công/thu ngân sách của Việt Nam hiện nay đã
vượt 206,3% thu ngân sách và nghĩa vụ nợ công/thu ngân sách cũng lên tới hơn

21,6%. Đặc biệt, các khoản nợ công trong nước với lãi suất cao và kì hạn ngắn gây
sức ép lớn đối với việc đảo nợ. Ước tính, trong giai đoạn 2012-2014, mỗi năm Việt
Nam cần phát hành khoảng xấp xỉ 100-120 ngàn tỉ đồng TPCP và TPCP bảo lãnh,
tương đương với khoảng hơn 15% tổng thu ngân sách, chỉ để trả nợ gốc và thanh toán
nợ lãi trong nước.
Bảng 8. Gánh nặng nợ Việt Nam tính đến cuối năm 2011 (%)


III.

Kết luận

Khi xét đến nợ công, không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả
mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ, vấn đề quan trọng phải tính là khả
năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Hiện
nay, tiêu chí phổ biến để đánh giá mức an toàn của nợ công được áp dụng cụ thể là:
Giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 50%
kim ngạch xuất khẩu. WB đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.
− Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả
nợ của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không
có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là
trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình
trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
− Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ
lệ nợ/GDP, mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động
tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức
tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ
công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được xem xét
khi đánh giá bản chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt

quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức
ép cả bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của nền
kinh tế, quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi
lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu
ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị
giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế
đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn
an toàn mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình
thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế
nào…, cũng dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu
cực đến tăng trưởng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài Chính, Bản tin nợ công số 2, tháng 10/2013.
2. Bộ Tài Chính , Bản tin nợ nước ngoài số 7, tháng 7/2011.
3. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013), Tương lai nợ công của Việt Nam: Xu hướng và
thử thách, Tạp chí Ngân hàng, số 3, 2013.
4. Mai Thu Hiền và Nguyên Thị Như Nguyệt (2011), Tình hình nợ công và quản
lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 14, năm 2011.
5. Nguyễn Tuấn Tú (2012), Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải

pháp, Tạp chí Khoa học DHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012), trang
200-208. < >
6. Phạm Thế Anh và cộng sự (2013), Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: quá

khứ, hiện tại và tương lai, Báo cáo nghiên cứu RS-05.
/>ItemID=25 >


<

7. Vũ Thành Tự Anh (2010), Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam. <

/>8. Website của Bộ tài chính (www.mof.gov.vn); Tổng cục thống kê
(www.gso.gov.vn) và một số website khác.



×