Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vụ án Nguyễn Đức Kiên và những vấn đề đặt ra cho công tác giám sát và quản lý ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.93 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
----------

TIỂU LUẬN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI

VỤ ÁN NGUYỄN ĐỨC KIÊN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO
CÔNG TÁC GIÁM SÁT
VÀ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG
Giảng viên hướng dẫn:

PGS. TS Trương Quang Thông

Lớp:

Tài chính doanh nghiệp 01 – K23

Nhóm thực hiện:

Nhóm 1

TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2014


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông


DANH SÁCH NHÓM 1
STT

MSHV

1

7701230289

Lê Thị Huyền Anh

2

7701231264

Nguyễn Hữu Đăng

3

7701230493

Lê Văn Hiển

4

7701230533

Thái Thị Cẩm Hợp

5


7701230618

Trình Ngọc Lân

6

7701230744

Huỳnh Thanh Nhân

7

7701230835

Hoàng Xuân Quý

Nhóm 1 – TC01 – K23

Họ tên

Ký tên


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Mục lục
Lời mở đầu.................................................................................................................1

Phần 1 - Tóm tắt vụ án..............................................................................................2
Phần 2 - Các tội danh của Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm theo cơ quan điều
tra................................................................................................................. 3
2.1.Hành vi phạm tội kinh doanh trái phép..........................................................3
2.2.Hành vi trốn thuế thu nhập doanh nghiệp.....................................................4
2.3.Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Đức Kiên, Trần Ngọc
Thanh, Nguyễn Thị Hải Yến..........................................................................4
2.4.Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng............................................................................................5
Phần 3 - Tranh luận và phản biện của Nguyễn Đức Kiên và các luật sư tại Phiên
tòa sơ thẩm..................................................................................................6
3.1.Tranh luận về hành vi phạm tội kinh doanh trái phép..................................6
3.2.Tranh luận về hành vi trốn thuế......................................................................7
3.3.Tranh luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.................................................8
3.4.Tranh luận về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm
trọng............................................................................................................... 10
Phần 4 - Những vấn đề đặt ra cho công tác giám sát và quản lý ngân hàng tại Việt
Nam............................................................................................................12
Lời kết 15
Tài liệu tham khảo...................................................................................................16
Phụ lục 17

Nhóm 1 – TC01 – K23


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Danh mục chữ viết tắt

ACB

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

ACBS

Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ACB

ACBI

Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội

ACI

Công ty cổ phần đầu tư Á Châu

ACI-HN

Công ty TNHH đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội

AFG

Công ty cổ phần Tập đoàn Tài chính Á Châu

B&B

Công ty đầu tư thương mại B&B

CSĐT


Cảnh sát Điều tra

CTCP

Công ty cổ phần

DN

Doanh nghiệp

HĐQT

Hội đồng quản trị

HĐXX

Hội đồng xét xử

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức tín dụng


TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TGĐ

Tổng Giám đốc

VKS

Viện kiểm sát

Nhóm 1 – TC01 – K23


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Lời mở đầu
Nguyễn Đức Kiên (còn được biết với biệt danh "bầu Kiên", "Kiên bạc") sinh ngày
13/4/1964 tại Hà Nội. Trước khi bị bắt, ông Kiên là thành viên Hội đồng sáng lập
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB). Ông Kiên từng có vị trí trong Hội
đồng quản trị của ACB từ năm 1994 và đến ngày 17/10/2006. Đến trước khi thôi làm
thành viên HĐQT của ACB, Nguyễn Đức Kiên và người thân nắm giữ 9,71% cổ phần
của ACB. Ông Kiên còn có cổ phần trong các ngân hàng lớn khác như Eximbank,

Kienlongbank, Vietbank, Đại Á, Techcombank,…Ngoài ra ông Kiên còn làm Chủ tịch
HĐQT Công ty Thể thao ACB, Chủ tịch HĐQT Công ty Thiên Nam, Phó Chủ tịch
HĐQT Công ty cổ phần Dịch vụ Du lịch Chợ Lớn, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm
Tổng Giám đốc Tập đoàn Tài chính Á Châu và là Phó Chủ tịch Công ty cổ phần Bóng
đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF), Chủ tịch Câu lạc bộ bóng đá Hà Nội. Nhìn vào
tiểu sử của Nguyễn Đức Kiên, từ lĩnh vực ngân hàng thương mại cổ phần đến du lịch,
ông bầu bóng đá, ở lĩnh vực nào ông Kiên cũng giữ vai vế "khủng".
Tuy nhiên, ngày 09/6/2014, Nguyễn Đức Kiên đã bị Tòa án sơ thẩm kết án 30 năm
tù với 4 tội danh là kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cố ý
làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng. Vậy, tại sao một người đầy
quyền lực, danh vọng trong bóng đá, đại gia trong lĩnh vực ngân hàng, người từng làm
"nổ tung" giới truyền thông với những phát biểu trong lĩnh vực bóng đá, đến bây giờ
lại vướng vào vòng tù tội.
Tiểu luận “Vụ án Nguyễn Đức Kiên và những vấn đề đặt ra cho công tác giám
sát và quản lý ngân hàng” sẽ cung cấp một cái nhìn rõ hơn về vấn đề này.
Bài viết gồm 4 phần:
Phần 1 - Tóm tắt vụ án Nguyễn Đức Kiên.
Phần 2 - Các tội danh theo cơ quan điều tra.
Phần 3 - Tranh luận và phản biện của Nguyễn Đức Kiên và các luật sư tại Phiên tòa sơ
thẩm.
Phần 4 - Những vấn đề đặt ra cho công tác giám sát và quản lý ngân hàng tại Việt
Nam.

Nhóm 1 – TC01 – K23

1


Tiểu luận Quản trị ngân hàng


GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Phần 1 - Tóm tắt vụ án
Theo cáo trạng, trong thời gian tháng 7 và tháng 8 năm 2012, Cơ quan cảnh sát
điều tra – Bộ Công an (CSĐT) nhận được một số đơn tố cáo của một số cá nhân; nội
dung tố cáo Nguyễn Đức Kiên có hành vi kinh doanh trái phép, cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế, thao túng ngân hàng làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Ngày 20/8/2012, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt
tạm giam đối với Nguyễn Đức Kiên (nguyên Chủ tịch hội đồng đầu tư Ngân hàng
ACB, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập ngân hàng ACB) về hành vi kinh doanh
trái phép tại 06 công ty con do ông Kiên làm Chủ tịch HĐQT/Hội đồng thành viên,
gồm: Công ty Đầu tư Thương mại B&B (Công ty B&B), CTCP Tập đoàn tài chính Á
Châu (Công ty AFG), CTCP Đầu tư ACB Hà Nội (Công ty ACBI), CTCP Đầu tư Á
Châu (Công ty ACI), Công ty TNHH đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội (Công ty ACIHN), CTCP Phát triển sản xuất và Xuất nhập khẩu Thiên Nam (Công ty Thiên Nam).
Kinh doanh trái phép chỉ là tội danh khởi tố ban đầu. Sau đó, cơ quan CSĐT đã
khởi tố, làm rõ thêm 3 tội danh khác của ông Kiên, gồm: cố ý làm trái quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
trốn thuế. Cùng với đó, các thuộc cấp và đồng nghiệp của ông Kiên cũng dính vào
vòng tố tụng, cụ thể: ông Trần Xuân Giá (nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB),
Lê Vũ Kỳ (nguyên Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB), Trịnh Kim Quang (nguyên
Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB), Phạm Trung Cang (nguyên Phó Chủ tịch
HĐQT Ngân hàng ACB), Huỳnh Quang Tuấn (nguyên thành viên HĐQT – Phó TGĐ
Ngân hàng ACB), Lý Xuân Hải (TGĐ Ngân hàng ACB) bị truy tố về tội cố ý làm trái
quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; Trần Ngọc
Thanh (nguyên Giám đốc Công ty ACBI) và Nguyễn Thị Hải Yến (nguyên Kế toán
trưởng Công ty ACBI) bị truy tố về tội lừa đảo chiểm đoạt tài sản.
Ngày 20/5/2014, Phiên tòa xét xử sơ thẩm Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm
được mở trở lại sau khi tạm hoãn ngày 16/4/2014. Phiên tòa diễn ra trong 12 ngày xét
xử. Trong phiên tòa sơ thẩm, HĐXX quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với ông Trần

Xuân Giá do ông Giá đang bị bệnh hiểm nghèo.
Ngày 09/06/2014, Tòa tuyên án sơ thẩm đối với các bị cáo, cụ thể: (i) Nguyễn Đức
Kiên bị phạt 30 năm tù với 4 tội danh đã nêu; (ii) Trần Ngọc Thanh bị phạt 5 năm 6
tháng tù và Nguyễn Thị Hải Yến bị phạt 5 năm tù cho tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài
sản; (iii) với nhóm tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng: Lê Vũ Kỳ bị phạt 5 năm tù, Lý Xuân Hải bị phạt 8 năm tù,
Trịnh Kim Quang bị phạt 4 năm tù, Phạm Trung Cang bị phạt 3 năm tù và Huỳnh
Quang Tuấn bị phạt 2 năm tù, ngoài ra các bị cáo còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản
lý tín dụng trong 5 năm kể từ khi mãn hạn tù.

Nhóm 1 – TC01 – K23

2


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Phần 2 - Các tội danh của Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm
theo cơ quan điều tra
Thông qua cáo trạng số 10/VKSTC-V1 ngày 10/2/2014 của Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao, bài viết sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về các tội danh của Nguyễn
Đức Kiên và các đồng phạm theo cơ quan điều tra.
2.1. Hành vi phạm tội kinh doanh trái phép
Theo cáo trạng, Nguyễn Đức Kiên thành lập, đồng thời là Chủ tịch HĐQT/Hội
đồng thành viên nắm vai trò chỉ đạo, điều phối hoạt động của 06 công ty, gồm Công ty
B&B, Công ty AFG, Công ty ACBI, Công ty ACI, Công ty ACI-HN, Công ty Thiên
Nam. Thông qua các công ty này, ông Kiên đã tiến hành kinh doanh tài chính và kinh
doanh vàng trạng thái trái phép, cụ thể:

 Kinh doanh tài chính trái phép:
(i) Từ ngày 4/9/2009 đến ngày 31/3/2011, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
B&B sử dụng số tiền 2.348.995.679.720 đồng để góp vốn vào Công ty AFG, mua cổ
phiếu CTCP Bất động sản Hòa Phát – Á Châu, Vietbank, mua cổ phần CTCP Đầu tư
INB, CTCP Thương Mại Dịch vụ Bắc Qua, CTCP Thương Mại Lãng Yên.
(ii) Từ ngày 15/3/2007 đến ngày 16/6/2009, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
AFG sử dụng số tiền 4.068 tỷ đồng để mua trái phiếu chuyển đổi của ngân hàng ACB
và góp vốn vào các công ty: Công ty ACI, Công ty ACI-HN và Công ty ACBI.
(iii) Từ ngày 15/5/2007 đến ngày 26/3/2008, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
ACBI sử dụng số tiền 1.433.391.914.600 đồng để góp vốn vào CTCP Thương mại
Dịch vụ Bắc Qua, CTCP Thương mại Lãng Yên, Công ty TNHH Đầu tư và Kinh
doanh siêu thị Á Châu, CTCP Thép cán tấm Kinh Môn, Công ty TNHH Một thành
viên Thương mại Đầu tư Liên Á Châu và mua cổ phiếu Techcombank, Eximbank.
(iv) Từ ngày 10/3/2008 đến ngày 26/8/2010, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
ACI sử dụng số tiền 451,250 tỷ đồng để mua cổ phần của CTCP Đầu tư & Thương
mại Nhà Rồng, CTCP Dịch vụ hàng hóa Sài Gòn và Công ty Bia – Rượu – Nước giải
khát Sài Gòn.
(v) Từ ngày 22/12/2008 đến ngày 03/8/2012, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
ACI-HN sử dụng số tiền 1.411.371.592.926 đồng để góp vốn vào CTCP Đầu tư Năm
Sao, CTCP Phát triển hạ tầng dệt may Phố Nối và mua cổ phiếu ACB, DaiAbank,
Vietbank, KienLongbank và Eximbank.
 Kinh doanh vàng trái phép:
Công ty Thiên Nam không được cấp phép kinh doanh vàng vật chất và vàng trạng
thái. Tuy nhiên, từ 30/11/2009 đến 30/7/2009, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Công ty
Thiên Nam ký hợp đồng với Ngân hàng ACB để kinh doanh vàng trạng thái trên tài
Nhóm 1 – TC01 – K23

3



Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

khoản ở nước ngoài và trong nước với tổng khối lượng giao dịch mua, bán là 462.400
Ounce, 75.000 lượng vàng SJC tổng giá trị 11.777.443.207.500 đồng. Kết quả kinh
doanh trạng thái vàng ở nước ngoài và trong nước, Công ty Thiên Nam bị lỗ tổng số
tiền 433.337.386.791 đồng. Số tiền này Ngân hàng ACB cho Công ty Thiên Nam nhận
nợ đến năm 2015.
Tóm lại, từ ngày 15/05/2007 đến ngày 03/08/2012, ông Kiên đã thông qua 06 công
ty do mình là Chủ tịch HĐQT hoặc Hội đồng thành viên để tổ chức hoạt động kinh
doanh không đúng với nội dung đăng ký kinh doanh và lợi dụng các cơ quan, tổ chức
này để kinh doanh cổ phần, cổ phiếu và kinh doanh vàng với tổng số tiền
21.490.452.394.746 đồng. Hành vi nêu trên của Nguyễn Đức Kiên đã phạm vào tội
“Kinh doanh trái phép” quy định tại Điều 159 của Bộ luật hình sự.
2.2. Hành vi trốn thuế thu nhập doanh nghiệp
Từ ngày 25/12/2008 đến 31/12/2009, Công ty B&B thực hiện các lệnh ủy thác cho
Ngân hàng ACB mua bán vàng trạng thái thu được lãi số tiền 100.046.895.705 đồng.
Biết chính sách của Nhà nước về việc miễn thuế thu nhập cá nhân trong 6 tháng đầu
năm 2009, ông Kiên chỉ đạo ký Hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính (ngày 25/12/2008)
giữa Công ty B&B với Nguyễn Thúy Hương với nội dung bà Hương ủy thác cho Công
ty B&B đầu tư vào việc kinh doanh vàng ghi sổ và ký Phụ lục Hợp đồng
010109/UTĐT ngày 25/12/2008 với nội dung bà Hương đồng ý để Công ty B&B được
ủy thác lại cho Ngân hàng ACB thực hiện kinh doanh vàng. Với thủ thuật trên Công ty
B&B đã chuyển toàn bộ lợi nhuận kinh doanh trạng thái vàng của Công ty B&B cho
bà Hương thụ hưởng để không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số tiền
25.011.723.928 đồng. Hành vi nêu trên của Nguyễn Đức Kiên đã phạm vào tội “Trốn
thuế” quy định tại Điều 161 của Bộ luật hình sự.
2.3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Đức Kiên, Trần Ngọc Thanh,
Nguyễn Thị Hải Yến

Nguyễn Đức Kiên là Chủ tịch HĐQT công ty ACBI đã chỉ đạo Trần Ngọc Thanh
(giám đốc ACBI) ký hợp đồng thế chấp 22.497.000 cổ phần CTCP Thép Hòa Phát cho
ngân hàng ACB (ngày 11/5/2010) đảm bảo cho việc Công ty ACBI phát hành trái
phiếu trị giá 800 tỷ đồng tại Ngân hàng ACB và được Công ty TNHH Chứng khoán
ACB (ACBS) ký phong tỏa. Tuy chưa được sự đồng ý giải chấp của Ngân hàng ACB
và Công ty ACBS nhưng Nguyễn Đức Kiên vẫn chỉ đạo Trần Ngọc Thanh và Nguyễn
Thị Hải Yến (Kế toán trưởng ACBI) lập khống Biên bản họp HĐQT, lập khống Quyết
định của HĐQT thể hiện chủ trương Công ty ACBI bán 20.000.000 cổ phần CTCP
Thép Hòa Phát và cung cấp cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát tạo tin tưởng là
Công ty ACBI đang quản lý, sở hữu 20.000.000 cổ phần CTCP Thép Hòa Phát và số
cổ phần này chưa chuyển nhượng và không có tranh chấp hoặc thực hiện bất kỳ nghĩa
vụ đảm bảo với bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào. Sau đó, ông Kiều Chí Công (Giám
đốc) đại diện Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát đã ký hợp đồng số
Nhóm 1 – TC01 – K23

4


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

01.05/HĐCN/CPTHP (ngày 21/5/2012) mua 20.000.000 cổ phần CTCP Thép Hòa
Phát từ Công ty ACBI sở hữu, trong hợp đồng có nội dung đảm bảo số cổ phần này
“chưa chuyển nhượng và không có tranh chấp hoặc thực hiện bất kỳ nghĩa vụ đảm bảo
với bất kỳ tổ chức hoặc các nhân nào”. Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát chuyển
số tiền 264 tỷ đồng mua cổ phần cho Công ty ACBI, Nguyễn Đức Kiên đã chiếm đoạt
toàn bộ số tiền này. Hành vi của Nguyễn Đức Kiên, Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Thị
Hải Yến đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, quy định tại Điều 139 của Bộ
luật hình sự, trong đó ông Kiên là chủ mưu, ông Thanh và bà Yến là đồng phạm.

2.4. Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng
 Hành vi ủy thác cho nhân viên Ngân hàng ACB gửi tiền vào Vietinbank,
gây thiệt hại 718.908.000.000 đồng.
Thực hiện chủ trương trong cuộc họp Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB ngày
22/03/2010 (với sự đồng ý của Trần Xuân Giá, Lê Vũ Kỳ, Phạm Trung Cang, Trịnh
Kim Quang, Lý Xuân Hải, Huỳnh Quang Tuấn và Nguyễn Đức Kiên) về việc ủy thác
cho các nhân viên gửi tiền VND và USD tại các tổ chức tín dụng, từ ngày 27/06/2011
đến 05/09/2011, Lý Xuân Hải đã chỉ đạo và ủy quyền cho Kế toán trưởng Nguyễn Văn
Hòa thực hiện việc ủy thác số tiền 718,908 tỷ đồng cho 19 nhân viên Ngân hàng ACB
gửi tiết kiệm vào Vietinbank Chi nhánh Nhà Bè và Vietinbank Chi nhánh Hồ Chí
Minh, toàn bộ số tiền ủy thác đã bị Huỳnh Thị Huyền Như sử dụng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt. Như vậy, hành vi thống nhất và ban hành chủ trương ủy thác cho nhân
viên Ngân hàng ACB gửi tiết kiệm vào Vietinbank của Trần Xuân Giá, Lê Vũ Kỳ,
Phạm Trung Cang, Trịnh Kim Quang, Lý Xuân Hải, Huỳnh Quang Tuấn và Nguyễn
Đức Kiên là làm trái quy định tại Điều 106 Luật TCTD năm 2010 và đã gây thiệt hại
cho Ngân hàng ACB số tiền 718,908 tỷ đồng. Ngoài ra Ngân hàng ACB còn ủy thác
cho nhân viên gửi tiền vào 22 ngân hàng khác nhưng không gây thiệt hại.
 Hành vi đầu tư cổ phiếu Ngân hàng ACB gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB
số tiền 687.723.784.540 đồng.
Ngày 02/11/2009, Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB thống nhất và ban hành
chủ trương cấp hạn mức 700 tỷ đồng cho Hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB mua một
số ít cổ phiếu có giá tốt và tính thanh khoản cao do nhận định thị trường thuận lợi cho
việc đầu tư sinh lợi từ cổ phiếu. HĐQT đã ủy quyền cho Nguyễn Đức Kiên - Chủ tịch
Hội đồng đầu tư chỉ đạo thực hiện. Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Hội đồng đầu tư
Công ty ACBS (ACB sở hữu 100% vốn điều lệ) gồm các ông Lê Vũ Kỳ, Đỗ Minh
Toàn, Nguyễn Ngọc Chung thực hiện việc đầu tư cổ phiếu Ngân hàng ACB thông qua
hợp tác với Công ty ACI-HN và Công ty ACI ACBS không được đầu tư cổ phiếu
ACB theo Điều 29, Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài Chính).
Nguồn vốn để Công ty ACI-HN và ACI đầu tư là từ Công ty ACBS và từ bán trái

phiếu cho Vietbank, Kienlongbank với sự giúp sức của Ngân hàng ACB qua cho vay
Nhóm 1 – TC01 – K23

5


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

liên ngân hàng. Hành vi của các thành viên Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB
(Trần Xuân Giá, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Lê Vũ Kỳ, Lý Xuân Hải) và
Nguyễn Đức Kiên là trái với quy định tại Điều 29, Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày
24/07/2007 của Bộ tài chính, gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB tổng số tiền
687.723.784.540 đồng. Hành vi của các bị cáo nêu trên phạm vào tội “Cố ý làm trái
quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều
165 của Bộ luật hình sự.

Phần 3 - Tranh luận và phản biện của Nguyễn Đức Kiên và các
luật sư tại Phiên tòa sơ thẩm
Với các tội danh theo cáo trạng của cơ quan CSĐT, đại diện Viện Kiểm Sát, Nguyễn
Đức Kiên và các luật sư bào chữa cho các bị cáo đã có những tranh luận gay gắt về
các tội danh trên trong phiên tòa sơ thẩm.

3.1. Tranh luận về hành vi phạm tội kinh doanh trái phép
 Tranh luận của các luật sư bào chữa: ông Kiên không phạm tội
Luật sư Bùi Quang Nghiêm: (i) Doanh nghiệp có quyền góp vốn mua cổ phần
(Điều 13 Luật DN 2005). (ii) Góp vốn mua cổ phần là hoạt động đầu tư (Điều 3 Luật
Đầu tư 2005), hoạt động đầu tư không phải là ngành nghề kinh doanh tài chính. (iii)
Theo luật chứng khoán, phải tôn trọng quyền tự do mua bán kinh doanh chứng khoán.

5 DN đương nhiên có quyền mua cổ phiếu của các công ty niêm yết trong đó có cổ
phiếu ngân hàng. (iv) Tại Việt Nam chưa có DN nào có thể đăng ký kinh doanh hoạt
động tài chính và muốn đăng ký cũng không được chấp nhận vì không thể tìm ra mã
ngành kinh tế hay kinh doanh của ngành này. (v) Nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước góp
vốn mua cổ phần nhưng trên giấy đăng ký kinh doanh đều không có ngành nghề kinh
doanh cổ phiếu. Nếu ông Kiên bị truy tố tội kinh doanh trái phép thì về sau, cơ quan
CSĐT có thể khởi tố bất kỳ ai tham gia đầu tư chứng khoán trên thị trường và bất kỳ
DN nào đã đầu tư góp vốn vào công ty khác.
Luật sư Hoàng Đôn Hùng: Xuất trình chứng cứ để bào chữa cho hành vi kinh
doanh trái phép, đó là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của một số DN lớn có đầu
tư góp vốn vào các ngân hàng khác như PNJ là cổ đông của ngân hàng Đông Á, Tập
đoàn xăng dầu là cổ đông của ngân hàng Xăng dầu, SJC cổ đông Eximbank, CTCP
Him Lam là cổ đông của Liên Việt…
Luật sư Ngô Huy Ngọc: Theo quy định về hoạt động phái sinh, Công ty Thiên Nam
có thể sử dụng các sản phẩm phái sinh vàng của ACB. Thực tế, ACB không bán cho
Công ty Thiên Nam vàng vật chất như cáo trạng.
 Tranh luận của Viện kiểm sát: Giữ nguyên quan điểm truy tố

Theo Điều 3 Luật Đầu tư 2005 về định nghĩa đầu tư trái phép và Điều 4 Luật DN
2009, việc mua cổ phần, cổ phiếu, góp vốn là hoạt động kinh doanh. 5 DN của ông
Nhóm 1 – TC01 – K23

6


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Kiên không đăng ký kinh doanh ngành nghề kinh doanh tài chính và không đăng ký kê

khai bổ sung. Trong khi đó, ngành này đã được mã hóa xếp vào nhóm ngành đầu 4, mã
64449, mã chức năng 644490. Theo Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của
Thủ tướng Chính phủ, đối với những ngành kinh doanh không có trong hệ thống
ngành kinh tế quốc dân và trong hệ thống mã ngành thì cơ quan đăng ký kinh doanh
ghi ngành đó vào giấy đăng ký kinh doanh và thông báo cho Tổng cục thống kê để bổ
sung ngành mới. VKS giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội kinh doanh trái
phép.
 Tranh luận của Nguyễn Đức Kiên: không kinh doanh trái phép
Về kinh doanh tài chính trái phép: (i) Các DN trên mua cổ phần ngân hàng là hoạt
động đầu tư không phải hoạt động kinh doanh, thể hiện ở mục 4, mục 2 Luật DN 2009
và Điều 21 Luật Đầu tư 2005. (ii) Có những DN khác cũng góp vốn, tại sao không bị
coi là vi phạm, vậy có công bằng không? Có sự phân biệt đối xử quyền công dân khi
áp dụng cùng một điều luật, đó là sự vi phạm nghiêm trọng.
Về hành vi kinh doanh vàng trái phép tại Công ty Thiên Nam: ông Kiên khẳng định
chỉ là người đặt lệnh hộ. Trách nhiệm của mình là giúp ông Lê Quang Trung (TGĐ
Công ty Thiên Nam), thông báo lệnh của ông Trung đến ACB để phòng trường hợp có
tranh chấp giữa ACB với Công ty Thiên Nam. Nếu xác định là sản phẩm tài chính thì
Thiên Nam đã kinh doanh vàng trạng thái, là một sản phẩm phái sinh nên không sai.
Dù xác định đây là việc mua bán vàng hàng hóa thì cũng không sai vì Công ty Thiên
Nam có đăng ký kinh doanh hàng hóa, không phải tất cả các loại vàng đều thuộc phạm
vi phải đăng ký kinh doanh có điều kiện.
3.2. Tranh luận về hành vi trốn thuế
 Tranh luận của các luật sư: ông Kiên không phạm tội trốn thuế
Luật sư Ngô Huy Ngọc: (i) Theo khái niệm trốn thuế được quy định tại Điều 108
Luật Quản lý Thuế 2006, ông Kiên và công ty B&B không vi phạm điều gì trong quy
định này. (ii) Toàn bộ quá trình thẩm vấn và hồ sơ vụ án không có lời khai của ông
Kiên về việc chuyển tiền cho bà Hương, lợi dụng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập
cá nhân của Quốc hội để công ty B&B không phải nộp thuế. (iii) Các năm qua, các
công ty của ông Kiên đã đóng rất nhiều thuế cho đất nước. Nên không có động cơ nào
để ông Kiên trốn 25 tỷ đồng tiền thuế.

Luật sư Bùi Quang Nghiêm: Theo cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp, VKS chỉ
căn cứ trưng cầu giám định, theo đó giám định nghĩa vụ thuế chỉ phát sinh từ hợp đồng
ủy thác kinh doanh vàng trong năm 2009 là không chính xác, chưa tính đến yếu tố loại
trừ. Năm 2009, 2010 Công ty B&B đã được thanh tra, xác nhận việc công ty này đã
thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước.
Luật sư Vũ Xuân Nam: (i) Nếu cho rằng Công ty B&B đã thiết lập các giao dịch
với ACB để ủy thác hợp đồng giao dịch vàng trạng thái có trước khi bà Hương thiết
Nhóm 1 – TC01 – K23

7


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

lập giao dịch với Công ty B&B có thể có dấu hiệu này. Nhưng xuyên suốt hồ sơ vụ án
đã thẩm vấn công khai không thể hiện được trình tự này. (ii) Các văn bản của cơ quan
thuế không chỉ ra nghĩa vụ nộp thuế của Công ty B&B năm 2009 còn thiếu là 25 tỷ.
Chi cục thuế quận Đống Đa và đơn vị thanh tra thuế đều thừa nhận Công ty B&B
không có bất cứ vi phạm nào về thuế trong 2009.
 Tranh luận của Viện kiểm sát: Giữ nguyên quan điểm truy tố
VKS vẫn thấy sau hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính của bà Hương với Công ty
B&B, bà Hương không ký trực tiếp với ACB nhưng được hưởng 99% khoản lãi.
Hợp đồng ủy thác này đúng pháp luật, nhưng đến hết tháng 6/2009 vẫn chưa có
hướng dẫn thi hành Nghị quyết 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc Hội về miễn
giảm thuế thu nhập cá nhân, Công ty B&B vẫn không kê khai đã chuyển 68 tỷ đồng
cho bà Hương. Bà Hương lại chuyển số tiền này cho ông Kiên. Việc làm này trái quy
định Điều 27, Nghị Định 100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008 quy định chi tiết Luật
thuế TNCN 2007 và khấu trừ thuế.

Trong năm 2009 và 2010, B&B đã kê khai thuế nhưng không kê khai số tiền kinh
doanh vàng phát sinh từ các hợp đồng trên. Giám định viên Bộ tài chính đã kết luận,
thuế TNDN của công ty B&B là 25 tỷ. Đủ cơ sở kết luận ông Kiên phạm tội trốn thuế.
 Tranh luận của Nguyễn Đức Kiên: không phạm tội trốn thuế
(i) Không hề biết là 6 tháng sau khi Hợp đồng ủy thác của bà Hương đối với Công
ty B&B và Hợp đồng ủy thác giữa Công ty B&B với Ngân hàng ACB được ký, Quốc
hội thông qua Nghị quyết về miễn giảm thuế TNCN (Điều 4 Nghị quyết
32/2009/QH12 ngày 19/6/2009).
(ii) Các bản khai nộp cho chi cục thuế Đống Đa đều kê khai và hạch toán đầy đủ cả
các hợp đồng với bà Hương. Nên không thể nói là hợp đồng trá hình.
(iii) Công ty có trách nhiệm xác định lại kết quả Báo cáo tài chính ngày
31/12/2009, giả định trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, thì công ty không phải nộp
thuế vì công ty kinh doanh lỗ trong năm 2009. Cho dù cơ quan thuế có áp đặt phải nộp
thuế thì sẵn sàng nộp thuế vì số thuế này sẽ được nhà nước trừ dần trừ lùi trong các
năm tiếp theo, như thế là ứng trước tiền thuế chứ không phải là trốn thuế.
3.3. Tranh luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 Tranh luận của các luật sư: ông Kiên không lừa đảo
Luật sư Ngô Huy Ngọc: (i) Không phải lừa đảo vì đây là giao dịch dân sự bình
thường, chấm dứt theo biên bản thanh lý hợp đồng ngày 16/3/2013. Tức sau ngày bị
bắt, hợp đồng vẫn đang tồn tại, các bên vẫn thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. (ii)
Theo luật DN quy định, hình thức tổ chức HĐQT có thể dưới nhiều hình thức, trong
đó có hình thức thể hiện ý chí các thành viên bằng văn bản. Vì vậy, cuộc họp HĐQT
công ty ACBI là có thật, tất cả các điều trong biên bản họp HĐQT đều có thật. (iii) 20
Nhóm 1 – TC01 – K23

8


Tiểu luận Quản trị ngân hàng


GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

triệu cổ phần CTCP Thép Hòa Phát thuộc quyền sở hữu của công ty ACBI, không hề
có tranh chấp và số cổ phần này chưa hề chuyển nhượng với ai mà chỉ thế chấp ở ACB
để đảm bảo phát hành trái phiếu. (iv) Trong tổng số tiền 264 tỷ đồng thu từ bán cổ
phần CTCP Thép Hòa phát, khoản 72,5 tỷ đồng ông Kiên vay hoặc tạm ứng từ công ty
ACBI theo đúng quy chế hoạt động và thủ tục kế toán, không phải chiếm đoạt sử dụng
riêng. (v) Quyền và nghĩa vụ từ hợp đồng ngày 21/5/2012 là giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp, không phải giữa cá nhân với doanh nghiệp. Quyền sở hữu 20 triệu cổ
phiếu và quyền sở hữu 264 tỷ đồng đều ghi nhận màu sắc của 2 pháp nhân với nhau.
264 tỷ đồng chuyển cho công ty ACBI, dù có vấn đề thì cũng thuộc trách nhiệm của
pháp nhân chứ đâu phải của cá nhân? Hoàn toàn trong quá trình đó ông Kiên không có
giao dịch nào liên quan đến việc đút túi tiêu riêng. (iv) Ngày 13/6/2012, hợp đồng mua
bán cổ phần đang tồn tại trên thực tế, các bên không có khiếu nại tố cáo, không có căn
cứ để áp dụng luật hình sự, quy kết tội lừa đảo?
Luật sư Hoàng Đôn Hùng: Việc chuyển nhượng cổ phần giữa Công ty ACBI và
Hòa Phát là giữa 2 pháp nhân với nhau. Thời điểm chuyển nhượng ông Kiên không
phải là cổ đông của Công ty ACBI, chỉ là đại diện của Tập đoàn tài chính Á Châu mà
thôi. Việc thế chấp cổ phiếu hoàn toàn công khai và phía Hòa Phát biết rất rõ việc này.
Ông Trần Tuấn Dương (TGĐ CTCP Hòa Phát) nói không biết cổ phiếu bị thế chấp là
không có cơ sở. Hòa Phát là đơn vị phát hành cổ phiếu và ký văn bản xác nhận phong
tỏa. Hòa Phát đã có sự buông lỏng quản lý, sơ suất về mặt thủ tục. Công ty ACBI và
Hòa Phát đều là sơ suất về mặt thủ tục.
 Tranh luận của Viện kiểm sát: giữ nguyên quan điểm theo cáo trạng

(i) Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, người có liên quan và tài liệu thu thập được,
đủ cơ sở kết luận Kiên, Thanh, Yến đều phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Riêng bị
cáo Kiên biết 20 triệu cổ phần bị thế chấp nhưng vẫn chỉ đạo Thanh chuyển nhượng
cho Hòa Phát, bị truy tố và phù hợp. Với Yến, là kế toán trưởng của công ty ACBI thì
phải chịu trách nhiệm như quy định của pháp luật, Yến là đồng phạm với Kiên trong

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thanh, với vai trò là giám đốc công ty ACBI,
không làm hết chức năng nhiệm vụ, là đồng phạm với Kiên trong hành vi lừa đảo.
(ii) Trước ý kiến của các luật sư, 264 tỷ đồng về tài khoản của công ty ACBI chứ
không vào tài khoản của Kiên, VKS vẫn cho rằng trong lợi nhuận của công ty ACBI
cũng có lợi nhuận của Kiên vì Kiên là chủ tịch. Vì vậy, Kiên vẫn phạm tội lừa đảo.
 Tranh luận của Nguyễn Đức Kiên: không phạm tội lừa đảo
(i) Khẳng định việc cổ phiếu Thép Hòa Phát đã bị thế chấp nhiều người biết. Và
không chiếm đoạt tiền của Hòa phát vì đạo đức nghề nghiệp không cho phép.
(ii) Hợp đồng thế chấp tài sản bắt buộc đăng ký tại trung tâm giao dịch (đối với số
cổ phiếu Hòa Phát đảm bảo cho phát hành 800 tỷ đồng trái phiếu), đây là việc quản lý
tài sản đảm bảo cho việc thanh toán chứ không phải thế chấp. Khi đăng ký quản lý tài
Nhóm 1 – TC01 – K23

9


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

sản đảm bảo, Hòa Phát đã xác nhận số cổ phiếu, giấy chứng nhận sở hữu. Không quan
tâm Hòa Phát có biết hay không nhưng Hòa Phát là một doanh nghiệp thì phải biết là
mình quản lý cái gì, ký cái gì?
(iii) Đã nhiều lần yêu cầu ACB họp để tiến hành việc giải chấp số cổ phần của
công ty Hòa Phát. Trong hồ sơ của CQĐT đã hoàn toàn không nêu điều này và ông đã
yêu cầu bổ sung vào các bút lục.
(iv) Đưa ra sổ tay ghi chép về số cổ phiếu làm tròn của Thép Hòa Phát, việc công
ty đề nghị thanh lý tài sản thế chấp và bán cổ phiếu này, đánh giá danh mục tài sản thế
chấp mới để mình chứng rằng mình không lừa đảo, không thể có ý đồ chiếm đoạt tiền
của Hòa Phát, đây chỉ có thể nhìn nhận là sai sót nhỏ của ông Thanh và bà Yến vì đã

không cho mình biết về văn bản đã ký xác nhận của Hòa Phát.
3.4. Tranh luận về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm
trọng
 Tranh luận của các luật sư:
Luật sư Hoàng Đôn Hùng: Không thể quy kết việc ủy thác cho nhân viên đi gửi
tiền của ACB khi chưa có quy định của pháp luật là sai luật vì đối với Luật các TCTD
2010, NHNN vẫn chưa ban hành hướng dẫn Điều 55. Cụ thể: (i) ông Đặng Văn Thảo
(Phó chánh thanh tra giám sát NHNN Việt Nam) chưa xuất trình được giấy ủy quyền
của thống đốc NHNN ký Công văn 350 (Công văn 350/NHNH-TTGSNH.m ký ngày
17/5/2012 trả lời Cơ quan điều tra, xác định ACB được thực hiện nghiệp vụ ủy thác
nhưng ACB thực hiện ủy thác cho cá nhân khi chưa có hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước là vi phạm Điều 106 Luật các TCTD 2010, quy định Ngân hàng thương mại
được quyền ủy thác theo quy định của NHNH) nên chỉ là quan điểm cá nhân. (ii) Đại
diện NHNN xác nhận công văn 350 chỉ mang tính tham khảo nội bộ về việc ACB ủy
thác gửi tiền sau ngày 01/01/2011. Chưa phù hợp không có nghĩa là vi phạm Pháp luật
nên cáo trạng căn cứ công văn này quy kết tội là không đúng. (iii) Điều 90 Luật các
TCTD 2010, NHNN cho rằng ACB không được ủy thác khi chưa có sự cho phép của
NHNN, điều này mâu thuẫn với chính Công văn 350 là ACB được thực hiện ủy thác.
Luật sư Vũ Xuân Nam: (i) ông Kiên là Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB, Chủ
tịch Hội đồng đầu tư, giữ chức năng tư vấn chứ không thuộc cơ cấu bộ máy có tính
chất pháp định. Ông Kiên không thể là người trực tiếp chủ mưu phạm tội như cáo
trạng quy kết. (ii) Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của Thống đốc
NHNN về quy chế mở và sử dụng tài khoản cho thấy, các cá nhân mở tài khoản tại
Vietinbank có quyền nhận ủy thác như thực tế họ đã làm. Việc ACB ủy thác là không
sai, dù hành vi này thực hiện trong bối cảnh NHNN chưa có hướng dẫn cụ thể.

Nhóm 1 – TC01 – K23

10



Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

 Tranh luận của Viện kiểm sát:
(i) Các tổ chức, DN trong vụ này ngoài việc tuân thủ quy định pháp luật như các
DN khác thì còn chịu sự điều chỉnh của Luật các TCTD. Các bị cáo biết rõ quy định
nhưng rõ ràng là làm với động cơ, mục đích cho riêng ACB, cho lợi ích nhóm.
(ii) Việc mua cổ phiếu ACB đã được các thành viên HĐQT cụ thể là ông Kiên đưa
ra bàn luận tại cuộc họp HĐQT. Nội dung bàn này rất sâu, rất cụ thể là thông qua công
ty chứng khoán ACBS, giao cho bị cáo Kiên chỉ đạo để các nhà đầu tư không biết là
ngân hàng ACB đang mua cổ phiếu ACB.
(iii) Ông Kiên đã chỉ đạo ACBS hợp tác đầu tư với 2 công ty của mình là ACI-HN,
ACI và việc ACBS phát hành trái phiếu cho KienLongBank và VietBank. Khi đưa vào
các mối quan hệ thì rõ ràng các hợp đồng này đều trái pháp luật. Tiền của ACB lại
quay lại ACB, núp dưới các hợp đồng liên ngân hàng, hợp tác đầu tư. KienLongBank
và VietBank không sai khi họ có cơ hội đầu tư.
(iv) Lý Xuân Hải và Nguyễn Văn Hòa chỉ đạo trực tiếp việc ủy thác cho các cá
nhân đi gửi tiền, nhưng các cá nhân không làm gì ngoài việc ký, còn họ không có
nghĩa vụ trách nhiệm để mắt đến. 19 nhân viên gửi tiền chỉ là hình thức, còn bản chất
đây là hợp đồng gửi tiền liên ngân hàng mà nhà nước đã cấm. Có thể khẳng định từ
chủ trương đến thực hiện việc ủy thác gửi tiền của ACB đã không đúng quy định.
(v) Công văn 350 của NHNN đủ căn cứ xác định chứ không phải chỉ là căn cứ lý
lẽ. Ngoài công văn đó còn có các tài liệu bổ trợ chứ không chỉ căn cứ 1 công văn đó.
 Tranh luận của Nguyễn Đức Kiên: không làm gì trái luật
(i) Thành lập Hội đồng sáng lập được các cổ đông thông qua. Hội đồng sáng lập
không trái với quy định của pháp luật và của ACB. Hội đồng Sáng lập được tham gia
vào tất cả các cuộc họp, nêu ý kiến tại cuộc họp HĐQT nhưng không được đưa ra
quyết định cuối cùng. Không phải là người chiếm nhiều cổ phần nhất nên không thể là

người quyết định mọi phán quyết của ACB.
(ii) Không có bất cứ mối quan hệ nào trong việc đầu tư cổ phiếu của ngân hàng
ACB liên quan đến ACBS, và cũng không chỉ đạo mua cổ phiếu ACB. Việc mua cổ
phiếu ACB là chủ trương của ông Kiên với tư cách là Chủ tịch HĐQT Công ty ACI.
Khi hợp tác kinh doanh giữa Công ty Chứng khoán ACBS với ACI và ACI-HN, trong
hợp đồng hợp tác không có dòng nào nói về việc mua cổ phiếu ACB. Trong hợp đồng
có điều khoản, cổ phiếu của ai thì cuối năm phải xác nhận văn bản. Còn hợp tác là hỗ
trợ vốn. Không có văn bản nào xác nhận cổ phiếu của ACB thuộc ACBS.
(iii) Cung cấp vốn liên ngân hàng giữa ACB và Kienlongbank và Vietbank không
phải mới thực hiện từ năm 2009-2010 vì ACB được NHNN phê chuẩn là cổ đông
chiến lược của hai ngân hàng này.

Nhóm 1 – TC01 – K23

11


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

(iv) Không có bất kỳ căn cứ nào để nói về khoản lỗ của ACBS từ đầu tư cổ phiếu
theo như cáo trạng và cho rằng cách tính lỗ của cáo trạng là phi lý. Việc gửi tiền liên
ngân hàng đưa lại cho ACB khoản thu lớn. ACB không chỉ liên hệ với hai ngân hàng
này mà còn với nhiều ngân hàng khác.
(v) Đối với hành vi ủy thác tiền gửi, ông Kiên xác nhận có tham gia cuộc họp
thường trực HĐQT ngày 22/3/2010 bàn về việc ủy thác tiền gửi, tuy nhiên chỉ tham
gia vào cuối cuộc họp cho nên ông không liên quan gì đến việc bàn chuyện ủy thác gửi
tiền của thường trực HĐQT. Khi lấy ý kiến HĐQT, ông Trần Xuân Giá không lấy ý
kiến của Kiên về việc ủy thác.

(vi) Trong điều lệ ACB ghi, người nào thi hành công vụ không vì lợi ích cá nhân,
không cố ý vi phạm pháp luật mà gây thiệt hại thì không phải chịu trách nhiệm, ACB
chịu trách nhiệm. Như vậy, các cá nhân ACB không phải chịu trách nhiệm. Cho đến
nay, Đại hội cổ đông ACB cũng chưa có bất kỳ văn bản nào yêu cầu các thành viên
HĐQT của ACB phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại. Đồng thời, trong thực hiện ủy
thác gửi tiền thì tổng thu 1.800 tỷ đồng, nếu trừ đi khoản tiền gần 718 tỷ đồng bị mất
thì vẫn không gây ra thiệt hại nào cho ngân hàng ACB. Cho nên Ngân hàng ACB vẫn
không bị thiệt hại nào kể cả việc ngân hàng Vietinbank không trả tiền. Và ngân hàng
Vietinbank phải chịu trách nhiệm về số tiền 718 tỷ đồng vì theo một số văn bản pháp
luật không bắt buộc người gửi phải đến ngân hàng để thực hiện làm tài khoản.
(vii) Trong cuộc họp ngày 08/9/2011, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình đã có
buổi nói chuyện với đại diện các ngân hàng liên quan đến hoạt động ủy thác gửi tiền
này và NHNN đã nêu ý kiến không truy cứu các ngân hàng trong việc các ngân hàng
đã cho gửi tiền hoặc nhận tiền trong thời gian qua.
Vì vậy, ông Kiên cho rằng mình không làm trái pháp luật.

Phần 4 - Những vấn đề đặt ra cho công tác giám sát và quản lý
ngân hàng tại Việt Nam
Nghiên cứu cáo trạng, theo dõi các phiên tranh luận của các bên liên quan trong
Phiên tòa sơ thẩm cho thấy lý lẽ biện hộ cho các bên đều có lý. Những tội danh như
kinh doanh trái phép, trốn thuế, làm trái quy định gây hậu quả nghiêm trọng có thể
chưa cấu thành tội danh cho các bị cáo vì hệ thống luật của Việt Nam còn nhiều bất
cập. Viện Kiểm sát có thể thay đổi kết luận với những tội danh không thể buộc vì luật
chưa quy định. Những hoạt động tài chính góp vốn mua cổ phần mà bị buộc thành tội
vì chưa đăng ký vào giấy phép sẽ làm tê liệt khả năng làm cho tiền nhàn rỗi của doanh
nghiệp sinh sôi nẩy nở. Mục tiêu của bài viết không phải xem xét là án tù cho Nguyễn
Đức Kiên và các đồng phạm có hợp lý hay không, mục tiêu của bài viết là đằng sau
phiên tòa sơ thẩm, những vấn đề gì đặt ra cho công tác giám sát và quản lý ngân hàng
tại Việt Nam, bởi các đối tượng liên quan phần lớn làm việc trong lĩnh vực ngân hàng,
giữ các chức vụ cao tại các ngân hàng thương mại cổ phần.

Nhóm 1 – TC01 – K23

12


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Đầu tiên, là vấn đề “sở hữu chéo và lợi ích nhóm” trong hệ thống ngân hàng
thương mại.
Không có quy định cấm ngân hàng này nắm giữ cổ phiếu của các ngân hàng khác,
cũng như không cấm việc các cổ đông của ngân hàng và người có liên quan sở hữu cổ
phiếu của nhiều ngân hàng khác nhau. Việc sở hữu chồng chéo giữa các ngân hàng tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp - cổ đông của ngân hàng này có thể dễ dàng vay được
vốn từ ngân hàng kia, và rất có thể các ngân hàng thương mại khi tiến hành thẩm định
cho việc cho vay vốn sẽ thiếu đi sự cẩn trọng, bỏ qua một số yêu cầu khi cho vay. Khi
điều này xảy ra, đây có thể coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng tăng cao nếu các con nợ không thật sự “khỏe mạnh”. Sở hữu chéo
giữa các ngân hàng tạo cơ hội cho các ngân hàng tạo tiền ảo, khi đó các quy định mới
về tăng vốn pháp định để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng của NHNN không
mang lại hiệu quả cao…Tất cả điều này tạo ra chuỗi ảnh hưởng phức tạp, ảnh hưởng
đến nền tài chính quốc gia.
Vụ án Nguyễn Đức Kiên là minh chứng cụ thể, ông Kiên đã thực hiện một việc mà
trong nền kinh tế chỉ có hai chủ thể là ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương
mại có thể làm được đó là: “tạo tiền”. Về lý thuyết, ngân hàng thương mại tạo tiền
bằng cách huy động tiền gửi từ dân chúng, sau đó dùng tiền đó cho vay và lại huy
động ngược trở lại rồi tiếp tục cho vay thông qua hệ thống ngân hàng. Vòng xoay này
sẽ làm cung tiền của ngân hàng tăng lên, đó là vốn thật. Nhưng với ông Kiên hoặc các
nhà tài phiệt khác có thể tạo tiền từ con số không, sau đó tiền lại tiếp tục tạo ra tiền

bằng cách thông qua các công ty mà ông Kiên kiểm soát có thể phát hành và bán trái
phiếu doanh nghiệp cho ngân hàng ACB. Và từ nguồn tiền vay ở ngân hàng ACB thu
từ bán trái phiếu, các công ty của ông Kiên đã mua cổ phiếu của các ngân hàng
Eximbank, Đại Á, Việt Nam Thương tín, Kiên Long...Đến lượt các cổ phiếu ngân
hàng được mua trên lại được thế chấp ở những ngân hàng khác nhau để làm tài sản
đảm bảo trả nợ, số còn lại có thể chi dùng cá nhân. Như vậy, tiền vay từ bán trái phiếu
không được dùng cho mục đích kinh doanh lại được dùng cho mua cổ phiếu, thao
túng tổ chức tín dụng. Chính sự dễ dàng trong phát hành trái phiếu, sự thiếu sự giám
sát của NHNN, sự thiếu chặt chẽ trong luật đã tạo điều kiện cho các tài phiệt tài chính,
những người như ông Kiên lợi dụng.
Tuy nhiên, không phải tất cả các dạng sở hữu chéo đều tiêu cực, nhưng trong
trường hợp các NHTM có cổ đông lớn là các doanh nghiệp thì phải có chế tài gì đề
ngăn chặn hiện tượng các ngân hàng thương mại trở thành “sân sau” cho các doanh
nghiệp đó, chuyên huy động vốn từ dân chúng để tài trợ cho các dự án của các doanh
nghiệp là cổ đông lớn của ngân hàng? Phải chăng chúng ta đang trong chờ vào “đạo
đức kinh doanh” của các cổ đông, những người chủ doanh nghiệp sở hữu cổ phần tại
các ngân hàng để giải quyết mặt trái của sở hữu chéo? Đây là vấn đề NHNN cần giải
quyết để làm lành mạnh thị trường tài chính, tạo sự tin tưởng cho nhà đầu tư.

Nhóm 1 – TC01 – K23

13


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Thứ hai là năng lực quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc thanh tra và
giám sát hệ thống ngân hàng thương mại.

Theo dõi phiên tranh luận trong phiên tòa sơ thẩm, từ những lời khai, cơ sở tranh
luân của các bên và các câu trả lời của đại diện NHNN, đặt ra dấu hỏi lớn đối với năng
lực quản lý của NHNN trong thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng thương mại.
(i) Những câu trả lời phổ biển của đại diện NHNN là “không nhớ”, “không biết”,
“không rõ” tạo cảm giác mơ hồ, không nắm rõ hết các quy định của các vị đại điện
NHNN. Với vai trò là cơ quan quản lý hệ thống ngân hàng, nhiều quy định, khái niệm
còn mơ hồ thì liệu rằng có thể quản lý hệ thống ngân hàng đạt hiệu quả tốt.
(ii) Trong một thời gian dài ngân hàng huy động vốn của người dân, thay vì cho
vay để kinh doanh tiền tệ một cách bình thường, ngân hàng lại giao tiền cho nhân viên
đi gửi tiền vào các ngân hàng khác để hưởng chênh lệch lãi suất, hoa hồng. Điều này
tạo sự tăng trưởng tín dụng ảo, có thể gây đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Vậy thì, trách
nhiệm quản lý của NHNN đến đâu? Phải chăng NHNN không biết việc này? Hay có
phải do năng lực và quy định pháp luật còn nhiều hạn chế? Thêm vào đó, xem xét
động cơ của các ngân hàng trong việc ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các ngân
hàng khác là vừa hưởng chênh lệch lãi suất, vừa được thưởng thêm “hoa hồng” hay
phần “lãi suất hưởng thêm” bên ngoài lãi suất trần quy định. Điều này đặt ra câu hỏi,
phải chăng việc quản lý của NHNN còn mang tính “mệnh lệnh hành chính” như việc
ấn định “lãi suất trần” không theo quy luật cung cầu thị trường dẫn đến các ngân hàng
thương mại phải lách luật?
(iii) Trong vụ án, tình trạng sở hữu chéo và lợi ích nhóm, các doanh nghiệp dễ
dàng phát hành trái phiếu bán cho các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng bỏ qua
quy trình soát xét, thẩm tra đánh giá doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Hoạt động này
diễn ra nhiều lần vẫn không thấy NHNN có hành động quyết liệt gì.
(iv) Việc ngân hàng ACB ủy thác cho các nhân viên gửi tiền vào các ngân hàng
khác dến đến việc số tiền gần 718 tỷ đồng của ACB ủy thác cho 19 nhân viên gửi vào
Vietinbank bị Huyền Như chiếm đoạt, được lý giải do NHNN chậm ban hành các
hướng dẫn cho Luật các TCTD 2010. Nếu có các văn bản hướng dẫn sớm hơn thì liệu
có việc ngân hàng ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào ngân hàng khác? Ngoài ra,
việc Huyền Như dễ dàng chiếm đoạt gần 718 tỷ đồng, cho thấy sự lỏng lẻo và thiếu
trách nhiệm của ngân hàng đối với tiền của dân gửi vào ngân hàng.

Hiện nay, NHNN đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý giúp cho công
tác quản lý, giám sát được hiệu quả hơn. Việc NHNN đưa ra lấy ý kiến dự thảo Thông
tư hướng dẫn xử lý việc sở hữu cổ phần vượt tỉ lệ quy định ngày 19/6/2014, hy vọng
sẽ là tín hiệu tích cực trong việc hạn chế tình trạng chi phối hoạt động ngân hàng, thao
túng và lũng đoạn thị trường của các tài phiệt.

Nhóm 1 – TC01 – K23

14


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Lời kết
Vụ án Nguyễn Đức Kiên thu hút nhiều sự quan tâm của thị trường, đặt biệt là
những người làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án Nguyễn Đức Kiên không chỉ là vụ xử một vài cá nhân mà như là sự phơi bày về
một giai đoạn mà hệ thống ngân hàng còn hoang sơ với lối kinh doanh theo kiểu làm
sao giàu cho thật nhanh bằng cách huy động tiền của dân rồi gửi sang ngân hàng khác
để ăn chênh lệch; hay kiểu quản lý nhân viên thiếu chặt chẽ dẫn đến nhân viên chiếm
đoạt tiền gửi của khách hàng; hay kiểu dễ giải trong việc mua trái phiếu doanh nghiệp
của các ngân hàng thương mại, thiếu đi việc thẩm tra năng lực tài chính của doanh
nghiệp đó…Cùng với hệ thống pháp lý còn nhiều hạn chế, thiếu ổn định và thiếu nhiều
văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh hoạt động ngân hàng, cũng như sự chậm trễ
trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn luật của Ngân hàng Nhà nước.
Bài viết cung cấp một cái nhìn tổng quan về vụ án Nguyễn Đức Kiên, từ đó đưa
đến nhận định về một số vấn đề đặt ra trong công tác thanh tra và giám sát hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam như “sở hữu chéo và lợi ích nhóm”, “năng lực quản lý của

Ngân hàng Nhà nước”.

Nhóm 1 – TC01 – K23

15


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Tài liệu tham khảo
Các văn bản pháp quy của Nhà nước như: Luật các TCTD 2010, Luật DN 2009, Luật
Đầu tư 2005, Luật Quản lý thuế 2006, Luật NHNH 2010, Nghị Định 88/2006/NĐ-CP
về đăng ký kinh doanh, Nghị quyết 32/2009/QH12 về miễn, giảm thuế thu nhập cá
nhân…
Cao thủ Bầu Kiên, tay không thâu tóm ngân hàng. < />Dân Việt (2014), Vụ án “bầu” Kiên: Phải ra cáo trạng mới vì một sai sót nhỏ.
< />Hải Lý (2014), Từ “kinh doanh trái phép” đến sở hữu chéo. < />Hồng Phúc (2014), Vụ án bầu Kiên và khoảng trống quy phạm.
< />Nguyễn Bảo An (2014), Toàn văn cáo trạng “lần 2″ của Viện KSND Tối cao đối với
Nguyễn Đức Kiên và đồng bọn. < />Nguyễn Đức Kiên (sinh 1964). < />%C4%90%E1%BB%A9c_Ki%C3%AAn_(sinh_1964)>
NHNN:
Nhiều
cổ
đông
lớn
đang
thao
túng
ngân
hàng.

< />Nguyễn Vũ (2014), Xử Bầu Kiên hay xử ai?. < />Trực tiếp các phiên tòa xét xử Nguyễn Đức Kiên. < />Trương Quang Thông (2012), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà Xuất bản Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh.

Dũng
(2013),
Sở
hữu
chéo

những
hệ
< />
lụy.

Nhóm 1 – TC01 – K23

16


Tiểu luận Quản trị ngân hàng

GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông

Phụ lục
Phiên tòa sơ thẩm xét xử Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm ngày 20/5/2014:
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án Nguyễn Đức Kiên và 8 đồng phạm, gồm: 2 Thẩm
phán là Nguyễn Hữu Chính (chủ tọa) và Nguyễn Quốc Thành; 3 Hội thẩm nhân nhân
là các ông Nguyễn Thanh Hà, Bùi Đăng Hiếu và Đinh Hoài Nam.
Giữ quyền công tố tại tòa là ông Đào Văn Cường - Phó Viện trưởng Viện KSND
TP. Hà Nội và bà Nguyễn Thị Thu Yến.

Tham gia bào chữa cho 9 bị cáo trong vụ án có 16 luật sư, 4 luật sư bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho ngân hàng, cụ thể:
(1) Luật sư Hoàng Đôn Hùng, Vũ Xuân Nam, Ngô Huy Ngọc, Bùi Quang Nghiêm
bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức Kiên.
(2) Luật sư Lưu Tiến Dũng bào chữa cho bị cáo Trần Xuân Giá.
(3) Luật sư Phùng Anh Tuấn bào chữa cho bị cáo Lê Vũ Kỳ.
(4) Luật sư Phạm Danh Tín bào chữa cho Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang và Phạm
Trung Cang.
(5) Luật sư Nguyễn Minh Tâm bào chữa cho Trịnh Kim Quang và Phạm Trung
Cang.
(6) Luật sư Lưu Văn Tám bào chữa cho bị cáo Lý Xuân Hải và Huỳnh Quang
Tuấn.
(7) Luật sư Nguyễn Đình Hưng bào chữa cho bị cáo Lý Xuân Hải.
(8) Luật sư Vũ Thị Kim Ngọc bào chữa cho Lý Xuân Hải.
(9) Luật sư Kiều Vũ Thị Uyên bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quang Tuấn.
(10) Luật sư Vũ Ngọc Chi bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quang Tuấn.
(11) Luật sư Nguyễn Thị Kim Thanh bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc Thanh.
(12) Luật sư Trần Bình Tuấn bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc Thanh.
(13) Luật sư Phạm Thanh Phong bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hải Yến.
(14) Luật sư Trương Thanh Đức bảo vệ quyền lợi cho Ngân hàng Á Châu (ACB);
Luật sư Đỗ Ngọc Quang, Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Như Thái Dũng bảo vệ quyền
lợi cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank).

Nhóm 1 – TC01 – K23

17




×