Tải bản đầy đủ (.pdf) (267 trang)

Luận án nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế việt nam giai đoạn 1986 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 267 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề tài nghiên cứu được xác định từ 5 lý do sau đây:
Thứ nhất, từ vai trò của cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xuất phát từ yêu cầu của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế cần
được hiểu không chỉ là sự tăng lên về quy mô mà còn cả sự thay đổi cơ cấu kinh tế
(CCKT) theo hướng tích cực. Sự thay đổi CCKT phản ánh trình độ phát triển của sức
sản xuất xã hội, biểu hiện chủ yếu trên hai mặt: một là lực lượng sản xuất càng phát
triển càng tạo điều kiện cho quá trình phân công lao động xã hội trở lên sâu sắc; hai là
sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho các mối quan hệ kinh tế thị trường
ngày càng củng cố và phát triển. Sự thay đổi về số lượng và chất lượng của CCKT, đặc
biệt là cơ cấu theo ngành kinh tế phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội.
Một quốc gia có CCKT hợp lý sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững và ngược
lại, CCKT lạc hậu sẽ cản trở sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, từ định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh
tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI là bước đột phá đầu tiên về đổi
mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng CCKT phù
hợp với sự vận động của quy luật khách quan và trình độ của nền kinh tế. Đây là cơ
sở thực tiễn, lý luận quan trọng cho Đại hội VII đề ra chủ trương hoàn thiện CCKT
và Đại hội VIII, IX đề ra chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến nay, Việt Nam đã có một CCKT tương đối hợp lý và
đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giá trị tăng thêm (VA)
của các nhóm ngành công nghiệp và xây dựng (CNXD), dịch vụ (DV) chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Định hướng và nhiệm vụ
chủ yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam là phấn đấu GDP giai đoạn
2011-2015 tăng 7-8% mỗi năm. CCKT đến năm 2015: Khu vực I, nông, lâm nghiệp
và thủy sản (NLTS): 17-18%; khu vực II (CNXD): 41-42%; khu vực III (DV): 4142%1. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong những năm đầu và cả chặng


đường gần 30 năm đổi mới, phát triển có nguyên nhân của sự tìm tòi, xác lập một
CCKT phù hợp.
1

Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng


2
Tuy nhiên, sau gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam
đã đạt được, đến nay mô hình tăng trưởng kinh tế đang có những bất cập. Với việc
gia tăng nhanh vốn đầu tư (VĐT), lạm dụng khai thác tài nguyên thô, tận dụng lao
động giá rẻ để theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng, mô hình tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam hiện nay được đánh giá là mô hình tăng trưởng dàn trải theo chiều rộng,
kém hiệu quả trong dài hạn. Mô hình này chưa thực sự phát huy được các thế mạnh,
lợi thế của nền kinh tế Việt Nam. Dẫn đến kinh tế phát triển chưa bền vững, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Chuyển dịch CCKT còn
bộc lộ nhiều bất cập như: chuyển dịch CCKT có xu hướng chững lại; tỷ trọng của
nhóm ngành CNXD tăng chậm, tỷ trọng của nhóm ngành DV có xu hướng giảm
sút,... Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ nguyên
nhân chủ quan của những hạn chế trên là do yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô
hình tăng trưởng và CCKT lạc hậu, kém hiệu quả. Hội nghị cũng chỉ rõ cần đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm đưa kinh tế Việt Nam phát triển
nhanh và bền vững. CCKT mới đi cùng thúc đẩy hình thành mô hình tăng trưởng
mới chính là điều kiện để có chất lượng tăng trưởng mới. Để thực hiện mục tiêu đưa
Việt Nam về cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, việc tổng kết những
bài học của quá trình chuyển dịch CCKT ở Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến
nay và phân tích được những nguyên nhân của những thành công và tồn tại ở giai
đoạn này là hết sức cần thiết.
Thứ ba, từ vai trò của thống kê trong nghiên cứu CCKT và chuyển dịch CCKT
Thống kê là công cụ của nhận thức và quản lý. Do vậy, nghiên cứu thống kê

CCKT và chuyển dịch CCKT của Việt Nam một cách hệ thống để đánh giá được mức
độ và xu hướng chuyển dịch CCKT; mức độ và vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến
chuyển dịch CCKT; ảnh hưởng của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
Nghiên cứu thống kê CCKT và chuyển dịch CCKT cho phép xây dựng luận
cứ khoa học cho quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xác định bản chất và đặc trưng CCKT của Việt Nam theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thông qua các nghiên cứu mang tính chất lý luận và thực tiễn.
Thứ tư, từ các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thống kê CCKT và chuyển dịch CCKT.
Nghiên cứu thống kê CCKT là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng
của nghiên cứu kinh tế nói chung và nghiên cứu thống kê nói riêng. Tuy nhiên,
nghiên cứu thống kê CCKT vẫn chưa thực sự được coi trọng trong giai đoạn hiện


3
nay, thể hiện ở 2 khía cạnh: thứ nhất, chưa có một hệ thống chỉ tiêu thống kê riêng về
CCKT. Thứ hai, các phương pháp thống kê được vận dụng trong phân tích CCKT và
chuyển dịch CCKT còn nghèo nàn và thiếu sự kết hợp, dẫn đến chất lượng của các
phân tích về CCKT còn hạn chế, chưa đáp ứng được các nhiệm vụ cần thiết trong
phân tích CCKT.
Thứ năm, xuất phát từ các khoảng trống trong các nghiên cứu trong và
ngoài nước về CCKT và chuyển dịch CCKT
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về CCKT và chuyển
dịch CCKT cho thấy, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này hiện tại vẫn chưa
giải quyết được triệt để các nhiệm vụ trong nghiên cứu CCKT và chuyển dịch CCKT.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thống
kê cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2012” làm luận án tiến sỹ.

1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
CCKT và chuyển dịch CCKT đã được các trường phái, các lý thuyết kinh tế

đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau và với nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó
điển hình là các lý thuyết: lý thuyết của Karl Marx (1909); lý thuyết "cất cánh" của
Rostow, W.W. (1960); lý thuyết nhị nguyên của Lewis (1954); lý thuyết về chuyển
dịch cơ cấu của Syrquin M. (1988); lý thuyết phát triển cân đối của Nurkse (1961)
và Rosentein-Rodan (1943). Ngoài ra còn có các lý thuyết về tác động của dịch
chuyển cơ cấu ngành kinh tế tới tăng trưởng kinh tế của Fabricant (1942), Fonfria,
A. và các cộng sự (2005); Gyfason và G.Zoega (2004),…
Ở Việt Nam, CCKT và chuyển dịch CCKT cũng được quan tâm, nghiên cứu
từ lâu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về CCKT và chuyển dịch CCKT, đặc biệt
là các công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chuyển dịch CCKT ở Việt Nam,
trong đó tiêu biểu là các công trình: Ngô Đình Giao (1994) “Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân”; Đỗ Hoài Nam
(1996),“Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và phát triển các ngành trọng điểm, mũi
nhọn ở Việt Nam”; Nguyễn Cúc (1997) “Tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”;
Trương Thị Minh Sâm (2000) “Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở Thành
phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa”; Nguyễn Trần Quế
(2004) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21”; Bùi
Tất Thắng (2006) “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”. Trên giác độ
nghiên cứu thống kê về CCKT và chuyển dịch CCKT có 1 công trình điển hình của


4
Phan Công Nghĩa (2007) “Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch CCKT - Nghiên cứu thống kê
cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế”,…

1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
Các nghiên cứu tiêu biểu về CCKT và chuyển dịch CCKT ở ngoài nước bao gồm:
Lý thuyết của Karl Marx (1909) về cơ cấu ngành kinh tế đã đưa ra các phạm
trù về cơ cấu ngành kinh tế và CCKT hợp lý. Theo Karl Marx, cơ cấu ngành kinh tế

hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản xuất mở rộng. Cơ cấu ngành
kinh tế hợp lý phải đáp ứng các điều kiện như phù hợp với các quy luật khách quan,
phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị khu vực và thế giới; phản ánh khả năng khai
thác, sử dụng các nguồn lực kinh tế trong nước.
Lý thuyết "cất cánh" của Rostow W.W. (1960) đã chỉ ra mối quan hệ giữa
chuyển dịch CCKT với tăng trưởng thông qua lý thuyết về các giai đoạn phát triển.
Theo Rostow, quá trình phát triển của mỗi quốc gia chia thành 5 giai đoạn: Giai đoạn
1: xã hội truyền thống với cơ cấu nông nghiệp làm chủ đạo. Năng suất lao động
(NSLĐ) thấp do công cụ thủ công, tích lũy gần như bằng 0; tăng sản lượng chủ yếu
dựa trên việc mở rộng diện tích canh tác, nền kinh tế biến đổi chậm, CCKT là cơ cấu
thuần nông. Giai đoạn 2: giai đoạn chuẩn bị cất cánh trong đó cơ cấu nông-công
nghiệp làm chủ đạo. Những hiểu biết về khoa học-kỹ thuật bắt đầu được áp dụng
trong nông-công nghiệp. Giáo dục mở rộng và bắt đầu có những cải tiến phù hợp với
yêu cầu phát triển. Nhu cầu đầu tư dẫn đến sự ra đời của ngân hàng và các tổ chức
huy động vốn. Giao thương quốc tế thúc đẩy giao thông và thông tin. Năng suất vẫn
còn thấp. Giai đoạn 3: giai đoạn cất cánh: CCKT là công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ
với công nghiệp chế tạo là đầu tàu và có tốc độ tăng trưởng nhanh, lợi nhuận được để
lại để tái sản xuất, kích thích phát triển khu vực dịch vụ và đô thị; khu vực nông
nghiệp được thương mại hóa, vốn nước ngoài và khoa học công nghệ (KHCN) đóng
vai trò quan trọng. Giai đoạn 4: giai đoạn trưởng thành, CCKT công nghiệp-dịch vụnông nghiệp với nhiều ngành công nghiệp mới phát triển, nông nghiệp được cơ giới
hóa, năng suất cao, nhu cầu thương mại quốc tế tăng mạnh, khoa học kỹ thuật được
ứng dụng ở mọi mặt của nền kinh tế. Giai đoạn 5: là giai đoạn tiêu dùng cao trong đó
cơ cấu ngành xét theo GDP thay đổi không còn nhanh; cơ cấu thay đổi theo hướng
tăng tỷ lệ dân cư đô thị, tăng lao động có tay nghề chuyên môn cao; thu nhập tăng
nhanh dẫn đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cao cấp. Các chính
sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội. Thay đổi CCKT không còn nhanh.


5
Lý thuyết nhị nguyên của Arthus Lewis (1954), đã giải thích mối quan hệ giữa

nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng, gọi là "mô hình hai khu vực
cổ điển". Phân chia nền kinh tế thành 2 khu vực: nông-công nghiệp và nghiên cứu sự
di chuyển lao động giữa hai khu vực. Sự phát triển công nghiệp quyết định tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, phụ
thuộc vào tích lũy vốn. Mô hình Lewis giải quyết mối quan hệ giữa 2 khu vực trong
quá trình tăng trưởng. Khi nông nghiệp có dư thừa lao động thì tăng trưởng kinh tế
được quyết định bởi khả năng tích lũy và đầu tư của khu vực công nghiệp. Tuy nhiên,
giả định không thực tế: tỷ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng
với tỷ lệ vốn tích lũy ở khu vực này. Thành thị không có thất nghiệp. Nông thôn có
thể giải quyết việc làm mà không phải ra thành phố.
Trên cơ sở những giả thuyết mang tính kế thừa và phát triển của A. Lewis,
quan điểm thống nhất với trường phái tân cổ điển và dựa vào đặc điểm của các nước
Châu Á gió mùa, Oshima, Harry T. (1987) đã đưa ra lý thuyết mới về mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ nền kinh tế
do nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền công nghiệp trong điều kiện cụ thể của các
nước Châu Á gió mùa. Theo ông, dư thừa lao động nông nghiệp không phải lúc nào
cũng xảy ra nên mô hình của A. Lewis không phù hợp với Châu Á, nhất là vùng lúa
nước. Việc đầu tư đồng thời cho nông nghiệp và công nghiệp theo mô hình hai khu
vực tân cổ điển cũng là thiếu thực tế trong điều kiện các nước đang phát triển Châu Á
thiếu nguồn lực VĐT, lao động, kỹ năng quản lý và quan hệ quốc tế. Từ đây, Oshima
đề xuất đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn với mục tiêu, nội dung khác
nhau. Giai đoạn 1: bắt đầu tăng trưởng: tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo
hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Phù hợp với khả năng vốn, trình độ
kỹ thuật của nông thôn giai đoạn đầu. Biện pháp: đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp,
xen canh, tăng vụ, trồng thêm rau quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi, trồng cây lâm
nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi nông nghiệp có quy mô lớn. Giai đoạn 2: hướng
tới đầy đủ việc làm bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông nghiệp và công
nghiệp (theo chiều rộng). Biện pháp: tiếp tục đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp; phát
triển ngành công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa; phát triển tiểu thủ công nghiệp;
phát triển ngành sản xuất phân bón, giống, các yếu tố đầu vào; hoạt động đồng bộ từ

sản xuất, vận chuyển, bán hàng, tín dụng. Giai đoạn này kết thúc khi tăng trưởng việc
làm nhanh hơn tăng trưởng lao động, tiền lương thực tế tăng. Giai đoạn 3: phát triển
kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động; công nghiệp trong nước bắt đầu vươn


6
ra nước ngoài; dịch vụ phát triển phục vụ công nông nghiệp tăng mạnh làm thiếu lao
động. Biện pháp: nông nghiệp cần sử dụng máy móc thay thế lao động, áp dụng công
nghệ sinh học; công nghiệp hướng xuất khẩu cũng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm.
Giai đoạn này kết thúc khi nền kinh tế đã phát triển đến giai đoạn cao nhất.
Lý thuyết dịch chuyển CCKT của Syrquin M. (1988) đã mô tả quá trình
chuyển dịch CCKT thời kỳ hiện đại theo 3 giai đoạn: sản xuất sơ cấp, công nghiệp
hóa và nền kinh tế phát triển. Giai đoạn 1: sản xuất sơ cấp, tỷ trọng nông nghiệp
trong giá trị gia tăng lớn; tích lũy tư bản còn khiêm tốn, tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ
tăng trưởng năng suất của các nhân tố tổng hợp thấp. Giai đoạn 2: giai đoạn công
nghiệp hóa, đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là có sự dịch chuyển từ khu vực sản
xuất sơ cấp sang khu vực chế biến; tỷ lệ tích lũy vốn cao trong hầu hết giai đoạn 2
do sự gia tăng trong tỷ lệ đầu tư có xu hướng bù đắp sự suy giảm khối lượng vốn
trong các hàm sản xuất theo ngành; năng suất của các nhân tố tổng hợp được gia
tăng. Giai đoạn 3 là giai đoạn nền kinh tế phát triển, khu vực dịch vụ trở thành khu
vực quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao
động (CCLĐ). Trong giai đoạn này, đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng là do tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp.
Lý thuyết phát triển cân đối của Nurkse (1961) và Rosentein (1943) không
sắp xếp thứ tự mức độ quan tâm đến các ngành nào trong nền kinh tế mà cho rằng
phải phát triển đồng đều ở tất cả các ngành kinh tế để chuyển dịch CCKT một cách
nhanh chóng. Lý thuyết này phù hợp với các nước đang phát triển thực hiện công
nghiệp hóa hướng nội hoặc thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tế
thì đã bộc lộ những nhược điểm nhất định: việc phát triển một nền kinh tế với cơ
cấu cân đối, hoàn chỉnh đã đẩy các nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế

giới bên ngoài, điều này đi ngược với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới
và không tận dụng được những lợi ích từ môi trường bên ngoài đem lại. Đồng thời,
chiến lược này vượt ra ngoài các nguồn lực của hầu hết các nước nghèo để có thể
thực hiện những mục tiêu cơ cấu đặt ra, vì sự thiếu vốn và các nguồn lực khác để
thúc đẩy sự phát triển toàn diện các ngành công nghiệp.
Để đánh giá tác động của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng kinh tế,
Fabricant (1942) đã xây dựng mô hình phân tích dịch chuyển tỷ trọng ngành. Ưu
điểm của phương pháp này là cho phép tách tăng trưởng năng suất tổng thể nền
kinh tế thành hai cấu thành: tăng trưởng năng suất nội bộ ngành và đóng góp của
dịch chuyển cơ cấu nhờ di chuyển lao động giữa các ngành vào tốc độ tăng năng


7
suất tổng thể. Ban đầu phương pháp dịch chuyển tỷ trọng được áp dụng cho nền
kinh tế hai khu vực của Lewis (1954). Sau này phương pháp dịch chuyển tỷ trọng
có thể vận dụng cho nền kinh tế nhiều ngành cũng như vận dụng để đo lường đóng
góp của chuyển đổi cơ cấu vào tăng trưởng năng suất nội bộ một ngành. Bart van
Ark (1995) đã ứng dụng phương pháp dịch chuyển tỷ trọng để phân tích tăng trưởng
NSLĐ của 8 nền kinh tế Tây Âu. Trong nghiên cứu gần đây về tăng trưởng năng
suất của Châu Á, Bart van Ark và Marcel Timmer (2003) cũng khẳng định lại đóng
góp của chuyển dịch cơ cấu vào tăng trưởng NSLĐ của các nền kinh tế có trình độ
phát triển thấp (7 quốc gia Châu Á trong giai đoạn 1963-1996).
Fonfria, A. và các cộng sự (2005) nghiên cứu về "phần thưởng do chuyển
dịch cơ cấu" đối với ngành công nghiệp chế tạo của Tây Ban Nha cho kết quả các
tác động tĩnh và động đối với NSLĐ do sự chuyển dịch cơ cấu ngành gây ra chủ
yếu là âm, cho thấy sự dịch chuyển lao động từ các ngành có NSLĐ thấp sang các
ngành có NSLĐ cao hơn là rất hạn chế.
Gyfason và G.Zoega (2004) cũng đã lượng hóa ảnh hưởng của chuyển dịch cơ
cấu ngành tới tăng trưởng của các nước trên thế giới thông qua việc xem xét ảnh
hưởng sự thay đổi tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp và sự chuyển dịch lao

động nhập cư từ nông thôn ra thành thị, sử dụng bộ số liệu của Ngân hàng thế giới
cho 86 quốc gia (không có Việt Nam).
Như vậy, hầu hết các lý thuyết về CCKT và chuyển dịch CCKT đều coi việc
chuyển dịch CCKT, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một nội dung
quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa. Các lý thuyết đều cho
rằng việc dịch chuyển các nguồn lực từ khu vực nông nghiệp có năng suất thấp sang
khu vực công nghiệp có năng suất cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh
đó, các lý thuyết cũng chỉ ra rằng hình thức chuyển dịch CCKT của các nước diễn ra
rất phong phú, đa dạng và khó tìm thấy một khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu về quá trình chuyển dịch CCKT ở mỗi quốc gia trong mỗi
giai đoạn phát triển là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải tiếp cận
theo nhiều phương pháp khác nhau.

1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về CCKT và chuyển dịch CCKT cũng
khá phong phú, điển hình là các công trình:
Ngô Đình Giao (1994), đã tập trung trình bày những cơ sở lý luận và sự cần
thiết của chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đánh giá


8
thực trạng chuyển dịch CCKT ở Việt Nam. Đồng thời chỉ ra các phương hướng, biện
pháp, những điều kiện cần thiết và thực tế chuyển dịch CCKT theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số ngành kinh tế và vùng lãnh thổ ở Việt Nam. Trong
nghiên cứu này, tác giả vẫn chưa đi sâu vào phân tích mức độ và xu thế chuyển dịch
CCKT, chưa lượng hóa được tác động của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT, tác
động của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn này.
Đỗ Hoài Nam (1996), đã khái quát một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm thế
giới về cơ cấu ngành của nền kinh tế; phân tích đặc điểm phát triển kinh tế khu vực

Châu Á Thái Bình Dương và tác động của CCKT đến các nước đi sau trong khu vực;
Phân tích thực trạng cơ cấu ngành của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991-1994;
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế; định
dạng cơ cấu ngành và lựa chọn ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam; đề xuất một
số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển ngành mũi nhọn ở
Việt Nam. Trong phân tích thực trạng cơ cấu ngành kinh tế, tác giả chủ yếu vận dụng
hai phương pháp phân tổ kết cấu và dãy số thời gian. Do vậy, trong nghiên cứu này,
tác giả cũng chưa lượng hóa được tác động của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT,
tác động của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn này.
Lê Huy Đức (1996), đã trình bày những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu
đầu tư; phân tích thực trạng cơ cấu đầu tư và CCKT Việt Nam trong thời kỳ 19861995; đề xuất phương hướng và biện pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo ngành kinh
tế ở Việt Nam đến năm 2010. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã sử dụng 3
phương pháp: phân tổ kết cấu, dãy số thời gian, hồi quy-tương quan. Tuy nhiên, khi
vận dụng phương pháp hồi quy-tương quan, tác giả mới lượng hóa được tác động
của lao động, VĐT và xu hướng phát triển khoa học công nghệ đến GDP. Chưa
lượng hóa được tác động của chuyển dịch CCVĐT đến GDP.
Nguyễn Cúc (1997), đã phân tích vai trò của nhà nước đối với quá trình
chuyển dịch CCKT; kinh nghiệm của một số nước công nghiệp mới Châu Á trong
việc chuyển dịch CCKT; đánh giá thực trạng tác động của nhà nước đối với chuyển
dịch CCKT ở Việt Nam trong giai đoạn này; đề xuất hoàn thiện chính sách nhằm
chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, tác giả
mới chỉ dừng lại ở phân tích định tính tác động của các chính sách đến CCKT mà


9
chưa phân tích cụ thể các nhân tố định lượng như lao động, VĐT,… đến CCKT và
chuyển dịch CCKT.
Trương Thị Minh Sâm (2000), đã đưa ra các tiêu chuẩn xác định CCKT theo
ngành, lựa chọn các ngành trọng điểm và mũi nhọn trong cơ cấu ngành kinh tế.

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp để chuyển dịch và tối ưu hóa cơ cấu ngành
kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù tác giả đã chỉ ra các nhân tố tác động đến
việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế và chỉ ra các tiêu chuẩn xác
định cơ cấu ngành kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tác giả chưa xây
dựng được mô hình lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu theo
ngành kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trần Quế (2004), đã trình bày quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở Việt Nam đầu thế kỷ 21; đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế. Tuy nhiên, trong phân tích tác giả cũng chủ
yếu sử dụng 2 phương pháp chính: phân tổ kết cấu, dãy số thời gian. Do vậy, trong
nghiên cứu này, tác giả chưa lượng hóa được tác động của các nhân tố đến chuyển
dịch CCKT và của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng kinh tế.
Bùi Tất Thắng (2006), đã trình bày những vấn đề lý luận về CCKT và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đánh giá thực
trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam; từ đó đưa ra các quan điểm và
giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo ngành ở Việt Nam giai đoạn 2000-2005.
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng đã phân tích các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tuy nhiên, tác giả chưa lượng hóa được ảnh hưởng
của các nhân tố đến chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế.
Nguyễn Đình Dương (2006), đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về CCKT và
chuyển dịch CCKT; đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch CCKT trên địa bàn Hà
Nội. Đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCKT
của thủ đô Hà Nội đến năm 2020. Tác giả mới dừng lại ở đánh giá thực trạng chuyển
dịch CCKT của Hà Nội, chưa lượng hóa được các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển
dịch CCKT của Hà Nội và tác động của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng kinh tế
của Hà Nội.
Tạ Đình Thi (2007), đã khái quát những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn
chuyển dịch CCKT trên quan điểm phát triển bền vững; phân tích hiện trạng chuyển
dịch CCKT của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trên quan điểm phát triển bền vững;
đưa ra định hướng và giải pháp chuyển dịch CCKT của vùng kinh tế trọng điểm Bắc



10
Bộ trên quan điểm phát triển bền vững. Mặc dù, trong nghiên cứu của mình, tác giả
đã lượng hóa được ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chỉ tiêu đầu
ra (cơ cấu GDP) đến gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường. Nhưng tác giả chưa lượng
hóa được ảnh hưởng của chuyển dịch CCVĐT, CCLĐ theo ngành kinh tế đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2007), đã tổng quan cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ
cấu ngành trong quá trình công nghiệp hóa; trình bày khung phân tích về đóng góp
của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành vào tăng trưởng năng suất; phân
tích định lượng đóng góp của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành vào
tăng trưởng năng suất ở Việt Nam giai đoạn 1991-2006, từ đó đề xuất một số kiến
nghị thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa. Tuy nhiên, tác
giả mới lượng hóa ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến tăng trưởng
NLSĐ thông qua chỉ tiêu đầu vào là lao động (tính cho 20 ngành cấp 1) theo phương
pháp dịch chuyển tỷ trọng.
Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Thị Minh (2008), đã sử
dụng hai phương pháp bảng I/O và mô hình hồi quy dữ liệu mảng trong đánh giá thay
đổi cấu trúc nền kinh tế. Trong đó, Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Việt Hùng (2008) đã
phân tích thay đổi cấu trúc và nguồn tăng trưởng công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn
1996-2000 thông qua phân rã nguồn tăng trưởng từ phía cầu nhờ sử dụng bảng I/O.
Nguyễn Thị Minh (2008) đã phân tích ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu đầu ra (cơ
cấu GDP theo 3 nhóm ngành kinh tế) đến tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2007
thông qua mô hình hồi quy dữ liệu mảng. Tuy nhiên, nghiên cứu này của nhóm tác
giả mới dừng lại ở hai vấn đề: 1) đánh giá sự thay đổi cấu trúc đến nguồn tăng trưởng
công nghiệp thông qua bảng I/O; 2) đánh giá ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo chỉ tiêu đầu ra (cơ cấu GDP) đến tăng trưởng kinh tế (GDP) của
Việt Nam giai đoạn 2001-2007 thông qua phương pháp hồi quy dữ liệu mảng.
Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân, Phạm Đức Hải (2010), đã giới thiệu khái quát

những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn của CCKT và đưa ra các mô hình tăng
trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Qua đó, nghiên cứu về CCKT, mô hình tăng trưởng
kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh theo hướng cạnh tranh; đánh giá hiện trạng và đề
xuất giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi khu vực kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chưa đánh giá được mức độ và xu thế chuyển dịch
CCKT, ảnh hưởng của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT và ảnh hưởng của chuyển
dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh.


11
Nguyễn Thị Lan Hương (2012), đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn ảnh
hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tới tăng trưởng kinh tế; đánh giá hiện
trạng ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tới tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam; đề xuất giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm tăng cường
ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Mặc dù đã lượng hóa được ảnh hưởng
của chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế tới tăng trưởng GDP thông qua phương
pháp hồi quy dữ liệu chéo. Tuy nghiên, tác giả mới chỉ lượng hóa ảnh hưởng của
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chỉ tiêu đầu ra (cơ cấu GDP) đến tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam theo phương pháp hồi quy dữ liệu chéo và thử nghiệm với bộ
số liệu của 61 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 1999-2003.
Trên giác độ nghiên cứu thống kê về CCKT có:
Nguyễn Sinh cúc (2002), đã đề cập đến một số khái niệm cơ bản và những
vấn đề đặt ra trong xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê chuyển dịch cơ cấu sản xuất
NLTS; thực trạng các chỉ tiêu thống kê chuyển dịch cơ cấu nội bộ nhóm ngành
NLTS, kiến nghị xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê chuyển dịch cơ cấu trong nội
bộ nhóm ngành NLTS. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng chỉ
tiêu thống kê về chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ nhóm ngành NLTS.
Phan Công Nghĩa (2007), đã phân tích những vấn đề lý luận, phương pháp luận
nghiên cứu thống kê CCKT nói chung và CCKT nông nghiệp nông thôn Việt Nam nói
riêng (cụ thể theo TPKT, hình thức tổ chức sản xuất); Kinh nghiệm của các nước về

vấn đề chuyển dịch CCKT nông nghiệp và nông thôn theo TPKT, hình thức tổ chức
sản xuất; Đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT nông thôn Việt Nam giai đoạn này;
Đề xuất các phương hướng, giải pháp khái quát chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông
thôn theo TPKT và hình thức tổ chức sản xuất của Việt Nam. Nghiên cứu này của tác
giả giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu là nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Do
vậy, chưa nghiên cứu được toàn diện thực trạng chuyển dịch CCKT theo ngành kinh
tế, TPKT và vùng lãnh thổ của Việt Nam.
Tóm lại, các nghiên cứu về CCKT và chuyển dịch CCKT mà tác giả được
tham khảo đã khái quát hóa các vấn đề lý luận, phương pháp luận về CCKT và
chuyển dịch CCKT. Phân tích thực trạng CCKT, đề ra phương hướng, biện pháp thúc
đẩy chuyển dịch CCKT ở một số vùng kinh tế trọng điểm, một số thành phố lớn và
toàn nền kinh tế. Tổng kết kinh nghiệm thế giới về CCKT và chuyển dịch CCKT.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về
CCKT; đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT của Việt Nam trong các giai đoạn;


12
đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế tới tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu về thống kê CCKT mới chỉ đề xuất các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu
trong nội bộ ngành NLTS và các phương pháp luận nghiên cứu thống kê CCKT nói
chung, CCKT nông nghiệp nông thôn Việt Nam nói riêng. Còn thiếu những công
trình nghiên cứu đề xuất hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê sử
dụng trong phân tích CCKT và chuyển dịch CCKT cho Việt Nam. Một số nghiên cứu
đã lượng hóa được ảnh hưởng của chuyển dịch CCKT theo ngành đến tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam, tuy nhiên các mô hình này mới lượng hóa được ảnh hưởng của
chuyển dịch CCKT theo chỉ tiêu đầu ra (GDP), hoặc mới chỉ lượng hóa ảnh hưởng các
nhân tố đầu vào (VĐT, lao động) đến tăng trưởng GDP thông qua mô hình hồi quy đa
biến. Chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương pháp chỉ số để lượng hóa ảnh hưởng
của chuyển dịch CCKT (theo cả ba phân tổ: ngành kinh tế, TPKT và vùng lãnh thổ)
theo chỉ tiêu đầu vào (VĐT, lao động) đến tăng trưởng kinh tế (thông qua các chỉ tiêu

hiệu quả sử dụng VĐT, năng suất lao động xã hội (NSLĐXH), GDP). Cũng chưa có
nghiên cứu nào lượng hóa ảnh hưởng của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT của Việt
Nam giai đoạn 1986-2012 và đưa ra kết quả dự báo CCKT Việt Nam đến năm 2020.
Điểm khác biệt, tạm gọi là “khoảng trống nghiên cứu/khoảng trống lý luận”
chưa được nghiên cứu, giải quyết, dự kiến sẽ thực hiện so với các nghiên cứu trước
đây được thể hiện khái quát trên các mặt sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về CCKT;
Thứ hai, lựa chọn hệ phương pháp thống kê vận dụng trong nghiên cứu
CCKT và chuyển dịch CCKT;
Thứ ba, bổ sung mô hình đánh giá tác động của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT;
Thứ tư, bổ sung các mô hình đánh giá tác động của chuyển dịch CCKT đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế;
Thứ năm, dự báo được CCKT cho Việt Nam đến năm 2020.

2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích chung
CCKT và chuyển dịch CCKT là nội dung quan trọng trong lý thuyết kinh tế
cũng như trong chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, thống
kê phải nghiên cứu, phản ánh đúng đắn CCKT và quá trình chuyển dịch CCKT; góp
phần thực hiện đúng đường lối, chính sách về CCKT và chuyển dịch CCKT của
Đảng và Nhà nước.


13

2.2. Mục đích cụ thể
2.2.1. Mục đích cụ thể về lý luận
Luận án tập trung vào các nội dung chính: 1) hệ thống hóa những vấn đề lý
luận chung về CCKT và chuyển dịch CCKT; 2) làm rõ các yếu tố hình thành và tác
động đến CCKT và chuyển dịch CCKT; 3) hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về

CCKT; 4) xác định được các nhiệm vụ cần thực hiện trong nghiên cứu về CCKT và
chuyển dịch CCKT; 5) lựa chọn và chỉ rõ đặc điểm vận dụng các phương pháp
thống kê để giải quyết các nhiệm vụ trong nghiên cứu về CCKT và chuyển dịch
CCKT; 6) đánh giá vai trò của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT; 7) đánh giá vai
trò của chuyển dịch CCKT tới tăng trưởng và phát triển kinh tế; 8) Thử nghiệm vận
dụng vào phân tích CCKT và chuyển dịch CCKT của Việt Nam giai đoạn 1986-2012
để khẳng định tính khả thi của hệ thống chỉ tiêu thống kê được đề xuất và hệ phương
pháp thống kê được lựa chọn.

2.2.2 Mục đích cụ thể về thực tiễn
Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu và hệ phương pháp thống kê được đề xuất, vận
dụng để tính toán, phân tích và đánh giá CCKT, chuyển dịch CCKT ở Việt Nam sau
chặng đường gần 30 năm đổi mới (giai đoạn 1986-2012); đưa ra kết quả dự báo CCKT
của Việt Nam đến năm 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu thống kê CCKT và chuyển dịch CCKT của Việt Nam.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu CCKT và chuyển dịch CCKT của
Việt Nam theo cả nhóm ngành kinh tế (Tổng cục Thống kê (TCTK) gọi là khu vực
kinh tế), thành phần kinh tế (TPKT) và vùng lãnh thổ (các phân tổ này được xác
định theo tiêu chuẩn của TCTK). Tuy nhiên, để tránh dàn trải, luận án sẽ tập trung
hơn vào việc luận giải những vấn đề về CCKT và chuyển dịch CCKT theo nhóm
ngành kinh tế, coi đây là cơ cấu “trụ”.
- Phạm vi về thời gian: Phân tích, đánh giá CCKT và chuyển dịch CCKT
của Việt Nam từ năm 1986 đến 2012; dự báo CCKT của Việt Nam đến năm 2020.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp viết luận án
- Phương pháp biện chứng: được sử dụng xuyên suốt luận án, đặc biệt khi phân tích
cơ sở lý luận về CCKT; phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT;

phân tích ảnh hưởng của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.


14
- Phương pháp tổng hợp: luận án sử dụng tổng hợp các lý thuyết kinh tế học
liên quan để lý giải ảnh hưởng của các nhân tố đến chuyển dịch CCKT và ảnh
hưởng của chuyển dịch CCKT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phương pháp so sánh, lịch sử: phân tích CCKT, chuyển dịch CCKT của
Việt Nam qua các giai đoạn và so sánh CCKT, chuyển dịch CCKT của Việt Nam
với các quốc gia khác.

4.2. Phương pháp thu thập thông tin
Để thu thập thông tin, luận án sử dụng các phương pháp thu thập thông tin như
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích tư liệu, thông tin sẵn có (đây là
một trong các phương pháp thu thập thông tin trong điều tra xã hội học).
Nguồn dữ liệu sử dụng chủ yếu là nguồn thứ cấp: số liệu báo cáo từ các cơ
quan có liên quan của Đảng và Nhà nước (như Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, TCTK,…);
Niên giám thống kê, các kết quả đã công bố qua các hội nghị, hội thảo, các cuộc điều
tra, khảo sát và kế thừa bộ số liệu của các nghiên cứu trước đó liên quan đến đề tài.

4.3. Phương pháp thống kê mô tả cơ cấu kinh tế
Để mô tả CCKT, luận án sử dụng các phương pháp thống kê như: phân tổ
phân loại, phân tổ kết cấu, biểu đồ, phương pháp tính các loại số tương đối.

4.4. Phương pháp thống kê phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Để thực hiện nhiệm vụ phân tích CCKT và chuyển dịch CCKT, luận án sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, có tác dụng khác nhau và bổ sung cho
nhau: phương pháp tính các chỉ tiêu phân tích CCKT, dãy số thời gian, biểu đồ, chỉ
số, hồi quy-tương quan, so sánh dãy số song song, dịch chuyển tỷ trọng, véc tơ.

Nhằm giúp công tác nghiên cứu thuận lợi và đạt kết quả tốt, tác giả sử dụng 2
phầm mềm thống kê và kinh tế lượng là SPSS và STATA.

5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Luận án đã đề xuất được Hệ thống chỉ tiêu thống kê về cơ cấu kinh tế (CCKT)
bao gồm 9 nhóm: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư (CCVĐT) theo
ngành kinh tế, cơ cấu lao động (CCLĐ) theo ngành kinh tế, cơ cấu GDP theo thành
phần kinh tế (TPKT), CCVĐT theo TPKT, CCLĐ theo TPKT, cơ cấu GDP theo
vùng lãnh thổ, CCVĐT theo vùng lãnh thổ, CCLĐ theo vùng lãnh thổ. Hiện tại, ở
Việt Nam chưa có một hệ thống chỉ tiêu thống kê độc lập về CCKT và cũng chưa có


15
nghiên cứu nào đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê về CCKT một cách toàn diện trên
cơ sở kết hợp cả theo tiêu thức phân tổ và theo chỉ tiêu làm cơ sở tính toán.
Luận án đã xây dựng được mô hình đánh giá tác động của chuyển dịch
CCLĐ theo nhóm ngành kinh tế đến tỷ trọng giá trị tăng thêm của nhóm ngành phi
nông nghiệp bằng phương pháp hồi quy dữ liệu mảng; đã xây dựng được mô hình
đánh giá tác động của chuyển dịch CCLĐ, CCVĐT theo cả ba phân tổ (ngành kinh
tế, TPKT và vùng lãnh thổ) đến tăng trưởng năng suất lao động xã hội (NSLĐXH),
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và GDP bằng phương pháp chỉ số; đã xây dựng được
mô hình đánh giá tác động của chuyển dịch CCLĐ theo ngành kinh tế đến GDP
bình quân đầu người bằng phương pháp hồi quy dữ liệu mảng.
Luận án đã bổ sung mô hình đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế theo chỉ tiêu đầu vào (CCLĐ) đến GDP. Trong mô hình này, luận án bổ
sung thêm hai nhân tố: năng suất lao động (NSLĐ) của nhóm ngành công nghiệp
xây dựng (CNXD) và NSLĐ của nhóm ngành dịch vụ (DV). Các nghiên cứu trước
đây (Nguyễn Thị Minh (2008), Nguyễn Thị Lan Hương (2012)) đã xây dựng mô
hình đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chỉ tiêu đầu ra

(cơ cấu GDP) đến GDP.
5.2. Những đóng gớp mới về mặt thực tiễn
Luận án đã phân tích được quá trình chuyển dịch CCKT của Việt Nam theo
cả ba phân tổ (nhóm ngành kinh tế, TPKT và vùng lãnh thổ), theo cả chỉ tiêu đầu
vào (lao động, vốn đầu tư) lẫn chỉ tiêu đầu ra (GDP).
Luận án đã lượng hóa được tác động của tỷ trọng lao động của nhóm ngành
CNXD và nhóm ngành DV đến tỷ trọng giá trị tăng thêm của nhóm ngành phi nông
nghiệp bằng mô hình hồi quy dữ liệu mảng. Kết quả ước lượng cho thấy, tỷ trọng
lao động của cả 2 nhóm ngành đều tác động tích cực đến tỷ trọng giá trị tăng thêm
của nhóm ngành phi nông nghiệp của Việt Nam, trong đó tỷ trọng lao động của
nhóm ngành DV có tác động mạnh hơn.
Luận án đã lượng hóa được tác động của chuyển dịch CCLĐ, CCVĐT theo
cả ba phân tổ (ngành kinh tế, TPKT và vùng lãnh thổ) đến tăng trưởng NSLĐXH,
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và GDP bằng phương pháp chỉ số. Kết quả tính toán
cho thấy, chuyển dịch CCLĐ theo cả ba phân tổ đều có tác động tích cực đến
NSLĐXH và GDP của Việt Nam. Chuyển dịch CCVĐT theo cả ba phân tổ đều có
tác động tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và GDP của Việt Nam.


16
Luận án đã lượng hóa được tác động của chuyển dịch CCLĐ theo nhóm
ngành kinh tế đến GDP và GDP bình quân đầu người bằng phương pháp hồi quy dữ
liệu mảng. Kết quả ước lượng cũng cho thấy, tỷ trọng lao động của cả 2 nhóm
ngành CNXD và DV đều có tác động tích cực đến GDP và GDP bình quân đầu
người của Việt Nam, trong đó tỷ trọng lao động của nhóm ngành DV có tác động
mạnh hơn. NSLĐ của cả 2 nhóm ngành CNXD và DV đều tác động tích cực đến
GDP và GDP bình quân đầu người, trong đó NSLĐ của nhóm ngành DV có tác
động tích cực hơn.
Luận án đã dự báo được CCKT Việt Nam đến năm 2020 dựa vào các mô hình
dự báo theo chuỗi thời gian. Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo hữu

ích cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng các chính sách chuyển
dịch CCKT theo nhóm ngành kinh tế, TPKT và vùng lãnh thổ được hiệu quả.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra một số đề xuất về công
tác thống kê CCKT:
1) Để đảm bảo nguồn số liệu trong phân tích CCKT và chuyển dịch CCKT
theo vùng lãnh thổ, TCTK cần sớm công bố số liệu về VĐT, lao động và GDP của
từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân tổ theo nhóm ngành kinh tế, TPKT;
và để đảm bảo nguồn số liệu đáp ứng yêu cầu phân tích cơ cấu và chuyển dịch CCKT
trong nội bộ từng ngành kinh tế, Tổng cục Thống kê cần sớm công bố số liệu về giá
trị tăng thêm (VA),VĐT và lao động chi tiết đến ngành kinh tế cấp 2 và cấp 3.
2) TCTK cần đảm bảo tính nhất quán và thống nhất cách phân tổ của các chỉ
tiêu biểu hiện CCKT. Cụ thể, với các chỉ tiêu VĐT, lao động và GDP cần được phân
tổ chi tiết theo cùng một cấp độ (với ngành kinh tế chi tiết đến ngành cấp 1 và cấp 2;
với TPKT chi tiết theo 5 thành phần).

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Chương 2: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và lựa chọn hệ phương pháp
thống kê phân tích cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Chương 3: Phân tích cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Việt Nam giai đoạn 1986-2012


17

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

Chương 1 “Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế” bao gồm 2 mục: 1/ Cơ cấu kinh tế và 2/ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về CCKT. Theo phạm trù triết học, khái
niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa
các bộ phận hợp thành của hệ thống.
Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, C.Mác quan niệm: toàn bộ các quan
hệ giữa những người làm nhiệm vụ sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên-tức là
những điều kiện trong đó họ tiến hành sản xuất. Toàn bộ những quan hệ đó hợp thành
xã hội, xét về mặt CCKT của nó. Như vậy, theo C.Mác, CCKT có cấu trúc bao gồm:
những yếu tố gắn với lực lượng sản xuất (quan hệ giữa họ với tự nhiên và kỹ thuật) và
các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá
trình tái sản xuất xã hội) hợp thành. Nếu CCKT bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thì khi phân tích CCKT không thể không xem xét mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một CCKT được coi là đúng đắn là
một CCKT được hình thành và phát triển trong đó các yếu tố của quan hệ sản xuất phải
luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Theo Kuznets S. (1966), CCKT là một khung mạch lạc của các bộ phận có quan
hệ với nhau, mà mỗi một phần có một vai trò riêng biệt nhưng lại có cùng một số mục
tiêu chung. Như vậy, CCKT là tổng thể các bộ phận của nền kinh tế, có mối quan hệ
hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ với
nhau về mặt chất. Các bộ phận kinh tế tác động qua lại với nhau trong cùng một không
gian và thời gian nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhìn chung các loại hình CCKT này
phải được nghiên cứu đồng bộ gắn với CCKT nói chung của một quốc gia.
Sự liên kết, phối hợp giữa các bộ phận hợp thành hệ thống càng chặt chẽ, tương
tác giữa các bộ phận hợp thành ở trình độ càng cao thì sự phát triển hài hòa càng được
đảm bảo, hệ thống càng phát triển và cơ hội đem lại kết quả càng cao, hiệu quả càng lớn



18
(Ngô Doãn Vịnh, 2005 và 2006). Vì vậy, có thể thấy rằng, CCKT là tổng thể những mối
quan hệ về chất lượng (được đo bằng mức độ chặt-lỏng của mối quan hệ tương tác giữa
các phần tử cấu thành) và số lượng (được đo bằng tỷ lệ phần trăm của mỗi phần tử) giữa
các bộ phận cấu thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế xã hội
(KTXH) nhất định (Bùi Tất Thắng, 2006, trích dẫn trong Vũ Tuấn Anh, “Một số vấn đề
lý luận về cơ cấu nền kinh tế quốc dân” Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 2/1982).
Cơ cấu của hệ thống phải được nhìn nhận là một thực thể gồm rất nhiều phần tử
hay phân hệ; có cấu trúc theo các kiểu cách nhất định. Khi thay đổi kiểu cách kết cấu
hay thay đổi cấu trúc thì hệ thống sẽ thay đổi cả về hình dạng, tính chất và trình độ. Hệ
thống lớn bao gồm nhiều hệ thống con, trong hệ thống con lại có nhiều phần tử nhỏ
hơn. Phần tử nhỏ hơn lại có cơ cấu riêng. Trong hệ thống tồn tại tập hợp các phần tử
theo một trật tự và quan hệ tỷ lệ nhất định. Mỗi phần tử có vị trí trong trật tự cơ cấu và
có vai trò khác nhau. Cơ cấu chuyển động và biến đổi không ngừng làm cho tính chất,
trình độ của hệ thống thay đổi theo (Ngô Doãn Vịnh, 2005 và 2006). Nói cách khác,
CCKT được hiểu là cách thức kết cấu của các phần tử tạo lên hệ thống.
Ngô Doãn Vịnh (2005) đã cho rằng khi nói về hệ thống thì không thể không
nói đến cơ cấu của nó chính bởi vì cơ cấu là thuộc tính quan trọng nhất của hệ
thống. Sự phát triển của hệ thống và cơ cấu của hệ thống có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Từ quan điểm đó tác giả khẳng định CCKT có vai trò quyết định đến sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế cũng như quyết định đến phát triển xã hội.
Qua các phân tích trên, tác giả đồng tình với định nghĩa về CCKT được đề
cập trong Từ điển bách khoa Việt Nam (1995) “CCKT là tổng thể các ngành, các
lĩnh vực, các bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành".
Từ các quan niệm về CCKT chúng ta có thể thấy:
- Cần hiểu cơ cấu theo cả hai mặt định lượng (quan hệ về lượng giữa các bộ
phận với nhau và giữa từng bộ phận với tổng thể chung) và định tính (mối liên hệ
phụ thuộc tương tác giữa các bộ phận trong tổng thể chung đó).
- Cơ cấu được biểu hiện qua cả chỉ tiêu tuyệt đối (mức độ tuyệt đối của tổng

thể chung bằng tổng mức độ tuyệt đối của từng bộ phận) và chỉ tiêu tương đối (tỷ
trọng của từng bộ phận trong tổng thể chung và tỷ lệ giữa các bộ phận đó).
- Khi nói đến CCKT, cần làm rõ cơ cấu của cái gì? (tổng thể chung là cái gì)
và theo cái gì (theo tiêu thức phân tổ nào, cách chia, căn cứ chia).


19
- Khi nói đến cơ cấu, cần làm rõ tiếp chỉ tiêu nào đại diện cho tổng thể chung
(CCKT có thể tính theo một trong các chỉ tiêu như GDP, VĐT, lao động,...).
CCKT chủ yếu được hiểu và vận dụng trong phân tích luận án là chỉ tiêu số
tương đối kết cấu (tỷ trọng-tính bằng phần trăm) hoặc chỉ tiêu tuyệt đối biểu hiện các
bộ phận cấu thành tổng thể nền KTQD xét theo một tiêu thức nào đó.

1.1.2.Các đặc trưng chủ yếu của cơ cấu kinh tế
1.1.2.1.Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch sử
CCKT được hình thành một cách khách quan do sự phát triển của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội. Một CCKT trong từng thời kỳ của từng
ngành, từng địa phương và trong cả nước bao giờ cũng do một CCKT của thời kỳ
trước để lại. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, các
phương thức sản xuất và sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc thù sẽ quyết định
tính khác biệt về CCKT của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia. Vì vậy, CCKT phản
ánh tính quy luật chung của quá trình phát triển, nhưng sự biểu hiện cụ thể phải
thích ứng với đặc thù của mỗi nước, mỗi vùng về tự nhiên, kinh tế và lịch sử.
Không có một cơ cấu chung cho mọi phương thức sản xuất, mọi vùng lãnh thổ hoặc
đại diện chung cho nhiều nước khác nhau. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có thể và cần
thiết phải lựa chọn CCKT cho phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử và phát triển (Đỗ
Hoài Nam,1996, Nguyễn Trần Quế, 2004 và Bùi Tất Thắng, 2006).

1.1.2.2.Cơ cấu kinh tế có mối quan hệ cân đối đồng bộ
CCKT vốn có mối quan hệ cân đối đồng bộ giữa các bộ phận kinh tế nằm

trong một tổng thể bao gồm hệ thống lớn, hệ thống vừa và hệ thống nhỏ gắn bó chặt
chẽ với nhau. Sở dĩ như vậy bởi chính các bộ phận kinh tế trong một hệ thống có
mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau theo quy luật đặc thù. Một CCKT gồm có
nhiều bộ phận kinh tế khác nhau, có bộ phận kinh tế chủ yếu, cũng có bộ phận kinh
tế thứ yếu xếp theo sự ưu tiên khác nhau. Bộ phận kinh tế chủ yếu (then chốt, mũi
nhọn) quyết định nhiều đến quy mô và nhịp độ phát triển của nền kinh tế, nhưng nó
cũng đòi hỏi sự ưu tiên về vốn, KHCN và các chính sách. Sự tồn tại bộ phận kinh tế
then chốt, mũi nhọn xuất phát từ nguyên tắc lợi thế so sánh của bộ phận kinh tế này
so với bộ phận kinh tế khác để đạt hiệu quả cao trong khi các yếu tố sản xuất có
hạn. Việc bố trí VĐT một cách dàn trải trên tất cả các bộ phận kinh tế là đi ngược
nguyên tắc hiệu quả. Ngược lại, việc tập trung quá mức đầu tư cho một bộ phận


20
kinh tế lại gây ra tình trạng mất cân đối của cơ cấu (Đỗ Hoài Nam, 1996, Nguyễn
Trần Quế, 2004 và Bùi Tất Thắng, 2006).

1.1.2.3.Cơ cấu kinh tế có tính đa dạng và tính mở
CCKT không thể cố định mà phải có sự biến đổi, điều chỉnh thích hợp với sự
thay đổi của các điều kiện KTXH và tiến bộ KHCN để đảm bảo quy mô và nhịp độ
phát triển kinh tế. Sự phát triển và biến đổi của CCKT có quan hệ chặt chẽ với sự
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lực lượng sản xuất
ngày càng phát triển, sự chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng
cao, tất yếu dẫn đến CCKT cũng ngày càng hoàn thiện. Bên cạnh đó, sự vận động
và biến đổi của CCKT cũng có quan hệ chặt chẽ với sự vận động và biến đổi của
các bộ phận kinh tế. Đây là mối quan hệ chuyển hoá lẫn nhau. Bộ phận kinh tế thay
đổi phát triển hơn tất yếu kéo theo CCKT ngày càng biến đổi, hoàn thiện hơn. Từ sự
biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, một CCKT mới ra đời tiến bộ hơn để
phù hợp sự biến đổi đó. Tuy nhiên CCKT không luôn thay đổi một cách số học mà
nó phải tương đối ổn định trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo sự phù hợp

với quá trình hình thành và phát triển của nó một cách khách quan (Đỗ Hoài Nam,
1996), Nguyễn Trần Quế, 2004 và Bùi Tất Thắng, 2006).

1.1.2.4.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình
Quá trình chuyển đổi CCKT là quá trình tích luỹ về lượng, thay đổi về lượng
đến mức độ nhất định mới dẫn đến thay đổi về chất. Trong quá trình đó, cơ cấu cũ
thay đổi dần để chuyển thành cơ cấu mới. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có sự tác động trực tiếp rất quan trọng của
chủ thể lãnh đạo và quản lý. Sự chuyển dịch CCKT nhất thiết phải là một quá trình,
nhưng không phải là một quá trình tự phát với các bước tuần tự mà ngược lại, con
người bằng những hiểu biết sâu sắc về thực tế hoàn toàn có thể tạo ra những tiền đề,
tác động cho quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đúng hướng hơn (Đỗ Hoài Nam,
1996), Nguyễn Trần Quế, 2004 và Bùi Tất Thắng, 2006).

1.1.3.Các loại cơ cấu kinh tế
1.1.3.1.Các loại cơ cấu kinh tế theo tiêu thức phân tổ
Theo tiêu thức phân tổ, có: cơ cấu theo ngành kinh tế (căn cứ vào phân công
lao động xã hội theo ngành kinh tế); cơ cấu theo TPKT (căn cứ vào loại hình kinh


21
tế); CCKT theo vùng lãnh thổ (căn cứ vào phân công lao động xã hội theo vùng
lãnh thổ).
a. Cơ cấu theo ngành kinh tế
Cơ cấu theo ngành kinh tế là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành của nền KTQD.
Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội của một quốc gia (Nguyễn Trần Quế, 2004, tr.12).
Cơ cấu theo ngành kinh tế xét theo quan điểm hệ thống là một chỉnh thể liên
kết ngành kinh tế theo một kiểu cấu trúc nhất định, tạo ra những thuộc tính mới,

chất lượng mới của hệ thống mà những thuộc tính này không thể có ở từng bộ phận
riêng rẽ hợp thành hệ thống (Nguyễn Đình Dương, 2006, tr.10).
Cơ cấu theo ngành kinh tế quyết định cơ cấu theo vùng lãnh thổ và cơ cấu theo
TPKT. CCKT theo vùng lãnh thổ là sự hợp lý hóa cơ cấu theo ngành kinh tế trên mỗi
vùng lãnh thổ. Cơ cấu theo TPKT là sự vận động của từng loại TPKT trong quá trình
phát triển các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế.
Việc nghiên cứu cơ cấu theo ngành kinh tế nhằm tìm ra những cách thức duy trì
tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn
của quốc gia trong mỗi thời kỳ, thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền KTQD một cách
nhanh nhất, hiệu quả nhất (Bùi Tất Thắng, 2006).
Biểu thị cơ cấu theo ngành kinh tế bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong
hệ thống nền KTQD. Cơ cấu theo ngành kinh tế phản ánh phần nào trình độ phân
công lao động xã hội.
Theo ngành kinh tế có nhiều cấp độ khác nhau:
- Phân theo nhóm ngành kinh tế (TCTK gọi là khu vực kinh tế) có: nhóm
ngành NLTS (nhóm I); nhóm ngành CNXD (nhóm II); nhóm ngành DV (nhóm III).
- Nếu tiếp tục phân nhỏ các nhóm ngành sẽ có: nhóm I gồm ngành nông nghiệp,
ngành lâm nghiệp, ngành thủy sản; nhóm II gồm ngành công nghiệp, ngành xây dựng;
nhóm III gồm ngành giao thông vận tải, bưu điện, du lịch, thương mại,...
- Trong mỗi ngành trên đây lại có thể phân thành những ngành nhỏ hơn gọi
là cấp III, cấp IV,...


22
Khi nghiên cứu về CCKT và chuyển dịch CCKT, tùy theo yêu cầu thông tin
và điều kiện cụ thể mà nghiên cứu cơ cấu theo ngành kinh tế đến cấp độ nào.
b. Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Cơ cấu theo TPKT biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở hữu
khác nhau, có khả năng thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân

công lao động xã hội (Nguyễn Trần Quế, 2004, tr.12).
Hay nói cách khác, việc phân loại cơ cấu nền kinh tế theo TPKT là để xem có
bao nhiêu loại hình kinh tế tồn tại, phát triển trong hệ thống kinh tế dưới góc độ sở hữu,
trong đó loại hình kinh tế nào có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế. Ở Việt Nam,
trên cơ sở cương lĩnh và Hiến pháp, đồng thời qua tổng kết thực tiễn đổi mới của các
kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, Đại hội X, Đại hội XI đã chỉ rõ “phát triển kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, nhiều TPKT, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
ngoài nhà nước, kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
KTQD. Các TPKT ở nước ta gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước (tập thể,
tư nhân, cá thể), kinh tế có VĐT nước ngoài (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 1996, Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 2001 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, 2006). Mỗi TPKT có vai trò, đặc trưng và vị trí riêng, xuất phát từ bản chất của mỗi
thành phần bắt nguồn từ quan hệ sở hữu. Trong mối quan hệ kinh tế đó Nhà nước có
vai trò gương mẫu trong thực hiện các chính sách của Chính phủ, giúp Chính phủ trong
quá trình thi hành chức năng quản lý vĩ mô toàn bộ nền KTQD.
Cơ cấu theo TPKT cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu theo ngành kinh tế và cơ
cấu theo vùng lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ
hữu cơ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu theo ngành kinh tế có
vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu theo ngành kinh tế và theo TPKT chỉ có thể được
chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt
khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy
sự phát triển của các ngành và các TPKT trên từng lãnh thổ nói riêng và cả nước nói
chung (Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Nghiên cứu xác định CCKT lãnh thổ
theo hướng phát triển có trọng điểm, Chương trình khoa học cấp nhà nước,1995).
Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở để hình thành cơ cấu theo ngành
(hoặc nhóm ngành) kinh tế và cơ cấu theo vùng lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở


23

hình thành cơ cấu theo TPKT. Một cơ cấu theo TPKT hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ
thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phân công lao động xã hội,... Theo nghĩa đó, cơ cấu theo TPKT cũng là một
nhân tố tác động đến cơ cấu theo ngành kinh tế và theo vùng lãnh thổ. Sự tác động đó
là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
c. Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ
CCKT theo vùng lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo
không gian địa lý. CCKT theo vùng lãnh thổ là kết quả của phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ. Nếu cơ cấu theo ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công
lao động xã hội và chuyên môn hoá thì cơ cấu theo vùng lãnh thổ lại được hình
thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
Việc phân loại cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ là để xem có bao nhiêu
lãnh thổ tạo nên cấu trúc lãnh thổ của nền kinh tế và các lãnh thổ liên kết với nhau
ra sao, lãnh thổ nào có ý nghĩa động lực (Ngô Doãn Vịnh, 2006).
Một số đặc trưng chủ yếu của CCKT theo vùng lãnh thổ bao gồm: bị chi phối
bởi sức chứa của lãnh thổ; được quyết định bởi hiệu quả tổng thể kinh tế, xã hội,
môi trường; bị ảnh hưởng của các vùng khác; dễ bị tổn thương do lao động và con
người di chuyển giữa các vùng (Tạ Đình Thi, 2007, tr.18).
Một cơ cấu lãnh thổ được coi là hợp lý phải đạt được ba nhóm mục tiêu: (1) đạt
được những mục tiêu toàn vùng: phải hoàn thành những nhiệm vụ KTXH, nâng cao
hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác có trong vùng; hoàn
thiện CCKT của vùng để phát triển tối ưu kinh tế của vùng; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật
và các điều kiện KTXH khác nhằm phát triển nhanh chóng kinh tế, nâng cao đời sống
của nhân dân, bảo vệ môi trường; (2) đạt được những mục tiêu của ngành: hoàn thành
nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm chủ yếu, đáp ứng nhu cầu của toàn bộ nền KTQD;
giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất, phối hợp hài hòa với các bộ phận khác trong
và ngoài ngành nằm ở các vùng khác; (3) đạt được những mục tiêu của nền kinh tế cả
nước, thể hiện đúng chiến lược phát triển quốc gia (Tạ Đình Thi, trích dẫn trong Bộ
Khoa học Công nghệ và Môi trường, Nghiên cứu xác định CCKT lãnh thổ theo hướng
phát triển có trọng điểm, Chương trình khoa học cấp nhà nước, 1995).

Cơ cấu theo ngành kinh tế và cơ cấu theo vùng lãnh thổ thực chất là hai mặt
của một thể thống nhất trong vùng lãnh thổ và đều là biểu hiện của sự phân công lao


24
động xã hội. CCKT theo vùng hình thành gắn liền với cơ cấu theo ngành kinh tế và
thống nhất trong vùng lãnh thổ. Xu hướng phát triển của cơ cấu lãnh thổ thường là
phát triển nhiều mặt tổng hợp có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với sự hình thành
và phân bố dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh
thổ (Ngô Đình Giao, 1994).
Khi nghiên cứu cơ cấu vùng lãnh thổ, cần chú ý đến các loại vùng lãnh thổ
khác nhau. Nếu lãnh thổ hàm ý chỉ một quốc gia, có chủ quyền, mang tính độc lập, tự
chủ về chính trị, do đó chi phối quá trình hình thành và chuyển dịch CCKT thì vùng
lãnh thổ có tính chất hẹp hơn. Vùng lãnh thổ là một bộ phận của quốc gia, được phân
chia hoặc được hình thành trên cơ sở những yếu tố tự nhiên, xã hội, lịch sử và truyền
thống đặc thù. Chẳng hạn vùng lãnh thổ được hình thành theo đặc điểm điều kiện tự
nhiên; theo địa giới hành chính; theo yếu tố khí hậu, thời tiết. Trong thực tiễn cũng như
lý luận, có hai vùng lãnh thổ cần đặc biệt chú ý khi nghiên cứu trên giác độ CCKT, đó
là: vùng lãnh thổ hình thành theo đặc điểm tự nhiên và vùng lãnh thổ hành chính.
Như vậy, mỗi một loại CCKT chứa đựng thông tin phản ánh những nét đặc
trưng của các bộ phận cấu thành tổng thể và cách mà chúng quan hệ với nhau trong
quá trình phát triển kinh tế. Trên thực tế có thể còn nhiều loại CCKT khác mà cách
phân loại phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Như đã giới hạn trong phạm vi nghiên
cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu ba bộ phận cơ bản hợp thành CCKT là cơ cấu
theo nhóm ngành kinh tế, cơ cấu theo vùng lãnh thổ và cơ cấu theo TPKT. Ba bộ
phận này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, cơ cấu theo ngành (hoặc nhóm
ngành) kinh tế có vai trò quyết định, vì nó được phát triển theo quan hệ cung cầu trên
thị trường, nó bảo đảm sản xuất theo nhu cầu thị trường. Còn cơ cấu theo TPKT là
những lực lượng kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu theo ngành (hoặc nhóm
ngành) kinh tế. Theo định hướng của cơ cấu theo ngành (hoặc nhóm ngành) kinh tế,

các TPKT tổ chức thực hiện trên cơ sở khả năng về thế mạnh của mỗi thành phần.

1.1.3.2. Các loại cơ cấu kinh tế theo chỉ tiêu làm cơ sở tính toán
a. Cơ cấu kinh tế theo các chỉ tiêu đầu vào
- Xét theo vốn đầu tư
Cơ cấu đầu tư là một phạm trù phản ánh mối quan hệ về chất lượng và số
lượng giữa các yếu tố cấu thành bên trong của hoạt động đầu tư cũng như giữa các


25
yếu tố đó với tổng thể các mối quan hệ hoạt động kinh kế khác trong quá trình tái
sản xuất xã hội (Lê Huy Đức, 1996).
Trong hoạt động đầu tư, cơ cấu đầu tư thường được đề cập nhiều tới khía
cạnh nguồn vốn, nghĩa là VĐT được hình thành từ những nguồn nào, tính chất của
chúng ra sao. Ngoài khía cạnh xem xét cơ cấu nguồn hình thành, thì việc xem xét,
phân tích cơ cấu thực hiện vốn là hết sức quan trọng vì nó chỉ rõ VĐT được phân bổ
vào đâu, được sử dụng như thế nào.
Tùy từng góc độ tiếp cận, chúng ta có thể phân loại VĐT theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Trên góc độ là một tiêu thức đánh giá CCKT và chuyển dịch CCKT của
nền KTQD, VĐT thường được phân tổ theo ngành (hoặc nhóm ngành) kinh tế, TPKT
và vùng lãnh thổ.
- Xét theo lao động
CCLĐ được hiểu là tổng thể các mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận lao
động trong tổng nguồn lao động và được biểu hiện thông qua những tỷ lệ nhất định.
Về thực chất, CCLĐ là một đại lượng kinh tế phản ánh số lượng các bộ phận hợp
thành nguồn lao động và mối quan hệ tương tác về tỷ lệ giữa các bộ phận ấy trong
tổng nguồn lao động.
CCLĐ theo ngành (hoặc nhóm ngành) kinh tế được các nhà kinh tế học đánh
giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sát thực hơn mức độ
chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng

bởi các nhân tố ngoại lai. Ở một số nền kinh tế, trong khi số lao động phi nông
nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng cơ cấu trong GDP lại chiếm tỷ trọng cao. Lý giải
cho hiện tượng này các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình trạng “méo mó” về giá cả,
nhất là trong trường hợp có sự chênh lệch giá lớn giữa sản phẩm công nghiệp và
dịch vụ so với sản phẩm nông nghiệp. Vì thế cơ cấu GDP giữa các ngành (hoặc
nhóm ngành) kinh tế đôi khi không phản ánh đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu
của nền kinh tế (Bùi Tất Thắng, 2006).
Để có thể rút ra những kết luận về quy mô, cơ cấu của từng bộ phận cấu thành
tổng thể, xu hướng vận động (tăng hay giảm), tốc độ chuyển dịch (nhanh hay chậm)
và tính quy luật của nó. Đòi hỏi nghiên cứu về CCLĐ và chuyển dịch CCLĐ cần phải
được xem xét trên những góc độ khác nhau. Trong thực tế, tổng số lao động thường
được phân tổ theo các tiêu thức như: ngành (hoặc nhóm ngành) kinh tế, TPKT, trình


×