Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác nghệ thuật trào phúng trong hạnh phúc một tang gia trích tiểu thuyết số đỏ vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.36 KB, 17 trang )

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC NGHỆ THUẬT
TRÀO PHÚNG TRONG “HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA”
TRÍCH TIỂU THUYẾT “SỐ ĐỎ” – VŨ TRỌNG PHỤNG
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã
được đề cập và bàn luận rất sôi nổi từ nhiều thập kỷ qua. Các nhà nghiên cứu
phương pháp dạy học đã không ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới
của lý luận phương pháp dạy học hiện đại, đưa nền văn học của nước nhà ngày
càng hiện đại, tích cực hơn, đáp ứng được nhu cầu học tập. Định hướng đổi mới
phương pháp dạy học đã thống nhất theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động của học
sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Bên cạnh việc phát huy tính chủ
động, tích cực của học sinh thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy của giáo viên hết
sức quan trọng. Phương pháp dạy, tổ chức, định hướng trong bài dạy của giáo viên
đối với học sinh được ví như người cầm lái con tàu. Con tàu đó có đi đúng hướng
hay không, học sinh có tiếp thu được bài học theo hướng tích cực hay không, điều
đó phụ thuộc vào phương pháp, cách tổ chức khai khác bài học của giáo viên.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy,
giúp cho học sinh tiếp cận được giá trị của tác phẩm văn chương, đem lại kết quả
cao hơn trong học tập của các em, tôi đã lựa chọn đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu, tác phẩm văn
học phản ánh đời sống khách quan thông qua hình tượng nghệ thuật, qua đó nhà
văn gửi gắm quan điểm, tư tưởng, thái độ của mình trước cuộc sống. Tác phẩm văn
học giúp con người có những nhận thức sâu sắc về đời sống. Việc đọc hiểu tác
phẩm văn học sẽ giúp học sinh có cách nhìn về đời sống và về bản thân mình.
Việc đưa thể loại tiểu thuyết vào chương trình là nhằm tạo cho học sinh có
điều kiện tiếp xúc với đủ các loại hình văn học: Tự sự, Trữ tình và Kịch. Song ở
loại hình Tự sự thì thể loại Tiểu thuyết lại có những đặc trưng riêng biệt. Tiểu
thuyết là hình thức tự sự có dung lượng lớn, phổ biến thời cận đại và hiện đại. Tiểu
thuyết có thể chứa đựng lịch sử nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo


đức, xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách
đa đạng trong một không gian, thời gian rộng lớn.
Dạy tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết Trào phúng không đơn thuần là dạy
những sự kiện, tình tiết hay tính cách nhân vật diễn ra trong tác phẩm mà phải thể
hiện được đặc trưng của bút pháp Trào phúng trong tác phẩm. đây là điều không dễ
cho cả người dạy và người tiếp nhận. Vì vậy cần vận dụng linh hoạt các phương
pháp để khai thác chất trào phúng trong tác phẩm.
1


II. Cơ sở thực tiễn.
Trong những năm gần đây, các giáo viên trong tổ Ngữ văn của trường luôn
có ý thức đổi mới phương pháp nhằm khai thác những giá trị của tác phẩm văn học,
song việc đổi mới còn chưa đồng bộ. Đối với thể loại Tiểu thuyết trào phúng thì
các giáo viên đều xác định dạy cho ra nghệ thuật trào phúng là khó dạy. Bản thân
tôi trong thực tế giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp đều nhận thấy cách giáo viên
hướng dẫn học sinh đọc – hiểu đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” trích “Số
đỏ” – Vũ Trọng Phụng đều gặp những khó khăn trong việc tìm cách khai thác chất
trào phúng trong đoạn trích, một số tiết học có xu hướng hướng dẫn học sinh tiếp
cận theo kiểu “xã hội học” làm mất đi tính chất nghệ thuật của một kiệt tác trong sự
nghiệp Vũ Trọng Phụng và của văn học Việt Nam hiện đại, và đặc biệt là tính chất
trào phúng trong bộ tiểu thuyết này. Tổ văn cũng đã tiến hành họp nhóm và dạy thể
nghiệm một số tiết song kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Đó là lí do tác giả
đi vào tìm hiểu Phương pháp khai thác nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia” trích tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Giới thuyết về nghệ thuật trào phúng:
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng
tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các
yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước...được

sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng...những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi
thời, độc ác trong xã hội. Như vậy có thể thấy Trào phúng là nghệ thuật gây ra
tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.
Với đặc điểm là loại tiểu thuyết hoạt kê, “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng đã miêu
tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con người hài hước, giễu cợt. Không chỉ
một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ đáng cười, mà hầu như tất cả các
nhân vật, các tình huống, các chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán. Vũ
Trọng Phụng dùng tiếng cười như một thứ vũ khí sắc bén để đả kích xã hội thực
dân tư sản thành thị - xã hội “chó đểu” với nhiều dạng “quái thai” bịp bợm. Bằng
các thủ pháp phóng đại, khoa trương dưới nhiều biểu hiện, tác giả đã dựng lên cho
người đọc thấy một lũ người háo danh, vô đạo và bỉ ổi trong cái gia đình danh giá
ấy. Chương XV của tiểu thuyết với nhan đề: “Hạnh phúc của một tang gia – Văn
Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu” đã miêu tả một đám tang cụ cố
tổ, giống như một đám rước, một đám hội, một cuộc tiễn đưa tập thể, cuộc hành
trình tới mộ của cả một xã hội – cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh
rởm hết sức lố lăng và đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của
Thế kỉ XX. Mỗi một tình huống, mỗi một nhân vật, mỗi một lời nói, hành động cứ
tự nhiên bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc thái, cung bậc, liên tục không

2


dứt. Nó kéo dài trong suốt cuộc đưa tiễn. Để đạt được hiệu quả của tiếng cười phê
phán, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng một số các thủ pháp nghệ thuật trào phúng.
2. Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng.
a. Tình huống trào phúng
Tình huống truyện là hoàn cảnh chứa đựng xung đột được nhà văn tạo lập để
triển khai cốt truyện. Xung đột đó có thể là một biến cố có tác động lớn đến cuộc
đời, số phận, tính cách nhân vật qua đó góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của
tác phẩm.Tình huống trong “Hạnh phúc của một tang gia” là tình huống trào

phúng, nó bắt đầu từ việc Cụ Tổ họ Hồng – một người cha, một người ông của cái
gia đình đông đảo, “danh giá” và “đáng kính” của xã hội thượng lưu đã ngoài 80
tuổi đã để lại cho đám con cháu một tờ di chúc với một khối tài sản kếch sù chia
cho đám con cháu, nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: Chỉ chia gia tài
cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột khi mà cụ cứ sống mãi. Đám con
cháu hám danh, hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông cụ này sớm chết. Chúng chờ
đợi cái chết của cụ như chờ đợi một niềm hạnh phúc. Và hạnh phúc đã đến khi
Xuân Tóc Đỏ - trong một lần nổi giận vì tự ái đã om sòm tố cáo trước mặt mọi
người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là một người
“chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó thực ra do ông Phán thuê Xuân với giá 10 đồng
- đã trực tiếp gây ra cái chết thật cho cụ Tổ và có cái đám tang kì lạ này.
Ở đời, có mấy ai “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con
người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung, huống hồ chi đó lại là
cái chết của người thân, là sự ra đi của đấng sinh thành, thế thì làm sao có thể lấy
làm hạnh phúc được? Thế mà kì lạ và mỉa mai, chua chát thay, có một đám tang
của một gia đình đại danh giá trong tiểu thuyết “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng lại vô
cùng “hạnh phúc”, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “tựu chung tang gia ai
cũng vui vẻ cả”.
Mọi việc bắt đầu từ cái chết của cụ Tổ, cái chết của cụ già đáng phải chết từ lâu
ấy đã làm cho nhiều người trong gia đình ấy nhao lên mỗi người theo một cách. Họ
nhao lên vì đau đớn, vì lo lắng, vì bối rối trước cái chết của người thân chăng?
Không phải, chúng đã nhao lên vì....hạnh phúc. “Cái chết kia đã làm cho nhiều
người sung sướng lắm”. Và để chứng tỏ lòng hiếu thảo của mình, đám con cháu ấy
đã tổ chức một đám tang thật to, thật long trọng, thật hoành tráng với đầy đủ các
kiểu cách, nghi lễ theo cả lối Ta, Tây, Tàu – một đám ma thật sự gương mẫu, “có
thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu
không thì cũng gật gù cái đầu”. Bằng giọng văn tưng tửng, bỡn cợt, hóm hỉnh. Tác
giả mấy lần miêu tả điệp khúc: “Đám cứ đi!...”, “Đám cứ đi!...” như muốn nói:
Đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng. Đám ma đi đến
đâu huyên náo đến đấy, cả thành phố nhốn nháo hẳn lên. Đủ các loại kèn (kèn ta,

kèn tây, kèn tàu, bu zích, lốc bốc xoảng) thi nhau mà rộ lên. Tiếng khóc của những
3


người đi đưa tang xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, mua sắm, tiếng
thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo
chồng gầy. Người đọc thấy khung cảnh pha tạp, hỗn độn âm thanh, màu sắc, con
người. Việc vĩnh biệt một con người mà như chuyện mà như chuyện đùa vui, đám
tang hay đám rước, đám hội mà vui như ở hội chợ thế kia. Và đến lúc đám không ...
“cứ đi” nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Đến đây màn kịch được đẩy lên đến đỉnh
điểm của sự giả tạo. Vũ Trọng Phụng đã dựng lên hai chi tiết đặc sắc: Một là cậu
Tú Tân bắt mọi người phải cúi đầu, khom lưng để cậu chụp ảnh, hai là ông Phán
mọc sừng khóc tưởng chừng như ngất đi thì lúc ông oặt người để khóc là lúc ông
giúi vào tay Xuân năm đồng để thanh toán món nợ. Chúng nó thật là những kịch sĩ
thượng hạng của tấn trò đời. Cuối chương truyện người đọc còn được nghe trong
đám tang ấy một tiếng khóc vang lên của ông Phán: Hứt ! Hứt ! Hứt ! cái âm thanh
ấy nó mới phức điệu và đa nghĩa làm sao? Hứt! Hứt! Hứt! hay là hay là lấp! lấp!
lấp! hoặc vứt! vứt! vứt! nhanh cái xác cụ già đáng phải chết ấy. Đúng là một cái xã
hội “chó đểu”.
b. Nhân vật trào phúng
Như trên đã nói, mọi việc bắt đầu từ cái chết của cụ tổ của cái gia đình danh giá
đáng phải chết từ lâu ấy đi. Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có
việc tang, khi ba người quan trọng nhất: Vợ chồng cụ Cố Hồng, ông Văn Minh từ
trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang ấy bừng lên
một ngày hội. vì “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, lũ con
cháu ấy mỗi người “sướng” lên một kiểu theo cái cách của riêng mình. Đặc biệt là
đám tang ấy cũng còn làm cho nhiều người – thiên hạ được hưởng lây những niềm
“hạnh phúc”.
Niềm hạnh phúc của đám con cháu:
- Cụ cố Hồng: Vì là cụ cố nên đóng vai già yếu, tuy mới ngoài 50 tuổi nhưng cứ

thích được gọi là cụ, Lâu nay cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám
tang nên cụ được diễn trò già yếu trước bàn dân thiên hạ, vì thế khi bố chết, cụ đã
sung sướng nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống
gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải bình phẩm, phải khen ngợi: Úi
chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già thế kia kìa! Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai
cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”. Đúng là một
lão già háo danh vô kể.
- Văn Minh chồng, người cháu đích tôn “chí hiếu” của người chết thì sung
sướng tột đỉnh, bởi vì với cái chết của ông nội thì có nghĩa cái tờ di chúc kia từ nay
không còn là lý thuyết viễn vông nữa mà đã đi vào thời kì thực hành và hắn chỉ
nóng lòng mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội, nghĩa là cái ao ước ông
nội chết đi để được chia của đã trở thành sự thực.
- Văn Minh vợ lại sung sướng theo đúng cái cách của một phụ nữ tân thời, bà ta
nhận ra từ cái chết của ông nội chồng là một dịp may hiếm có để có thể mặc bộ
4


tang phục tân thời, đồ xô gai tân thời của tiệm may Âu hoá “để có thể ban cho
những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở
đời”
- Ông Phán mọc sừng - Đứa cháu rể quý hoá của người chết vô cùng hả hê sung
sướng vì đã được bố vợ hứa chia thêm cho vài nghìn đồng vì đã có công giết chết
cụ tổ, chính hắn cũng không ngờ đôi sừng hươu vô hình trên đầu mình lại có giá trị
đến thế và hắn lấy đó làm điều hãnh diện. Sự bỉ ổi và vô liêm sỉ nhất ở ông Phán
khi ở cuối chương truyện ông khóc tưởng chừng đến ngất đi, giữa lúc ông oằn
người khóc lóc là lúc ông giúi vào tay Xuân Tóc đỏ món tiền năm đồng để thanh
toán sòng phẳng cho nó vì đã có công gọi ông ta là người chồng mọc sừng. Ông
thật là một kịch sĩ thượng hạng.
- Cô Tuyết: Một cô gái hư hỏng nhưng tự hào chỉ “hư hỏng một nửa”, “chưa
đánh mất cả chữ trinh”. Trong đám tang ông nội, Tuyết mặc bộ y phục ngây thơ

nửa kín nửa hở, cô đội cái mũ mấn xinh xinh…Tuyết đi lại mời các quan khách rất
nhanh nhẹn với nét mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt của nhà có đám tang nhưng
không phải cô buồn vì cái chết của ông nội mà buồn vì nhớ nhân tình.
- Cậu Tú Tân: Không háo danh, hám lợi như cha và anh của mình, Tú Tân có
niềm vui riêng, cái chết của ông nội là dịp may hiếm có để cậu có dịp sử dụng và
trổ tài chụp ảnh, vì thế mà cậu đã sướng điên cả người vì sự kiện này. Bất nhân, vô
đạo một cách vô tình khi mà trước lúc hạ huyệt cho cụ tổ, Tú Tân đã bắt mọi người
phải đóng một vở kịch ngay trong đám tang: Đó là hắn bắt mọi người phải cong
lưng, phải chống gậy, gục đầu, lau nước mắt….. để cho hắn chụp ảnh. Chất bi hài
của truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm khi mà trong giờ phút ấy và cả đám tang
bỗng bật lên tiếng khóc của đứa cháu rể quý hóa – Phán mọc sừng, ông khóc “Hứt!
hứt! hứt!”, cái âm thanh tiếng khóc kì lạ làm sao! tiếng khóc ấy của ông thương cho
người đã khuất chăng? Không phải ông đang đóng kịch trước thiên hạ, và tác giả đã
lật tẩy bộ mặt của hắn khi phát hiện ra, lúc Phán khóc đến oặt người đi là lúc ông
dúi nhanh vào tay Xuân tóc đỏ tờ 5 đồng để trả công hắn đã gọi ông là người chồng
mọc sừng. Đến đây thì sự bất hiếu đã được tác giả đẩy lên đến đỉnh điểm của sự giả
tạo.
Tâm địa của cái lũ người kia tưởng đến thế là ghê tởm. Nhưng chưa hết, tác giả
còn đẩy mâu thuẫn lên một mức nữa khi mà bọn con cháu bất hiếu, bất nhân nhất
trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ hiếu thảo nhất trần đời nữa kia thế là
chúng tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo với người đã chết.
Niềm hạnh phúc của những người đi đưa tang:
- Đám tang ấy không chỉ làm đại gia đình danh giá ấy sung sướng, hạnh phúc
mà nó còn lan ra cả ngoài xã hội. Bắt đầu là đại diện bộ máy nhà nước, hai cảnh sát
Min Đơ, Min Toa vô cùng hí hửng khi được chủ nhà thuê giữ trật tự. Lí do của sự
mừng rỡ ấy là họ đang không có việc gì làm và họ “đang buồn rầu như nhà buôn
5


sắp vỡ nợ”. Tiếp đến sự xuất hiện rất đúng lúc của hai tên đại bịp Xuân Tóc Đỏ và

sư cụ Tăng Phú khiến người ta cảm động hết mức. Vì với sáu chiếc xe kéo và
những vòng hoa đồ sộ , hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát, đến
bà cụ cố Hồng – người lương thiện nhất trong gia đình đại bịp ấy cũng cảm động
mà thốt lên: “Giá không có những thứ ấy thì đám tang kém phần to tát”
- Đám “tai to mặt lớn” - Bạn cụ Cố Hồng. Có thể nói sự có mặt của đám này đã
làm cho đám tang thêm phần đông đúc và long trọng. Trong “niềm đau” vô hạn
của khổ chủ, các vị tai to mặt lớn, lớp “tinh hoa” của giới thượng lưa xã hội, mặt
mũi long trọng đến đưa tang nhưng trên ngực đeo đầy đủ các loại huy chương, mề
đay: Vạn tượng bội tinh, Cao Miên bội tinh, Bắc đẩu bội tinh…và khoe các loại
dâu ria “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm
rậm, loăn quăn…” tân thời nhất. Họ đi bên linh cữu người chết với một vẻ mặt cảm
động, song sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người đã khuất, cũng
không phải vì tiếng kèn Xuân nữ bi ai não ruột, mà cảm động vì …được ngắm
không mất tiền làn da trắng đang thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết. Các vị
đến để khoe tài, khoe đức, khoe sự giàu sang nhưng Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy cái
sự dâm ô của các vị.
- Đám giai thanh gái lịch: Họ đến đưa tang với một vẻ mặt nghiêm cẩn, nhưng
xen vào đó là những lời chê bai nhau, hẹn hò nhau, bình phẩm nhau, chim nhau,
cười tình với nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám. Chúng nó thật là
những kẻ bỉ ổi mang bộ mặt đạo đức giả của cái được gọi là văn minh, gương mẫu,
tân thời.
-Nỗi vui sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ di, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút
Vũ Trọng Phụng như có sức lây lan rất rộng: Từ người bề trên đến người bề dưới,
từ người trong tang gia đến ngoài tang gia, từ khổ chủ đến khách khứa đi đưa đám,
từ người sống đến người chết. Nó được duy trì theo diễn biến của đám tang, từ lúc
phát phục đến khi cất đám, đưa đám và cả đến khi hạ huyệt. Xem thế để thấy niềm
hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật vô bờ bến và mang niềm sung sướng đến
tất thảy mọi người.
c. Ngôn ngữ trào phúng
Về mặt ngôn từ:

Với đặc trưng của loại tiểu thuyết trào phúng, tác giả đã sử dụng một tần số
lớn các lớp ngôn từ mang tính gây cười nhằm phê phán, đả kích. Trong chương
truyện, những lời đối thoại rất ít, chủ yếu là lời trần thuật của người kể chuyện với
sự vận dụng các thủ pháp cường điệu, nói ngược, mỉa mai…sử dụng đan xen, linh
hoạt, song tính chất khách quan chân thực vẫn hiện lên rất rõ nét. Ngay từ đầu tên
chương truyện nhà văn thông báo: “Hạnh phúc một tang gia – Văn Minh nữa cũng
nói vào – Một đám ma gương mẫu” thì chúng ta không khỏi bật cười về cách thông
báo hóm hỉnh của nhà văn. Ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình
danh giá như gia đình cụ Cố lại hỗn độn pha trộn tùy tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào
6


tang gia, nào văn minh, nào gương mẫu. Cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy. Hay
như mở đầu đoạn trích, tác giả thông báo một tin: “Ba hôm sau, ông cụ già chết
thật”, sao lại có “chết thật” và “chết giả” ở đây, hẳn nhìn từ phía đám con cháu, nó
ẩn chứa một tiếng gieo mừng. Cụ Tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám
con cháu kia hụt hẫng, thất vọng và cả đại gia đình danh giá ấy đã chờ đợi cái “chết
thật” này quá lâu rồi, nên khi ông cụ chết thật thì người ta vui sướng và hạnh phúc
tột cùng. Vậy nên tang gia ai cũng “hạnh phúc”, “vui vẻ” cả. Tất cả điều ấy được
nhà văn diễn tả cụ thể và sinh động. Ông lật tẩy bản tính háo danh của cụ Cố bằng
ngôn từ mỉa mai chua chát, khi cha chết đang nằm đó thì cụ “mơ màng nghĩ đến lúc
được mặc đồ xô gai, ho khạc, khóc mếu để… cho thiên hạ bình phẩm”, cụ nói 1872
câu “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” một cách vô nghĩa trong khi cụ chẳng biết cái quái
gì. Đám con cháu được miêu tả thật hài hước: Ông Văn Minh thì “vui mừng”, bà
Văn Minh thì “sốt ruột”, cậu Tú Tân thì “điên người”, cô Tuyết “sung sướng”, ông
Tuypn thì “bực mình”…người ta sốt ruột vì cái xác ấy sao không mau chóng đem
chôn để con cháu được hưởng niềm hạnh phúc. Xen lẫn tiếng khóc là tiếng “thì
thầm” chuyện vợ con, nhà cửa, may áo…, tiếng “thì thào” của bọn đàn ông bình
phẩm sắc đẹp của các cô gái, tiếng “than thở” về vợ béo, chồng gầy….của những
người đi đưa tang. Việc vĩnh biệt một con người mà hỗn độn chẳng khác một đám

hội chợ, đám rước, bởi như tác giả kể: “đám cứ đi”… rồi lại “đám cứ đi”…. Lời
văn hóm hỉnh, bỡn cợt, tưng tửng mà chua chát.
Kiểu dùng từ ngược nghĩa
Một điều dễ nhận thấy trong đoạn trích là tác giả trần thuật những câu văn, lời
bình, lời nhận xét ngược nghĩa, kết hợp ngôn từ trái ngược nhau trong một câu văn
để làm bật sự vô nghĩa lí của cuộc đời kiểu như: “Hạnh phúc một tang gia”, “cái
chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, “tang gia ai cũng vui vẻ cả”,
hay đoạn nói về thuốc thánh đền bia “công hiệu đến nỗi họ mất mạng”, hoặc “đám
ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung
sướng, nếu không cũng phải gật gù cái đầu”…được sử dụng dày đặc trong đoạn
trích. Cách trần thuật này làm chúng ta thấy thực giả lẫn lộn, danh hão và lòng hiếu
thảo xen lẫn nhau. Có khi tác giả lại mỉa mai bằng cách nói ngược, ví như sau khi
ghi lại hàng loạt câu nói trơ trẽn, nhảm nhí của đám giai thanh gái lịch, tác giả viết
“và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi
đưa đám”. Những câu nói ấy là hư cấu ư? Nhưng ở đây nó hợp lí và hình như đều
có thật cả. Đằng sau những câu nói như vô lí kia lại là sự thật của đời sống: Sự tàn
nhẫn và dối trá.
Có thể nói đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” là một chuỗi cười dài, liên tục,
không ngớt từ lúc cụ Tổ trút hơi thở cuối cùng cho đến khi cụ vùi sâu ba tấc đất.
Thời gian không dài song Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và diễn tả thật tài tình
những cái bất thường, kì dị chứa đựng những mâu thuẫn trào phúng rồi phóng đại
nó lên qua đó ông lật tẩy tính chất bịp bợm của tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức
7


trong xã hội thực dân tư sản thành thị được thu hẹp trong gia đình cụ Cố, tất cả tính
chất giả tạo của nó được trình diễn trong một cuộc diễn trò: Một cuộc báo hiếu linh
đình nhất của một gia đình đại bất hiếu.
3. Phương pháp thực hiện bài dạy cụ thể.
a. Cách giới thiệu bài mới cần hấp dẫn.

Đây là hoạt động đầu tiên của bài học, việc vào bài hấp dẫn sẽ tạo được tâm
thế và hứng thú trong giờ học cho học sinh, tránh vào bài một cách đơn điệu nhàm
chán. Giáo viên có thể vào bài bằng nhiều cách khác nhau như kể một mẫu chuyện,
đưa một thông tin hấp dẫn, đặt một số câu hỏi có vấn đề cần giải quyết có liên quan
đến bài học, hoặc có thể dùng một số tranh ảnh liên quan đến các nhân vật trong
đoạn trích. Ở bài này có thể cho học sinh xem một đoạn băng trích từ trong phim
đoạn nói về cái chết của cụ Tổ họ Hồng và dẫn dắt cái chết này sẽ là khởi nguồn
cho mọi sự việc, tình tiết mà các nhân vật hiện lên cái bản chất lưu manh, đểu giả
và háo danh, hám lợi của mình. Đoạn trích hôm nay tìm hiểu sẽ minh chứng cho
điều ấy.
b. Hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản.
Đây là thao tác cần thiết nhất trong giờ học nhằm hướng dẫn học sinh chiếm
lĩnh tri thức, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Hệ thống câu hỏi này một mặt làm sáng tỏ những gì các em đã chuẩn bị ở nhà , mặt
khác nhằm điều chỉnh những nhận thức chưa đúng hoặc những gì chưa hiểu ở các
em. Do đó câu hỏi phải chính xác, rõ ràng, cô đọng, vừa mang tính chất tái hiện
vừa phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của các em theo cấp độ từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Các dạng câu hỏi nên sử dụng (6 dạng):
- Câu hỏi phát hiện. Dạng câu hỏi này nhằm giúp học sinh phát hiện những
chi tiết, hình ảnh, các sự kiện có tác động đến cảm xúc thẩm mĩ ở các em.
VD: Có thể hỏi: Tình huống gì xảy ra trong đoạn trích ?
Định hướng: Cái chết của cụ cố tổ họ Hồng ở một gia đình danh giá bậc nhất
đất Hà thành. cái cụ già đáng phải chết từ lâu ấy đã làm cho nhiều người sung
sướng, hạnh phúc lắm.
- Câu hỏi giải thích. Câu hỏi này yêu cầu học sinh phải làm sáng tỏ vấn đề
cần quan tâm trong bài giảng, cắt nghĩa từ nữ, hình ảnh, thuật ngữ văn học.
Ví dụ: Em hiểu thế nào là tình huống truyện?. Hoặc em hiểu gì về nhan đề
đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”?
Định hướng: Tang gia thường gắn với đau buồn, thương tiếc. Ở đây tang gia
lại vui vẻ. Nhan đề giật gân, hài hước, trào phúng

- Câu hỏi phân tích. Câu hỏi dạng này nhằm phát huy năng lực cảm thụ văn
học của học sinh, giúp các em khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Khi
giáo viên đặt câu hỏi, học sinh có thể trình bày những hiểu biết của mình về những
vấn đề giáo viên đưa ra để có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc.
8


Ví dụ: Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm hạnh phúc của mọi thành viên
trong đại gia đình cụ? Hãy phân tích tâm trạng hạnh phúc ấy?
Định hướng: Niềm vui lớn nhất cho đại gia đình bất hiếu này là tờ di chúc
của cụ cố tổ thế là đã đến lúc thực hiện:
+ Ông Phán mọc sừng: sung sướng và tự hào về giá trị đôi sừng hươu vô
hình.
+ Cụ cố Hồng: mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai...đê cho thiên hạ phải
ngợi khen. Nhân vật điển hình cho loại người ngu dốt và háo danh.
+ Ông Văn Minh: thích thú vì cái “chúc thư...không còn là lý thuyết viễn
vông nữa” và đăm đăm chiêu chiêu suy nghĩ về ơn và tội của Xuân tóc đỏ.
+ Cậu Tú Tân: điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không
được dùng đến.
+ Bà Văn Minh: sốt cả ruột vì mãi khôgn được mặc đò xô gai tân thời...
+ Ông Typn: bực mình vì mãi không thấy sản phẩm cuả mình ra mắt công
chúng.
+ Cảnh sát sung sướng vì có việc làm.
- Câu hỏi nêu vấn đề. Loại câu hỏi này gây hứng thú nhận thức trong học
sinh, có tác dụng động viên khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề một cách sinh
động và nhằm phát hiện những tình huống có vấn đề, giúp học sinh làm rõ vấn đề
còn tiểm ẩn trong tác phẩm. Khi đưa ra tình huống các em có thể tranh luận nhiều ý
kiến. Các em được phát biểu chính kiến của mình về tác phẩm, từ đó giáo viên nắm
bắt được nhận thức của các em để có định hướng đúng đắn.
Ví dụ: Cách miêu tả chân dung các nhân vật của tác giả có chân thật không?

Có phóng đại không? Em thích chi tiết nào nhất? vì sao?
- Câu hỏi gợi cảm xúc, trí tưởng tượng. Dạng câu hỏi này nhằm gây cảm
xúc, ấn tượng, sự liên tưởng của học sinh khi tìm hiểu chi tiết hoặc tâm trạng các
nhân vật.
Ví dụ: - Việc lặp lại nhiều lần điệp khúc “Đám cứ đi” có ý nghĩa gì?
Hoặc: Cảnh hạ huyệt giống như màn kịch nhỏ, em hãy hình dung về sân khấu và
không khí lúc này? Hay: Trong suốt đoạn trích em thích chi tiết nào nhất? hãy diễn
tả lại bằng lời nói hoặc hành động?
- Câu hỏi bình giá. Là dạng câu hỏi mở rộng nhằm nâng cao năng lực cảm
thụ của học sinh. Có thể bình ở nhiều góc độ khác nhau như bình một chi tiết, một
lời nói, một hành động, một nhân vật hoặc một khía cạnh tác phẩm. Qua những lời
bình giá của học sinh để các em nâng cao năng lực tiếp nhận văn chương
Ví dụ: Em hiểu gì về tiếng khóc của ông Phán mọc sừng “Hứt! hứt! hứt”?
Định hướng: Âm thanh tiếng khóc của ông Phán nó kỳ lạ, phức điệu và đa
nghĩa làm sao, cả đám ma chỉ có 1 tiếng khóc ấy, song nó đểu giả, dối trá và hài
hước. “Hứt! hứt! hứt” hay là “lấp! lấp! lấp!” nhanh cái xác chết ấy đi, “vứt! vứt!
vứt” cái xác chết ấy đi và nhiều từ còn có thể thay thế cho tiếng khóc của ông Phán.
9


Có thể nói hệ thống câu hỏi là một phương tiện quan trọng nhất trong quá
trình đổi mới phương pháp giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, kích thích khả năng
nhận thức, khám phá và sáng tạo và đi đến nâng cao năng lực cảm thụ văn chương
và hình thành kỹ năng đọc văn trong mỗi học sinh.
c. Trích ngang giáo án “Hạnh phúc của một tang gia”- Tiểu thuyết “Số đỏ” của
Vũ Trọng Phụng.
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
I. Tìm hiểu chung. Tiết 1
Tiết 2

- HS tóm tắt đoạn trích SGK

II. Đọc - hiểu chi tiết:
(Cho học sinh tóm tắt đoạn trích. Sau đó xem 3
đến 5 phút clip về đám tang trên phim để học
sinh cảm nhận được giữa đoạn phim vừa xem về
đám tang thật và đám tang trong đoạn trích có
điểm khác biệt cơ bản nào)
- Mâu thuẫn trào phúng là 1.Mâu thuẫn và tình huống trào phúng
gì?mâu thuẫn trong đoạn trích
- Mâu thuẫn trào phúng là tạo nên tiếng cười
là gì?
dựa trên sự đối lập tương phản giữa bên trong và
bên ngoài...
- Trong đoạn trích muâu thuẫn: bản chất của xã
hội tư sản thành thị với hình thức bên ngoài và
biểu hiện của nó
- Thế nào là hình huống trào
- Tình huống trào phúng là biến cố xảy ra nhằm
phúng?
thể hiện chủ đề, tư tưởng tác phẩm nhằm mục
đích đả kích, phê phán.
2. Tình huống truyện:
- Trong đoạn trích có tình a. Tình huống đem lại niềm vui chung:
huống trào phúng gì?thể hiện - Tình huống cái chết của cụ Tổ trong một gia
ở đâu?
đình danh giá bậc nhất Hà thành. Cái chết của cụ
Tổ mang lại niềm sung sướng, hạnh phúc cho tất
cả mọi người trong và ngoài gia đình danh giá
này.

- Hình thức bên ngoài và bên trong mâu thuận
nhau.
+ Bề ngoài: Họ tưng bừng đi đưa giấy cáo phó,
gọi phường kèn, thuê xe đám ma, đi tìm lang
băm đông, lang băm tây, lang tì, lang phế…Đặc
biệt là đốc tờ Xuân.
10


- Chia lớp làm 4 nhóm thao
luận.
- Nhóm 1 thảo luận:
- Cái chết của cụ Tổ mang lại
niềm vui như thế nào cho mọi
người?
+ Chỉ ra và phân tích những
biểu hiện và tâm trạng của
từng thành viên trong gia đình
cụ cố Tổ , khi cụ cố tổ qua đời
+ Cách miêu tả có chân thực
không? có phóng đại không?
Tiếng cười trào phúng bật ra
từ đâu?
+ Em thích nhất chi tiết nào?
vì sao ?
- Đại diện nhóm trình bày vấn
đề.

+ Họ vui mừng vì cái chúc thư đi vào thời kì thực
hành.

- Tình huống đó được thể hiện ở nhan đề của
đoạn trích .
+ Hạnh phúc: niềm vui, sung sướng của con
người khi đạt được mơ ước của mình
+ Tang gia: Gia đình có người chết: đau thương
buồn tiếc nuối…Nhan đề hài hước ngược đời:
Đám tang lại đem lại niềm vui cho mọi người.
b. Niềm vui của từng thành viên trong gia
đình.
* Con trai trưởng (cụ cố Hồng)
- Thản nhiên nằm trên gác hút thuốc phiện và
gắt 1872 “Biết rồi khổ lắm nói mãi”, mơ màng
đến lúc được mặc đồ xô gai, tỏ ra là người có
hiếu, thích được khen: nhớn, già thế kia…
=> kẻ háo danh, khoe khoang, tàn nhẫn, tình phụ
tử chỉ là giả dối.
* Cháu đích tôn (ông Văn Minh):
- Mặt ông băn khoăn đăm chiêu rất "hợp thời
trang", ông đi mời luật sư và lo lắng không biết
đối xử như thế nào với Xuân.
-Mừng vì di chúc sẽ được thực hiện.
* Cháu dâu (bà Văn Minh)
- Sốt ruột vì chưa phát tang.
- Mừng vì được mặc đồ xô gai tân thời….
=> Đám tang ông nội trở thành sân khấu thời
trang.
*Cháu gái nội (Cô Tuyết)
- Buồn đau khổ một cách chính đáng khi "bạn
giai" chưa tới:
- Vui vì có cơ hội tốt để thanh minh với thiên

hạ mình chưa đánh mất cả chữ trinh, được mặc
quần áo ngây thơ, khiêu dâm.
=> Biến đám tang thành buổi dạ hội.
* Cháu nội: cậu (Tú Tân)
- Sướng điên người lên vì có cơ hội khoe tài
chụp ảnh .
=> Bất hiếu vì những sở thích tầm thường, phù
phiếm.
11


*Ông TYPN
- Hồi hộp chờ đợi giây phút sp chế tạo của
mình ra mắt công chúng
* Đứa cháu rể (ông Phán mọc sừng)
-Vui mừng vì cái sừng hươu vô hình trên đầu.
- Vui vì khoản thừa kế được chia, ông ta nghĩ
ngay đến cuộc doanh thương với Xuân.
=> mỗi người có niềm hp riêng nhưng đều có
chung một thái độ:
+ sốt ruột, điên lên, bực mình… háo hức chờ
phát tang như chờ đón lễ hội
+ Hồi hộp chờ chia gia tài kếch xù của người
chết
-> Bọn chúng là một lũ vô nhân đạo, bất hiếu,
háo danh, trái với truyền thống đạo lí .
c. Niềm vui của những thành viên ngoài gia
Nhóm 2 thảo luận:
- Niềm vui của những người đình
ngoài gia đình? Nhận xét về xã * Xuân tóc đỏ

hội tư sản?
- Sung sướng, tự hào, hãnh diện vì "có công lớn"
- Uy tín và danh dự càng to. Cơ hội được trọng
- Đại diện nhóm trình bày vấn vọng, thăng tiến càng lớn. Nhờ có hắn đám tang
đề.
cụ cố Tổ to hơn khi hắn xuất hiện với 6 xe…2
vòng hoa.
* Hai cảnh sát: Min đơ- Min Toa
- Vinh dự, vui cực điểm vì: chấm dứt tháng
ngày thất nghiệp nên trông nom rất nhiệt tình.
* Bạn bè cụ cố Hồng
- Khoe khoang huân chương…, Khoe râu…
ngắm vẻ đẹp của Tuyết với bộ mặt xúc động
=> Lũ người đểu giả
* Đám trai thanh gái lịch của Hà thành
- Tưng bừng thăm hỏi
- Có cơ hội gặp gỡ hẹn hò, chim chuột nhau,
bình phẩm, chê bai nhau, cười tình với nhau…
=> Đám tang trở thành đám rước, lễ hội…Mọi
vui buồn đều không liên quan đến đám tang,
nhưng họ che đậy bằng bộ mặt buồn rầu giả tạo.
Người đi đưa đám là những người thanh lịch,
giàu sang nhưng chỉ chiếu lệ ( thực chất dâm
đãng, thì thầm trêu cợt, dung tục …)
12


* Người dân thành phố hiếu kì đứng dọc hai bên
đường để xem đám tang, khen ngợi một đám
tang to. Sự suy đồi đạo đức của cả một xã hội.

=> bằng bút pháp trào phúng hiện thực tác giả
vạch trần bộ mặt giả rối, rởm đời, chó đểu của xã
hội đương thời.- xã hội suy đồi đạo đức.
Nhóm 3 thảo luận
- Đám tang diễn ra như thế đ. Cảnh đám ma gương mẫu
nào?(Nghi thức, quang cảnh, - Nghi thức: Ta, Tàu, Tây. Hàng trăm câu đối,
không khí)
vòng hoa, lợn quay đi lọng, kiệu bát cống, vài
trăm người đi đưa, ảnh chụp như hội chợ, quần
áo như buổi dạ hội…
=> Quá đầy đủ, long trọng nhưng hổ đốn, bát
nháo cốt để khoe sang, giàu một cách lố bịch và
hợm hĩnh (Thật là một đám ma to tát khiến người
chết cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không
gật gù cái đầu)
- Không khí:
+ Sôi nổi hỗn loạn
+ Vui vẻ, đông đúc, nhộn nhịp. Đám đi tới đâu
- Nhận xét về điệp ngữ “Đám huyên náo tới đó => như một lễ hội
cứ đi”?
* Đám cứ đi: lặp lại và ngắt xuống dòng
- Diễn tả tốc độ chậm chạp đến dềnh dàng của
đám tang chủ yếu để cố ý khoe sang, giàu của
gia đình cụ cố Hồng. Tác giả không muốn người
- Thái độ của tác giả trước đọc nhầm lẫn đám tang thanh đám hội.
thực trạng ấy?
=> tác giả xót xa tố cáo sự vô đạo đức của mọi
- Đại diện nhóm trình bày vấn người trong gia đình cụ cố Hồng, xã hội đương
đề.
thời.

Nhóm 4 thảo luận:
- Cảnh hạ huyệt được tác giả e. Cảnh hạ huyệt
miêu tả như thế nào? chi tiết - Là màn hài kịch nhỏ:
nào đáng chú ý nhất?
+ Cậu Tú Tân lăng xăng chụp ảnh, bắt bẻ mọi
người tạo dáng, giả đau khổ để chụp.
+ Xuân trang nghiêm một cách giả vờ.
+ Cụ cố Hồng: ho, khạc, mếu máo, ngất đi
+ Đáng chú ý Ông Phán mọc sừng khóc to " hứt
hứt hứt", mãi ko thôi. Ông không đủ sức mang
tình thương nhưng vẫn đủ sức rúi vào tay Xuân
tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư.
13


>> Chi tiết đó lột trần vỏ bọc giả tạo, chẳng qua
để che giấu một hành động thanh toán với Xuân
và thiết lập một quan hệ mới.
- Bức tranh đậm nét và là đỉnh cao của sự tha hóa
xuống cấp đạo đức của gia đình thượng tư sản
trong xã hội cũ.
HS khái quát lại nét đặc sắc về
nội dung và nghệ thuật đoạn III. Tổng kết.
trích.
- Nội dung.
- Nghệ thuật.
d. Sử dụng phương tiện dạy học.
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển và việc đổi mới phương pháp
dạy học cần áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học là hướng đi đúng đắn nhằm
mang lại hiệu quả và hứng thú trong giờ học. Ở bài này giáo viên cần áp dụng máy

chiếu nhằm tránh sự nhàm chán trong giờ dạy, ở đây giáo viên dùng sơ đồ hóa để
tóm tắt tiểu thuyết Số đỏ, dùng tư liệu phim để trình chiếu một số trích đoạn ngắn
như: Lúc cụ Cố tổ hấp hối, cảnh đám ma gương mẫu hoặc cảnh hạ huyệt. Khi phân
tích các nhân vật cần trình chiếu ảnh chân dung (cắt từ phim) về các nhân vật.
Song để tránh tình trạng “chiếu – xem ” thì giáo viên cũng cần kết hợp với
việc ghi bảng, trong khi trình chiếu cần dành thời gian nhất định cho học sinh quan
sát và suy ngẫm.
Có thể nói việc sử dụng công nghệ thông tin và đồ dùng dạy học trong mỗi
tiết học là cách thức góp phần làm tăng hiệu quả giờ dạy. Đây là một việc rất cần
thiết để tiết học còn thêm phần sinh động.
4. Kết quả thực nghiệm
Qua việc thực hiện phương pháp dạy học đoạn trích “Hạnh phúc một tang
gia” theo đặc trưng thể loại tiểu thuyết trào phúng bằng việc khai thác theo hướng
từ những yếu tố nghệ thuật trào phúng trong việc kết hợp với việc sử dụng các
phương tiện dạy học tôi nhận thấy tiết học sôi nổi hơn, mỗi em học sinh hứng thú
hơn trong việc xây dựng bài mới và đặc biệt hơn nữa các em được quyền sáng tạo
trong tiếp nhận tác phẩm. Đặc biệt hơn khi dạy đoạn trích “Hạnh phúc của một
tang gia” trích Tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng ở hai lớp 11E và lớp 11N
(học lực của 2 lớp tương đương nhau) đã đem lại kết quả khác nhau.
- Cụ thể: Lớp 11E tôi vận dụng phương pháp theo đề tài này, còn lớp 11N thì
thực hiện theo cách dạy cũ.
Học sinh nắm được mức độ kiến thức ngay sau tiết dạy
Lớp
Tốt- Khá
Trung bình
Dưới trung bình
11E/45 HS
65%
25%
10%

11N/45 HS
35%
50%
15%
14


- Sau 2 tuần làm bài kiểm tra định kì. Đề bài dành cho hai lớp: Phân tích nghệ thuật
trào phúng và chân dung biếm họa của các nhân vật trong đoạn trích.
Kết quả như sau:
Lớp

Điểm 3-4

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

11E/45 HS

5 (11%)

13 (29%)

25 (55%)

2 (5%)


11N/45 HS

12 (26,6%)

25 (55,5%)

8 (17,7%)

0%

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Có thể nói, dạy học theo đặc trưng thể loại trong môn Ngữ văn là một vấn đề
cần có sự bàn luận thấu đáo từ nhiều phía, từ các nhà nghiên cứu phương pháp dạy
học, từ các nhà giáo tâm huyết để rút ra phương pháp luận dạy học cho từng thể
loại. Qua đề tài của tôi là muốn góp một tiếng nói vào phương pháp dạy học văn,
có thể nó chỉ phù hợp với một thời điểm và một số đối tượng nhất định, song chúng
tôi đã cố gắng hoàn thành và đã có những kết quả nhất định. Rất mong sự góp ý từ
bạn bè, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Cần quán triệt trong nhận thức và hành động trong mỗi giáo viên việc dạy
học theo đặc trưng thể loại là một khoa học về phương pháp dạy học văn chứ
không phải chỉ là hình thức. Đó là con đường duy nhất trong việc trả văn bản về
với nơi sinh thành, phát triển nó, đồng thời còn hình thành kỹ năng đọc hiểu văn
bản văn học cho học sinh.
Cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các phương tiện dạy học sao cho
vừa đảm bảo tính hấp dẫn của giờ học vừa không mất đi chất văn.
Học sinh cần có sự chuẩn bị bài chu đáo, không lệ thuộc vào tài liệu.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình, không sao chép nội dung của
người khác.

LÊ TRỌNG VINH

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Ngữ Văn 11, Cơ bản, tập 1, Nxb Giáo dục, 2009

2

Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học Ngữ văn, Nxb Giáo dục, 2009

3

Phan Trọng Luận, Thiết kế giáo án Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục, 2010

4

Sách giáo viên ngữ văn 11, Nxb Giáo dục, 2009

5

Sách tham khảo Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục, 2010

16



MỤC LỤC
TT

Mục

Tr

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

22
23

A. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Giới thuyết về nghệ thuật trào phúng
2. Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng
a. Tình huống trào phúng
b. Nhân vật trào phúng
- Niềm hạnh phúc của đám con cháu
- Niềm hạnh phúc của những người đi đưa tang
c. Ngôn ngữ trào phúng
- Về mặt ngôn từ
- Kiểu dùng từ ngược nghĩa
3. Phương pháp thực hiện bài dạy cụ thể
a. Cách giới thiệu bài mới cần hấp dẫn
b. Hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản
c. Trích ngang giáo án
d. Sử dụng phương tiện dạy học
4. Kết quả thực nghiệm
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC

1
1
1

2
2
2
3
3
4
4
5
6
6
7
8
8
8
10
14
14
15
16
17

17



×