Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống mĩ cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.44 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
CHUYÊN ĐỀ: ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO..........................................................2
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC.............................................2
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hằng.............................................................2
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................2
1.1. Lý do chọn đề tài............................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài...................................................................3
PHẦN 2: NỘI DUNG...............................................................................................4
2.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC...........................4
2.1.1.Tình hình Việt Nam sau năm 1954.............................................................4
2.1.2. Hoàn cảnh quốc tế sau năm 1954 - một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến
chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng.......................................................6
2.1.3. Truyền thống ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh và kinh nghiệm đối ngoại của Đảng..........................................................8
2.2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MĨ (1954 - 1975)........................................................................10
2.2.1. Đấu tranh ngoại giao từ năm 1954 đến năm 1967. .............................10
2.2.2. Hội nghị Pari về kết thúc chiến tranh ở Việt Nam (1967-1973)............19
2.2.2.1. Buộc Mĩ xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm
phán.........................................................................................................................19
2.2.2.2.Giai đoạn đầu của đàm phán Pari - Cuộc đấu tranh giữa ta và Mĩ
xoay quan vấn đề hình thức và thành phần hội nghị (1968 - 1969)...............23
2.2.2.3. Đàm phán và măc cả (từ 1969 đến giữa 1972)...................................24
2.2.2.4. Đàm phán thưc chất – kí kết (7/1972 đến 1/1973)..........................27
2.2.2.5. Những bài học kinh nghiệm về đẩu tranh ngoại giao trong kháng
chiến chống Mĩ cứu nước....................................................................................31
2.3. VẬN DỤNG CHUYÊN ĐỀ VÀO GIẢNG DẠY..............................................32
PHẦN 3: KẾT LUẬN..............................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................37




Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

CHUYÊN ĐỀ: ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hằng
Trường THPT Chuyên Hùng Vương
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài.
Từ khi các vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử Việt Nam bắt đầu thời
đại dựng nước và giữ nước. Trải qua bao lần đương đầu với các thế lực ngoại
xâm hùng mạnh, ông cha ta đã để lại cho thế hệ hôm nay nhiều bài học kinh
nghiệm, nhiều nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc. Một trong số đó là những bài học vô giá về đấu tranh ngoại giao: Bài học
thứ nhất là kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc; bài học thứ hai là cứng rắn về
nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược; bài học thứ ba là phải biết kết hợp
đấu tranh quân sự và ngoại giao; bài học thứ tư là biết mình, biết người, nắm bắt
xu thế để xác định đúng mục tiêu, đường lối.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, những kinh nghiệm về đấu tranh
quân sự, chính trị, ngoại giao của cha ông ta được nâng lên tầm cao mới. Ngay
sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, bằng sự kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị, ngoại giao, đặc biệt là với sách lược ngoại giao linh hoạt, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra khỏi tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”, giữ vững được chính quyền cách mạng. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại (1945 - 1954) với đỉnh cao là chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ công
nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho ba nước Đông
Dương, càng thể hiện rõ hơn vai trò của đấu tranh ngoại giao trong thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nửa sau thế kỉ XX, Việt Nam lại phải đối mặt với âm mưu xâm lược của
đế quốc Mĩ. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là cuộc đối
đầu giữa một quốc gia nhỏ bé, tiềm lực yếu so với một nước đế quốc lớn mạnh,
2


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

sừng sỏ, đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước của nhân dân ta còn diễn ra khi bối cảnh thế giới nhiều biến động, thay đổi
hết sức phức tạp, có tác động trực tiếp đến công cuộc kháng chiến của ta. Trong
cuộc đụng đầu lịch sử đầy thử thách này, các bài học truyền thống của dân tộc
đã được Đảng ta phát huy cao độ và theo đó ngoại giao đã trở thành một mặt
trận quan trọng trong chiến lược kháng chiến đi đến ngày toàn thắng. Vì lẽ đó,
đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ đã đúc kết những nét đặc sắc,
tiêu biểu của nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung và nghệ thuật đấu tranh
ngoại giao Việt Nam nói riêng.
Việc nghiên cứu quá trình đấu tranh ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta
trong kháng chiến chống Mĩ không chỉ có ý nghĩa khoa học góp phần bổ sung
tài liệu chuyên sâu về đấu tranh ngoại giao trong công cuộc kháng chiến chống
Mĩ, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc, qua đó chúng ta có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm vận dụng cho đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng
hiện nay.
Đi sâu tìm hiểu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ còn
giúp cho công tác giảng dạy phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954- 1975, công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp ở trường phổ thông đạt chất lượng tốt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Đấu tranh ngoại giao
trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước” làm đề tài nghiên cứu.

1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.

- Tập hợp, hệ thống hoá các nguồn tư liệu về quá trình đấu tranh ngoại

giao của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Làm rõ đường lối đấu tranh trên mặt trận ngoại giao trong suốt cuộc

kháng chiến chống Mĩ của dân tộc, đặc biệt ở hai thời điểm đầu và cuối cuộc
kháng chiến.
- Dùng tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy phần lịch sử Việt Nam trong

trường phổ thông trung học.

3


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC.
2.1.1.Tình hình Việt Nam sau năm 1954.
Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta đã buộc thực dân
Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, công nhận độc lập chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đây là một thắng lợi lớn
của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, nhân dân Pháp và nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới. Thắng lợi đó đã mở đường cho cách mạng Việt
Nam bước vào thời kì phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng
cũng đầy khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc, căn bản hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ
sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Ở miền Nam,

chính quyền Aisenhao đã kiên quyết biến miền Nam Việt Nam thành một quốc
gia riêng, là thành trì chống chủ nghĩa cộng sản, là cơ sở để chứng minh cho
nền dân chủ ở châu Á của Mĩ.
Để thực hiện được âm mưu trên, Mĩ đã áp đặt ở miền Nam Việt Nam chủ
nghĩa thực dân kiểu mới. Ngày 7/7/1954, Mĩ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ
tướng chính quyền Sài Gòn. Ngày 17/7/1955, Diệm tuyên bố từ chối hiệp
thương tổng tuyển cử. Ngày 23/10/1955, với những biện pháp mua chuộc và lừa
bịp, Ngô Đình Diệm đã tổ chức “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và tự lên
ngôi Tổng thống ngụy quyền, tiến hành bầu cử riêng rẽ, lập Quốc hội lập hiến
(tháng 5/1956), ban hành hiến pháp của cái gọi là “Việt Nam Cộng hòa” (tháng
10/1956).
Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm công khai nhận viện
trợ của Mĩ về đô la, vũ khí, dụng cụ chiến tranh và nhân viên quân sự, để cho Mĩ
lập căn cứ quân sự và gây chiến tranh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Trái
với những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, chúng tiến hành đàn áp phong
trào cách mạng, mở những cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch tố cộng, diệt
cộng… Điều hết sức nghiêm trọng là chúng phá hoại các điều khoản quan trọng
của Hiệp định Giơnevơ không thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển
cử tự do trong cả nước vào tháng 7 năm 1956.
4


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

Tất cả việc làm trên của Mĩ - Diệm không ngoài mục đích tách hẳn một
phần lãnh thổ của Viêt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để lập ra một quốc gia riêng
biệt, thậm chí là một phần lãnh thổ của nước Mĩ như tuyên bố của Ngô Đình
Diệm tháng 5/1957 tại Washington: “Biên giới Hoa Kì kéo dài đến vĩ tuyến 17”.
Âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mĩ ở Đông Nam Á.

Như vậy, sau chín năm kháng chiến (1945 - 1954), miền Nam chưa một
ngày hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử
thách tưởng chừng khó vượt qua. Tình hình trên cho thấy đế quốc Mĩ là một trở
lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù
chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đến đây chưa hoàn
thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập, hoà bình, dân chủ chưa kết
thúc. Lúc này, trách nhiệm lịch sử lại một lần nữa đặt lên vai Đảng Lao động
Việt Nam.
Trước tình hình đó, đường lối cách mạng của Đảng đề ra trong thời kì này
được triển khai qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng và được
hoàn thiện tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960). Đại hội
đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của cách mạng
từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách mạng từng miền, mối quan hệ giữa cách
mạng hai miền.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển của cách mạng cả nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam. Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau
nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Sau Hiệp định Giơnevơ đặc điểm tình hình mới của đất nước Việt Nam đã
quy định hai chiến lược cách mạng khác nhau giữa hai miền, đồng thời nó chi
phối việc xác định chủ trương chính sách đối ngoại trong thời kỳ mới. Thực
chất, chính sách đối ngoại là biểu hiện của chính sách đối nội trên phạm vi quốc

5


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước


tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích của cách mạng Việt
Nam.
2.1.2. Hoàn cảnh quốc tế sau năm 1954 - một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến
chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng.
Tình hình thế giới từ giữa thập kỉ 50 của thế kỉ XX đã tác động sâu sắc
đến tiến trình cách mạng Việt Nam, đưa lại cho cách mạng Việt Nam những
thuận lợi và khó khăn nhất định. Những đặc điểm đó là:
Hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh và thu được
nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng đất nước.
Đặc biệt, đây là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của Liên Xô cả về
thế và lực, là điều kiện để Liên Xô thực hiện chính sách đối ngoại tích cực và trở
thành thành trì của phong trào giải phóng dân tộc và hoà bình thế giới. Nhờ đó
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta sẽ nhận được sự viện trợ
to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mĩ Latinh giai đoạn này cũng có
bước phát triển mới, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính
trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế.
Tháng 4/1955, Hội nghị Băngđung được triệu tập với sự tham gia của 29
nước Á, Phi. Hội nghị đã đánh dấu việc các nước Á, Phi bước lên vũ đài lịch sử,
đoàn kết với nhau trong một mặt trận thống nhất của các dân tộc bị áp bức
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải
phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ như vũ bão, nhiều nước Á, Phi, Mĩ Latinh
giành độc lập ở mức độ khác nhau.
Từ sự phát triển thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, sự ra đời của
hàng loạt quốc gia độc lập có chủ quyền từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
Phong trào không liên kết được hình thành tại Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp
ở Bêôgrat (9/1961) có vai trò vị trí quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đấu tranh giành độc lập về chính

trị, kinh tế, văn hóa hướng tới một thế giới công bằng, bình đẳng và phát triển.
Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh vì hòa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ ở các
nước tư bản diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức, có tác dụng công phá vào sào
6


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

huyệt của Chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, có thể thấy rằng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tình
hình thế giới có những thuận lợi đáng kể: chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống
thế giới, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ vì hoà bình, tiến
bộ trên thế giới nổ ra rộng rãi, sôi nổi. Sức mạnh tổng hợp của ba yếu tố trên đã
tạo nên thế tiến công toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ phong trào cách
mạng thế giới nói chung, phong trào cách mạng ở Việt Nam sau năm 1954 nói
riêng.
Cũng trong thời kỳ này, trong nội bộ của chủ nghĩa tư bản cũng có những
biến động đáng kể. Là cường quốc số 1 thế giới, mục tiêu nhất quán trong chính
sách đối ngoại của Mĩ là giành, giữ ảnh hưởng thị trường thế giới và trở thành
bá chủ thế giới. Mục tiêu đó xuyên suốt mấy thế kỉ qua và được các nhà cầm
quyền Mĩ đặt lên hàng đầu. Để thực hiện tham vọng đó, các tổng thống Mĩ liên
tiếp thi hành các chính sách đối ngoại phản động, đề ra chiến lược toàn cầu
chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, chống phong trào giải phóng
dân tộc, phong trào công nhân và nô dịch các nước đồng minh. Để đạt được
điều đó Mĩ thi hành một loạt chính sách “ chính sách thực lực”, lập các khối
quân sự (Nato, Seato, Cento) cùng hàng nghìn căn cứ quân sự khắp nơi, chạy
đua vũ trang, phát động hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược và can thiệp vũ
trang khắp các châu lục, âm mưu biến Đông Dương thành sân sau của mình.
Sau một thời gian dài tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang,

cuộc ganh đua giữa hai cường quốc Xô - Mĩ đã bắt đầu chững lại, thay vào đó là
xu thế hoà hoãn. Xu thế này được khẳng định rõ hơn với Hiệp định đình chiến ở
Triều Tiên và Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Để thực hiện mục tiêu đó,
Liên Xô đã đề nghị với Mĩ giảm bớt chạy đua vũ trang, giữ nguyên trạng Châu
Âu với khẩu hiệu “Thi đua hoà bình”, “Chung sống hoà bình, tập trung xây
dựng kinh tế, ổn định tình hình chính trị”. Đối với phong trào cách mạng thế
giới, Liên Xô chủ trương đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp hoà
bình.
Nhìn chung, lúc này Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng
không phải là mối quan tâm hàng đầu của Liên Xô. Thời gian cuối thập niên 50,
Liên Xô tập trung viện trợ cho một số nước. Ở Châu Á có Ấn Độ, Inđônêxia; ở
Châu Phi có Ai Cập; ở Châu Mĩ có Cuba. Liên Xô coi những nước này là đồng
7


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

minh chiến lược quan trọng. Còn đối với Việt Nam, Liên Xô tự đặt vị trí của
mình là quan sát viên, tránh đụng đầu với Mĩ. Thực tế lịch sử cho thấy, sự thay
đổi quan điểm của Liên Xô trong quan hệ với Việt Nam diễn ra một cách chậm
chạp do gặp phải nhiều lực cản từ phía Mĩ.
Sau khi hoà bình lập lại ở Đông Dương (1954), Trung Quốc tăng cường
quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, duy trì và mở rộng quan hệ với Liên Xô,
tỏ thái độ hoà hoãn với Mĩ và tìm cách bình thường hoá với một số nước
phương Tây. Trên con đường tập hợp lực lượng, Trung Quốc chủ trương lấy vấn
đề ủng hộ Việt Nam làm khẩu hiệu thu phục nhân tâm, xem Việt Nam là đối tác
trung gian tốt nhất để có thể đưa ra đàm phán với Liên Xô và Mĩ khi cần thiết.
Những người lãnh đạo Trung Quốc muốn chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam theo
giải pháp kiểu Triều Tiên, không muốn chúng ta tiếp tục cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân giải phóng miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

Song song với xu thế hoà hoãn Xô - Mĩ, trong thời gian này, lịch sử thế
giới đã chứng kiến những bất đồng nảy sinh trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là mâu thuẫn gay gắt giữa Liên Xô - Trung Quốc xung quanh những vấn đề lí
luận, đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế.
Mối quan hệ Liên Xô - Trung Quốc và Mĩ đã có những tác động mạnh mẽ
tới Việt Nam nói riêng, các nước thuộc địa nói chung thời kì này. Cả Liên Xô và
Trung Quốc trong xu thế hoà hoãn với Mĩ và mâu thuẫn với nhau như vậy đều
muốn sử dụng Việt Nam như một lá bài trong các cuộc thương thuyết vì quyền
lợi của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, Việt Nam chịu sức ép rất lớn từ cả hai
phía Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải có chính sách chiến lược như
thế nào trong một tổng thể quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô - Mĩ
chồng chéo, đan xen nhau. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam thời kì này phải trên cơ sở phân tích một cách hợp lí, phù hợp với từng
nước, dựa trên nguyên tắc đối ngoại chung làm sao vừa thu hẹp được những bất
đồng giữa các nước đồng minh vừa giữ vững được đường lối độc lập, tự chủ của
mình.
2.1.3. Truyền thống ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh và kinh nghiệm đối ngoại của Đảng
Ngoại giao truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống văn hoá của
dân tộc Việt Nam, đồng thời là kết quả của hoạt động giao lưu quốc tế của nước
8


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

Việt Nam từ ngàn xưa với các nước láng giềng trong quá trình đấu tranh bảo vệ
nền độc lập, chủ quyền của dân tộc và phát triển, xây dựng đất nước.
Lịch sử các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Việt Nam đã chứng
minh: yêu chuộng hoà bình là bản chất ngoại giao của Việt Nam. Điều đó xuất
phát từ lí tưởng nhân nghĩa của dân tộc “đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy

chí nhân để thay cường bạo”. Chúng ta luôn xem trọng giữ gìn quan hệ hữu nghị
hoà bình với các nước láng giềng, “hoà ở trong nước thì ít dụng binh; hoà ở
ngoài biên thì không sợ có báo động” nhưng luôn kiên trì lập trường, giữ vững
nguyên tắc độc lập, chủ quyền của dân tộc.
Tiếp thu những truyền thống ngoại giao của dân tộc, lí luận của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và xuất phát từ tầm nhìn, trí tuệ ưu việt của mình, Hồ Chí Minh một nhà ngoại giao kiệt xuất đã hình thành, phát triển và đề xuất quan điểm,
luận điểm về thời đại và đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại của ngoại
giaoViệt Nam thời hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò đối ngoại, vai trò của
nhân dân quốc tế, nhân tố bên ngoài đối với cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo
vệ, xây dựng Tổ quốc. Người nêu rõ: phải đặt cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới, kết hợp chặt chẽ
chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Dựa vào sức
mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, ủng hộ của
quốc tế và không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
Đấu tranh ngoại giao không chỉ là nhiệm vụ của riêng Đảng, Nhà nước
mà còn là nhiệm vụ của nhân dân. Bởi sự nghiệp cách mạng Việt Nam là sự
nghiệp của nhân dân, mở rộng các mối liên hệ với nhân dân thế giới. Ngoại giao
nhân dân là lực lượng quan trọng của mặt trận ngoại giao. Ngoại giao không chỉ
là những cuộc thương lượng trên bàn đàm phán, mà trong cuộc chiến tranh nhân
dân, những người dân bình thường cũng đã tham gia vào những hoạt động mang
tính ngoại giao. Những hành vi ứng xử phân minh, nhân đạo của nhân dân ta
góp phần làm cho quốc tế hiểu rõ thiện chí hoà bình, tính chất chính nghĩa của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của đế quốc,
đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự nhằm mục tiêu cuối cùng là
đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, trong đó đấu tranh quân sự là quyết định,
9



Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

đấu tranh ngoại giao phản ánh thắng lợi của đấu tranh quân sự như Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường nói: “Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng, chiêng
có to thì tiếng mới lớn”. Song ngoại giao cũng là vũ khí bảo vệ và phát huy thành
quả cách mạng, là một mặt trận đấu tranh góp phần tích cực giành và bảo vệ độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước.
Công cuộc đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong kháng chiến chống
Pháp nửa đầu thế kỉ XX cũng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho
đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ.
Trên cơ sở tình hình thế giới, tình hình trong nước, truyền thống ngoại
giao của dân tộc, kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao của Đảng và những quan
điểm ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối đấu
tranh ngoại giao từ 1954 đến 1975, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của
dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
2.2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ (1954 - 1975)
2.2.1. Đấu tranh ngoại giao từ năm 1954 đến năm 1967.
Hiệp định Giơnevơ tạm thời chia nước ta thành hai miền: miền Bắc được
hoàn toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mĩ
nhảy vào thay chân Pháp, dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, âm
mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự
của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Trong bối cảnh đó, tại hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6
(15-18/7/1954) Đảng ta nhận định: “Dù đất nước tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến
17 hay 16, ta vẫn có thời gian chuẩn bị một trận đánh lớn hơn nữa”. Tháng
9/1954, Bộ chính trị ra quyết định về “tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính
sách mới” của Đảng, Nghị quyết nêu lên chính sách đối ngoại của ta lúc này là
“Chống chính sách chiến tranh của đế quốc Mĩ, chống Mĩ tổ chức khối xâm lược
Đông Nam Á, cũng cố và bảo vệ hòa bình ở Đông Dương. Nghị quyết còn nêu

“Đối với Pháp, tiếp tục dùng hình thức thương lượng và đàm phán để điều
chỉnh, tránh quá căng thăng gây tan vỡ, mở rộng quan hệ mậu dịch trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi với Pháp. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước Ấn Độ,
phát triển và cũng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân
chủ khác”.
10


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7(3/1955), lần thứ 8
(8/1955) đã chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền
Nam đòi hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất hai miền đất nước. Hội nghị
khẳng định kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân dân ta hiện nay là “đế quốc Mĩ,
phái thực dân Pháp phản hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm, đế quốc Mĩ là kẻ thù
đầu sỏ và nguy hại nhất”. Trên cơ sở đó, Hội nghị xác định: “Đẩy mạnh công tác
ngoại giao, tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước bạn, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới” và coi đó là “một trong những công tác lớn”.
Phương châm chính sách ngoại giao của ta là “Củng cố không ngừng tình đoàn
kết hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước Dân chủ nhân dân; thực hiện
việc phối hợp chặt chẽ giữa các nước anh em trong hoạt động quốc tế và trong
đấu tranh ngoại giao; giao hảo với bất cứ nước nào cùng ta công nhận năm
nguyên tắc chung sống hoà bình; kiên quyết và bền bỉ dùng cách thương lượng
để giải quyết mọi vấn đề tranh chấp quốc tế (đồng thời ra sức củng cố quốc
phòng để sẵn sàng đập tan mọi kế hoạch gây chiến của đế quốc Mĩ và phe lũ
hiếu chiến)”.
Để thực hiện phương châm, chính sách trên, cần chuẩn bị cử đại sứ hay
đại biểu đi các nước anh em mà ta chưa cử đến, chú trọng đặt quan hệ ngoại
giao bình thường với hai chính phủ Lào và Cao Miên, với nước Pháp và các
nước Đông Nam Á. Đồng thời xúc tiến công tác tuyên truyền quốc tế, nhằm

tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta, làm cho nhân dân thế giới nhận rõ lập trường của ta
là đứng về phe dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo.
Đối với hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ của chính quyền Ngô
Đình Diệm, nhiều lần Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho hai ông A. Eden và V.Molotov, đồng Chủ
tịch Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương để bày tỏ quan điểm của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là tiếp tục thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ.
Công hàm yêu cầu hai Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ thi hành mọi biện pháp cần
thiết để Hiệp định Giơnevơ được tôn trọng, vấn đề chính trị ở Việt Nam được
giải quyết, hội nghị hiệp thương giữa các nhà đương cục có thẩm quyền ở hai
miền Bắc, Nam phải được mở ngay để bàn về vấn đề thống nhất Việt Nam bằng
tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc. “Đó là quyền lợi và nguyện vọng của toàn
11


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

thể nhân dân Việt Nam, đó cũng là ý muốn của nhân dân yêu chuộng hoà bình
trên thế giới”.
Ngày 30/03/1956, Chính phủ Liên Xô, nhân danh một Chủ tịch của Hội
nghị Giơnevơ gửi thông điệp cho Chính phủ Anh và đề nghị hai Chủ tịch họp
bàn để tìm biện pháp đảm bảo việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ về
Việt Nam. Nhưng Chính phủ Anh trả lời chính quyền Ngô Đình Diệm không ký
hiệp định đó nền không bị ràng buộc.
Ngày 12/4/1956, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm
cho Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà Pháp khẳng định: nước Pháp là kẻ đã
kí Hiệp nghị Giơnevơ nên nghĩa vụ và trách nhiệm của Pháp đối với việc thi
hành Hiệp nghị vẫn còn nguyên vẹn. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà yêu cầu Chính phủ Pháp tôn trọng chữ kí và cam kết của mình. Hiệp định

Giơnevơ đã đặt nền móng cho quan hệ mới về mọi mặt giữa Pháp và Việt Nam,
và việc thi hành đúng đắn Hiệp nghị này sẽ góp phần phát triển hơn nữa những
quan hệ mới ấy có lợi cho cả hai nước.
Khi đó, hoạt động ngoại giao của Chính phủ ta được đẩy mạnh, song song
với hoạt động của Liên Xô. Dư luận thế giới cũng đòi hỏi giải quyết vấn đề miền
Nam. Do đó, ngày 8/5/1956, hai Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ đã gửi thư kêu gọi
Chính phủ hai miền tôn trọng các điều khoản quân sự và chính trị của Hiệp định
Giơnevơ, yêu cầu cho biết thời gian cần thiết để bắt đầu hiệp thương tổng tuyển
cử. Pháp lập ra Phái đoàn liên lạc Pháp bên cạnh Uỷ ban liên hiệp với ý định
làm trung gian giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính quyền Sài
Gòn. Ngô Đình Diệm tuy chấp nhận hợp tác với Uỷ ban quốc tế nhưng vẫn tiếp
tục vi phạm trắng trợn Hiệp định trên thực tế.
Một lần nữa, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Văn Đồng gửi
công hàm cho hai đồng Chủ tịch Giơnevơ nhắc lại thái độ của chính quyền Sài
Gòn không chịu hiệp thương và yêu cầu hai chủ tịch có biện pháp cần thiết để
hội nghị Hiệp thương về Tổng tuyển cử được xúc tiến.
Như vậy, đến tháng 7/1956, Việt Nam đã không thực hiện được thống
nhất đất nước trong hai năm như Hội nghị Giơnevơ quy định. Cuộc đấu tranh
của nhân dân ta bước vào một thời kì mới, lâu dài, phức tạp và gian khổ. Trong
hoàn cảnh đó Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 mở rộng
12


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

(9/1956) đã họp và vạch rõ: Cuộc đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống
nhất của nhân dân ta là một bộ phận của cuộc đấu tranh cho hoà bình thế giới.
Do đó, Việt Nam phải phối hợp và tranh thủ sự đồng tình của nhân dân yêu
chuộng hoà bình thế giới, làm cho Mĩ - Diệm ngày càng bị cô lập. Vì vậy, “ta
phải tăng cường việc tuyên truyền ra ngoài nước, vạch trần âm mưu của Mĩ Diệm ở miền Nam phá hoại hoà bình, thống nhất và vi phạm Hiệp định

Giơnevơ; nêu cao ý chí hoà bình của ta và chính sách tôn trọng Hiệp định
Giơnevơ của ta”.Công tác ngoại giao của ta phải “ra sức tranh thủ sự đồng tình
của các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới đối với cuộc đấu tranh thống
nhất, cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của nhân dân ta. Ngoài
việc tăng cường đoàn kết với các nước anh em là việc ta phải thường xuyên chú
trọng, chúng ta cần hết sức phấn đấu để đặt quan hệ tốt với hai nước láng giềng
Lào, Miên, tăng cường và phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á, với
nước Pháp”.
Trong những năm tiếp theo từ 1957 - 1959, cách mạng miền Nam gặp
muôn vàn khó khăn. Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ra ngoài
vòng pháp luật. Ban hành đạo luật 10/59 (đề ra thàng 5/1959) cho phép thẳng
tay giết hại bất cứ người yêu nước nào, bất cứ ai có biểu hiện chống lại chúng,
làm cho hàng vạn cán bộ, đảng viên bị giết hại, hàng chục vạn đồng bào yêu
nước bị tù đày. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đòi hỏi có một biện
pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn thử thách.
Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
tại Hà Nội quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đánh
đổ chính quyền Mĩ – Diệm và nhấn mạnh: ngoài con đường dùng bạo lực cách
mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác. Nghị quyết 15 cũng
khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có tác dụng cổ vũ phong trào giải
phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh, thúc đẩy quá trình tan
rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Ngược lại, mọi thắng lợi của phong
trào giải phóng dân tộc và phong trào vì hoà bình, dân chủ trên thế giới sẽ làm
suy yếu thế lực của chủ nghĩa đế quốc. Nhân dân ta đồng tình sâu sắc và hết sức
ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức và bị xâm lược, vì vậy
“chúng ta cần tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị trên cơ sở 5 nguyên tắc
13



Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

chung sống hoà bình với các nước Á- Phi, trước hết là với các nước láng giềng,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà”.
Với chủ trương đó, cao trào “Đồng khởi” đã nổ ra và giành thắng lợi ở
Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Thắng lợi của “Đồng khởi” đã giáng
một đòn nặng nề vào chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ, làm lung lay
tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, đánh dấu bước ngoặt của cách
mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công.
Trong bối cảnh cách mạng hai miền Nam, Bắc có những bước phát triển
mới, từ ngày 5 đến 10/9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
họp tại Hà Nội. Đại hội xác định chính sách ngoại giao của Việt Nam là:
- Ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa
do Liên Xô đứng đầu, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu
nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa
anh em; phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với các nước anh em theo
những nguyên tắc của quốc tế vô sản.
- Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà
bình và tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh để bảo vệ và
củng cố hoà bình; chống lại chính sách xâm lược và chính sách gây chiến
của đế quốc Mĩ, thực hiện chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ
chính trị và xã hội khác nhau, thực hiện giải trừ toàn diện, triệt để và cấm
vũ khí nguyên tử hạt nhân, thủ tiêu các căn cứ quân sự ở nước ngoài và
các khối quân sự xâm lược, tiến tới thành lập hệ thống an ninh tập thể ở
châu Âu, Châu Á.
- Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và Mĩ
Latinh. Tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước dân chủ nhân dân,

phát triển sự hợp tác kinh tế và văn hoá với các nước đó trên cơ sở 5
nguyên tắc chung sống hoà bình và tinh thần Hội nghị Băngđung.
- Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hoà bình trung lập thật
sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị với
vương quốc Campuchia.
14


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

- Chúng ta ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Lào nhằm thực hiện
đường lối hoà bình trung lập thật sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn
xây dựng quan hệ với vương quốc Lào.
- Đối với tất cả các nước khác, chúng ta sẵn sàng đặt quan hệ hữu
nghị trên cơ sở bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
- Kiên quyết đấu tranh làm cho Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương
được thi hành đầy đủ nhằm duy trì hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam
Á.
- Đi đôi với việc xây dựng và tăng cường quan hệ giữa chính phủ ta
và chính phủ các nước, cần mở rộng mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân
ta và nhân dân các nước.
Ngày 20/12/1960 Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
đã tập hợp được lực lượng yêu nước Việt Nam trong mặt trận đấu tranh chống
Mĩ - Diệm. Cương lĩnh đấu tranh của mặt trận đã được sự hưởng ứng rộng rãi
và có tiếng vang trên trường quốc tế. Đặc biệt là cương lĩnh đã nhấn mạnh
đường lối đối ngoại hòa bình, trung lập. Khẩu hiệu “hòa bình trung lập” của
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã thu hút được đông đảo sự
đồng tình ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên
khắp năm châu. Chỉ trong vòng 3 năm, đến cuối năm 1963, Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam đã được 321 tổ chức thuộc nhiều xu hướng

chính trị khác nhau ở 42 nước, kể cả ở Mĩ bày tỏ tình đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam. Cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh đánh giá: “Từ năm 1960, với sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam đã xuất hiện mũi tiến công vô cùng lợi hại của ngoại giao
miền Nam mà ngoại giao nhân dân là nòng cốt”. Mặt trận ra đời đã góp phần
gắn kết cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới chống chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến xâm lược, vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cuối năm 1964 đầu 1965, sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”, Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, chuyển sang chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Với kế hoạch chuẩn bị từ trước, Mĩ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” vu
cáo tàu Việt Nam tiến công tàu khu trục Mađốc của Mĩ ở ngoài khơi thuộc hải
phận quốc tế để lấy cớ trả đũa, ném bom bắn phá miền Bắc nước ta. Ngày
15


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

7/8/1964 Quốc hội Mĩ thông qua nghị quyết về “ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” tán
thành hành động trả đũa Bắc Việt Nam. Ngày 7/2/1965 chính quyền Mĩ phát
động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên toàn Bắc Việt
Nam.
Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của Mĩ
đã làm cho “tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình
đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác
nhau ở mỗi miền”. Nhân dân miền Bắc lại bước vào cuộc chiến đấu chống lại
cuộc chiến tranh đến từ trên không và từ trên biển. Nhưng cuộc đấu tranh ngoại
giao của ta cũng trở nên quyết liệt và khẩn trương hơn bởi lẽ cùng với việc mở
rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, Johnson còn thực hiện một

chiến dịch ngoại giao quy mô và rầm rộ hòng đánh lừa dư luận nhân dân Mĩ và
dư luận thế giới. Suốt thời gian từ 1965 đến 1967, đế quốc Mĩ tung ra luận điệu
“hòa bình” đề nghị ngừng bắn và thương lượng không điều kiện. Điển hình là
lời tuyên bố của Johnson về việc “Mĩ sẵn sàng thương lượng không điều kiện”
tại Baltimore ngày 07/04/1965. Ngày 29/12/1965, Bộ ngoại giao Mĩ công bố kê
hoạch 14 điểm dưới 1 tiêu đề phụ là: “Các đóng góp của Mĩ vào cái giỏ hòa
bình”:
1. Hiệp định Giơnevơ (1954 và 1962) là một cơ sở thích hợp cho hòa
bình ở Đông Nam Á.
2. Mĩ hoan nghênh về một cuộc hội nghị Đông Nam Á hoặc bất cứ một
khu vực nào của châu Á.
3. Mĩ sẵn sàng tiến hành những cuộc đàm phán không điều kiện.
4. Mĩ sẵn sàng nếu Hà Nội muốn tiến hành các cuộc thảo luận không
chính thức và không điều kiện.
5. Một cuộc ngừng bắn có thể là điểm đầu tiên của hội nghị hòa bình
hoặc bước chuẩn bị cho một hội nghị như vậy.
6. Mĩ sẵn sàng thảo luận chương trình 4 điểm của Bắc Việt Nam.
7. Mĩ không muốn có căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.
8. Mĩ không muốn có mặt về quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
9. Ủng hộ tuyển cử tự do.
10. Vấn đề thống nhất Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam giải quyết,
thông qua tổng tuyển cử tự do.
11. Các nước Đông Nam Á có thể là không liên kết hoặc không trung
16


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

lập, Mĩ không muốn có đồng minh mới.
12. Mĩ sẵn sàng đóng góp 1 tỷ đô la cho chương trình phát triển khu vực

mà Bắc Việt Nam có thể tham gia.
13. Việt cộng không có khó khăn gì cử đại diện trình bày quan điểm của
họ khi Hà Nội quyết định chấm dứt xâm lược.
14. Mĩ sẽ chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam xem như là một bước tiến
tới hòa bình nhưng không có dấu hiệu hay gợi ý của phía bên kia cho thấy họ sẽ
làm gì một khi chấm dứt ném bom.
Cố bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nhận xét: Rõ ràng lập
trường 14 điểm cũng như những lời tuyên bố của chúng về một giải pháp cho
vấn đề Việt Nam là hoàn toàn trái ngược với tinh thần của hiệp định Giơnevơ.
Sau đó Mĩ tiến hành thực hiện nhiều chiến dịch ngoại giao quy mô lớn
1966-1967, thông qua các nhà chính trị, các nhân sĩ trong phong trào hòa bình,
các nhân vật có tôn giáo uy tín, để làm trung gian nhưng không có kết quả. Bởi
vì tất cả những chiến dịch ngoại giao của Mĩ đều lộ rõ bản chất xâm lược của
chúng là không thắng ta trên mặt trận quân sự thì tìm cách thắng ta trên mặt trận
ngoại giao, vừa đưa “củ cà rốt” để nhử ta lại vừa “giơ cao cây gậy để dọa nạt”.
Điều đó càng chứng tỏ Mĩ cố bám giữ lập trường xâm lược của kẻ mạnh, ngoại
giao trên thế mạnh. Do đó, những cuộc ném bom, những cuộc vận động ngoại
giao không phải là cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ như đế quốc Mĩ từng rêu rao.
Trước những âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mĩ, cuộc đấu tranh ngoại
giao lúc này của Đảng ta là nhằm vạch trần luận điệu “lừa bịp hòa bình” của Mĩ
trước dư luận thế giới và thể hiện quyết tâm đánh Mĩ của quân dân ta.
Thấu hiểu bản chất, âm mưu của kẻ địch, với những kinh nghiệm dày dạn
trong đấu tranh ngoại giao, Đảng và Chính phủ ta nhận xét rõ cái gọi là “sáng
kiến hòa bình”, thương lượng không điều kiện của Mĩ, chỉ nhằm che dấu hành
động chiến tranh và sự thất bại của chúng trên chiến trường. Tuy nhiên phải
đương đầu với đế quốc Mĩ - một nước có tiềm lực quân sự mạnh hơn rất nhiều
lần, ta phải có đường lối sách lược ngoại giao khôn khéo, độc lập tự chủ, khơi
nguồn triệt để sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ địch về
quân sự, chính trị, ngoại giao. Đảng ta cho rằng: “Mĩ là một đội quân mạnh
nhưng vào miền Nam không phải trong thế mạnh mà trong thế yếu, bị động.

Chỗ yếu nhất của chúng vẫn là chính trị”. Còn về ta lúc này mạnh về cả chính
trị và quân sự. Mặc dù đế quốc Mĩ vào miền Nam với hàng chục vạn quân viễn
17


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

chinh, lực lượng giữa ta và địch không thay đổi lớn. Đây là cơ sở để Đảng ta đề
ra nhiệm vụ: Động viên lực lượng để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mĩ.
Chính vì vậy ngày 22/03/1965 Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam sau khi vạch trần luận điệu hòa bình bịp bợm của đế quốc Mĩ đã ra
tuyên bố lập trường 5 điểm:
1. Đế quốc Mĩ là kẻ phá hoại hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm
lược cực kì thô bạo, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam.
2. Nhân dân miền Nam Việt Nam anh hùng, cương quyết đánh đuổi đế
quốc Mĩ để giải phóng miền Nam thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập,
tiến tới thống nhất nước nhà.
3. Nhân dân miền Nam Việt Nam và quân giải phóng miền Nam Việt Nam
anh hùng quyết hoàn thảnh đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh
đuổi đế quốc Mĩ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
4. Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ
nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên toàn thế giới và tuyên
bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ kể cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác
của bạn bè khắp năm châu.
5. Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên quyết
chiến thắng giặc Mĩ và bọn việt gian bán nước.
Ngày 8/4/1965, Thủ tướng Phạm Văn Đồng công bố lập trường bốn điểm của
Chính phủ ta:
1. Xác nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Mĩ phải

rút quân đội, nhân viên quân sự, các loại vũ khí Mĩ ra khỏi miền Nam Việt
Nam, triệt thoái các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt can thiệp
ở Miền Nam Việt Nam, các hành động quân sự chống Bắc Việt Nam.
2. Hai miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có
căn cứ quân sự, nhân viên quân sự nước ngoài trên đất nước mình.
3. Công việc của Miền Nam do nhân dân Miền Nam tự giải quyết, theo
cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam không có sự
can thiệp của nước ngoài.
4. Việc hòa bình, thống nhất nước Việt Nam do nhân dân ở cả hai miền tự
giải quyết không có sự can thiệp của nước ngoài.
Ngày 10/4/1965, từ diễn đàn của Quốc hội, Chủ tịch Hô Chí Minh khẳng
18


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

định lập trường của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người kêu
gọi toàn dân “kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”.
Các tuyên bố trên là những câu trả lời kiên quyết và đầy chính nghĩa của
Đảng và Chính phủ ta, vạch trần luận điệu xảo quyệt của đế quốc Mĩ, đồng thời
khẳng định ý chí sắt đá chống Mĩ cứu nước không chịu khuất phục trước sức
mạnh của kẻ thù xâm lược, không chấp nhận một cuộc thương lượng theo điều
kiện của Mĩ.
Trong lời kêu gọi ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục vạch rõ:
“Đế quốc Mĩ rất dã man và quỷ quyệt, một mặt chúng rêu rao hòa bình, một mặt
chúng gấp rút xây dựng thêm nhiều căn cứ quân sự, phái thêm nhiều quân đội
vào miền Nam, tăng cường ném bom, bắn phá miền Bắc, giọng lưỡi đàm phán
hòa bình của chúng quyết không lừa bịp được nhân dân ta và nhân dân thế

giới”.
Tháng 12/1965 Ban chấp hành trung ương Đảng họp tại hội nghị lần thứ
12, sau khi chỉ ra phương hướng chiến lược cho quân và dân ta trong giai đoạn
chống “chiến tranh cục bộ” của Mĩ, đã nhấn mạnh phải đấu tranh chính trị và
ngoại giao khôn khéo, để phối hợp với đấu tranh quân sự.
Tháng 10/1966 Bộ Chính trị họp ra chủ trương: tích cực và chủ động, tạo
điều kiện vận dụng sách lược vừa đánh, vừa đàm, vừa đàm vừa đánh nhằm mục
đích tranh thủ dư luận thế giới, cô lập đế quốc Mĩ.
Thực hiện chủ trương Đảng các hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại
giao được đẩy mạnh. Ta đã cử đại diện của ta ở một số nước tiếp xúc với đại
diện của Mĩ do phía Mĩ yêu cầu. Những cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng với các nhà ngoại giao, các nhân sĩ quốc tế,
các nhà báo Mĩ và các nước khác, càng giúp họ hiểu hơn lập trường của Việt
Nam là trước sau như một, nhất quán và sáng ngời chính nghĩa, có lý, có tình.
2.2.2. Hội nghị Pari về kết thúc chiến tranh ở Việt Nam (1967-1973)
2.2.2.1. Buộc Mĩ xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm
phán.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, trên chiến trường miền Nam Việt Nam ta
liên tiếp đánh thắng các cuộc phản công của địch trong hai mùa khô 1965-1966
19


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

và 1966-1967. Ở miền Bắc, ta đánh thắng một bước cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân địch. Trên đà thắng lợi về quân sự, Đảng ta quyết
định tiến công trên cả mặt trận ngoại giao nhằm mở ra cục diện “vừa đánh vừa
đàm”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tháng 1/1967 quyết định đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận quân sự, chính

trị và ngoại giao, phối hợp giữa ba mặt trận để giành thắng lợi lớn hơn nữa. Đấu
tranh quân sự, chính trị là nhân tố quyết định thắng lợi trên mặt trận ngoại giao,
“chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta giành
được trên chiến trường”. Tuy nhiên cuộc đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn
thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện
nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ vai
trò chủ động, tích cực.
Hội nghị nêu mục đích, nhiệm vụ của cuộc tiến công ngoại giao lúc này là
tố cáo mạnh mẽ hơn nữa tội ác của đế quốc Mĩ, vạch trần những thủ đoạn hòa
bình giả hiệu của chúng, tranh thủ các nước anh em, bạn bè, nhân dân yêu
chuộng hòa bình và công lý trên thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mĩ.
Mở đầu cho mặt trận ngoại giao trong tình hình mới, ngày 28/1/1967 trả
lời phỏng vấn nhà báo Úc W. Burchet cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh đã khẳng định lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam là
kiên quyết chiến đấu để bảo vệ độc lập tự do, thống nhất đất nước. Về điều kiện
để Mĩ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi vào đàm phán, đồng chí khẳng định:
phía Mĩ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh
khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mĩ
mới có thể nói chuyện”.
Tiếp đó, tháng 1/1966, ta cho đăng trên Nhân dân một bài báo tiếp tục
khẳng định lập trường của Việt Nam về điều kiện để đàm phán với Mĩ. Yêu cầu
của ta gồm 3 điều:
1. Mĩ rút hết quân khỏi miền Nam.
2. Chấm dứt ném bom ở miền Bắc.
3. Mĩ công nhận và nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Những thông điệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ nói lên thiện chí
của ta mà còn vạch ra một khả năng hiện thực, tìm ra một lối thoát cho cuộc
chiến tranh ở Việt Nam. Nhiều chính phủ, tổ chức, nhân vật quốc tế yêu cầu
20



Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

chính quyền Johnson hưởng ứng đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhân dân tiến bộ thế giới bằng nhiều hình thức đòi chính quyền Mĩ nói chuyện
với Bắc Việt Nam. Tổng thư kí Liên Hợp Quốc U Thant tuyên bố mong muốn
một giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam.
Trước sức ép của dư luận trong và ngoài nước, Tổng thống Johnson đã
phải tuyên bố: “Hoa Kì sẵn sàng ngừng mọi hoạt động bắn phá bằng không
quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam”. Tuy nhiên trên thực tế Mĩ vẫn mưu
toan “đàm phán trên thế mạnh”, ngày 2/3/1967 Giônxơn quyết định đưa cuộc
leo thang đánh phá miền Bắc lên mức cao hơn như đánh vào khu gang thép Thái
Nguyên, khu công nghiệp Việt Trì, đánh vào Hà Nội, Hải Phòng. Điều đó chứng
tỏ Mĩ chưa thực sự muốn đi vào thương lượng. Để thúc đẩy Mĩ xuống thang,
ngày 29/12/1967 cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh lại tuyên bố: “Sau
khi chấm dứt không điều kiện việc ném bom và hành động chiến tranh khác
chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói
chuyện với Mĩ về những vấn đề liên quan”. Như vậy đầu năm chúng ta nói “có
thể” đến cuối năm chúng ta chuyển sang khẳng định là “sẽ” nói chuyện. Tuy
nhiên thái độ của Mĩ còn nặng về thăm dò chứ chưa chịu đi vào đàm phán. Như
vậy có thể nói rằng những chuyển biến tuy có lợi cho ta nhưng chưa đủ để buộc
Mĩ phải xuống thang chiến tranh và đi vào đàm phán.
Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng
thay đổi có lợi cho ta đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng
thống. Thực hiện nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở miền Nam
của Hội nghị Trung ương lần thứ XIV (họp đầu 1/1968), đêm 30 rạng sáng
31/1/1968, quân và dân miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy, đánh
thẳng vào cơ quan đầu não của địch ở các thành phố, thị xã, thị trấn. Cả miền
Nam rung chuyển bởi đòn tiến công quân sự mãnh liệt, bất ngờ của ta trong tết
Mậu Thân. Nước Mĩ bàng hoàng sửng sốt, người dân Mĩ nhìn rõ trên vô tuyến

truyền hình cảnh con em mình bị chết một cách vô ích ở miền Nam Việt Nam.
Họ nhận ra rằng chính phủ Mĩ đã và đang lừa dối họ, cảm giác không thể dành
chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam bắt đầu tràn khắp nước Mĩ.
Cuộc tổng tiến công khiến địch bị bất ngờ và đã thay đổi hẳn tình hình,
làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ tạo nên bước ngoặt chiến tranh.
Ngày 31/ 3/1968 tổng thống Johnson lên truyền hình tuyên bố:
1. Đơn phương ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
21


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

2. Bỏ chiến lược “tìm diệt” thay bằng chiến lược “quét và giữ”.
3. Không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 2.
4. Chấp nhận đàm phán tại Pari.
Bản tuyên bố của tổng thống Mĩ đánh dấu những thay đổi lớn trong chiến
lược của Mĩ, từ tăng cường chiến tranh sang xuống thang chiến tranh, từ khước
từ thương lượng sang chấp nhận thương lượng để thăm dò.
Như vậy, nếu ta bác bỏ đề nghị của Johnson thì không tranh thủ được dư
luận. Nếu ta chấp nhận đàm phán ngay là quá sớm, vì Mĩ chưa đáp ứng điều
kiện của ta là chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện việc ném bom và mọi hành
động chiến tranh khác. Do đó ngày 3/4/1968 Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố
“sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mĩ nhằm xác định với
Mĩ việc chấm dứt không điều kiện ném bom và hành động chiến tranh khác
chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”.
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam là một đòn tấn công ngoại giao chủ động,
đúng lúc, tỏ rõ thiện chí của ta nhưng vẫn giữ vững lập trường, nguyên tắc là Mĩ
phải chấm dứt hoàn toàn ném bom vô điều kiện. Tuyên bố mở ra cục diện “ vừa
đánh, vừa đàm” như tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 13.
Để chuẩn bị cho đàm phán chính thức được thỏa thuận giữa Việt Nam và

Mĩ, hai bên đã tiến hành trao đổi các vấn đề như cấp bậc, đại biểu, địa điểm,
thời gian tiến hành.
Tối 3/4/1968 đại sứ quán Mĩ ở Lào báo cho sứ quán Việt Nam là đề nghị
tiếp xúc ở Giơnevơ, phía ta đề nghị ở Phnômpênh với dụng ý là gần chiến
trường miền Nam và cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân 3 nước Đông
Dương. Oasinhtơn không chấp nhận và đề nghị các địa điểm khác : Niuđêli,
Giacacta, Viêngchăn, Rănggun, Việt Nam đề nghị Vacxava. Lúc đầu họ chấp
nhận nhưng sau lại không đồng ý vì tin bị lộ ra ngoài. Mỹ lại đưa ra một danh
sách 10 địa điểm: Côlômbô, Kátnanđa, Kualalămpu, Raoapinđi, Cabun, Tôkiô,
Henxinhnhi, Viên, Rôma...Cuộc trao đổi kéo dài gần một tháng. Cuối cùng,
ngày 2/5/1968 ta đề nghị lấy Pari làm địa điểm họp chính thức. Việt Nam cử Bộ
trưởng Nguyễn Xuân Thủy làm trưởng đoàn, đồng chí Hà Văn Lâu làm phó
trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hoa kỳ cử
Hariman và C.Vanxơ làm trưởng đoàn và phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ
Mĩ.

22


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

2.2.2.2.Giai đoạn đầu của đàm phán Pari - Cuộc đấu tranh giữa ta và Mĩ
xoay quan vấn đề hình thức và thành phần hội nghị (1968 - 1969).
Ngày 13/5/1968 cuộc thương lượng chính thức hai bên giữa đại diện
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính Phủ Mĩ đã diễn ra tại
hội trường Klebe, thủ đô Pari của Pháp. Bộ trưởng Xuân Thủy phát biểu trước,
khẳng định lập trường không thay đổi của Việt Nam là trước tiên Mĩ phải chấm
dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh
khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi mới bàn đến các vấn đề liên
quan khác.

Hội nghị hai bên ở Pari sau nhiều phiên họp trong năm 1968 vẫn chưa
giải quyết được vấn đề gì cơ bản, nhưng đã mở đầu cho một thời kì ta tiến công
trực diện địch về ngoại giao trên bàn hội nghị.
Sau gần hai tháng đấu tranh gay gắt, đến ngày 26/10/1968 hai bên đã thảo
luận được biên bản chung như sau:
1. Hoa Kì sẽ chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân,
pháo binh, mọi hành động khác liên quan đến việc dùng vũ lực trên toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam.
2. Một cuộc họp để tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam sẽ được
tiến hành ở Pari.
3. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị sẽ có mặt của Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kì đề nghị sẽ có mặt của Việt Nam Cộng
hòa.
Ngày 1/11/1968, Johnson tuyên bố ngừng ném bom bắn phá trên toàn
miền Bắc. Sau sự kiện này, cuộc đấu tranh giữa ta và Mĩ xoay quanh vấn đề chủ
yếu về hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất về hình thức Hội
nghị bốn bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ( sau đó là Chính phủ cách mạng lầm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng hòa.
Cuộc đàm phán chính thức mở ra thế trận “vừa đánh vừa đàm”, một giai đoạn
chiến đấu gay go quyết liệt giữa ta và Mĩ, là đỉnh cao của hoạt động ngoại giao
của Đảng ta và cũng là một thắng lợi có tính bước ngoặt của ta trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

23


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước

2.2.2.3. Đàm phán và măc cả (từ 1969 đến giữa 1972)

Sau thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đầu năm 1969 Nichxơn lên
nắm quyền đã đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế” và tiếp tục cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với chiến lược
“Đông Dương hóa chiến tranh”.
Trước tình hình đó, ta kịp thời cũng cố lực lượng, tiến công địch trên cả
ba vùng chiến lược, chú trọng phát triển chiến tranh du kích, chống phá kế
hoạch “bình định” của địch. Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống “Việt
Nam hóa chiến tranh” là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam ngày 6/6/1969. Đó là Chính phủ hợp pháp của nhân dân
miền Nam. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời đã được 23 nước công
nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Từ đầu năm 1969, tình hình đàm phán tại Pari vẫn dậm chân tại chỗ do
chưa thống nhất được chỗ ngồi và mẫu bàn đàm phán. Chính quyền Sài Gòn
không chịu ngồi chung một bên đối diện với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam. Mĩ cũng ngại, cho rằng nếu như vậy là công nhận Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Cuối cùng, theo sáng kiến của Liên Xô, hai
bên thỏa thuận ngồi theo bàn tròn nhưng có khoảng cách ở giữa và cuộc đàm
phán chính thức bốn bên khai mạc vào ngày 25/1/1969.
Mặc dù bị trì hoãn nhưng hai đoàn của ta vẫn tìm cách vạch trần âm mưu
và ý đồ của Mĩ. Mĩ muốn kéo dài cuộc đàm phán để che đậy dư luận thế giới,
che đậy những nỗ lực quân sự của Mĩ và chính quyền Sài Gòn đang ráo riết tiến
hành trên bán đảo Đông Dương, dùng sức mạnh trên chiến trường để tạo áp lực
trên bàn hội nghị, buộc nhân dân Việt Nam phải chấp nhận những điều khoản
do phía Mĩ đặt ra.
Trước những âm mưu và thủ đoạn mới của Mĩ, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương tiếp tục giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến công địch trên chiến
trường, đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tăng cường hoạt động quốc tế.
Ngày 8/5/1969 trong phiên họp toàn thể lần thứ 16 của Hội nghị Pari, đại
biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam bất ngờ đưa ra “Giải

pháp toàn bộ 10 điểm” bao gồm các mặt quân sự, chính trị, đối nội, đối ngoại
của nhân dân Miền Nam. Nội dung chủ yếu của “Giải pháp toàn bộ 10 điểm” đó
là:
24


Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước
1.

Tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.

2.

Phải rút hết quân Mĩ, nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến

tranh của Mĩ, hủy bỏ các căn cứ quân sự của Mĩ ở miền Nam Việt Nam
3. Vấn đê các lực lượng vũ trang Việt Nam ở miên Nam Việt Nam do
các bên Việt Nam cùng giải quyết.
4. Nhân dân miền Nam tự giải quyết việc nội bộ của mình không có
sự can thiệp của nước ngoài, bầu ra quốc hội lập hiến, xây dựng hiến pháp, lập
nên chính phủ liên hiệp chính thức.
5. Thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời trên nguyên tắc bình đẳng
dân chủ và tôn trọng lẫn nhau nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa
bình, dân chủ trung lập.
6. Nhân dân Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình,
trung lập, thực hiện chính sách láng giềng tốt với Campuchia và Lào, lập quan
hệ với tất cả các nước.
7. Thực hiện từng bước thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp
hòa bình trên cơ sở bàn bạc giữa hai miền. Trong khi chờ đợi thực hiện thống
nhất hòa bình ở Việt Nam, lập lại quan hệ bình thường mọi mặt trong quan hệ

giữa hai miền.
8. Hai miền Nam - Bắc trong khi chờ đợi thống nhất cam kết không
liên minh tham gia liên minh quân sự nào, không cho phép nước ngoài có căn
cứ quân đội và nhân viên quân sự trên đất mình.
9. Giải quyết những hậu quả của chiến tranh: vấn đề tù binh, vấn đề
thiệt hại chiến tranh ở Việt Nam.
10. Thỏa thuận về một sự giám sát quốc tế đối với việc rút quân, vũ khí
và dụng cụ chiến tranh.
Như vậy, trong hội nghị Pari, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam là người đầu tiên đưa ra một giải pháp hoàn chỉnh với thái độ xây dựng và
những yêu cầu phải chăng để buộc đối phương đi vào thương lượng. “Giải pháp
toàn bộ 10 điểm” của Mặt trận được dư luận thế giới kể cả Mĩ hoan nghênh và
ủng hộ rộng rãi. Với 10 điểm ta đặt cơ sở cho việc đàm phán giành lại quyền
chủ động trên bàn hội nghị và chiếm lĩnh dư luận. "Giải pháp toàn bộ 10 điểm"
cũng cố cho cục diện vừa đành vừa đàm, vai trò của Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam được đề cao.
Trong thế bị động, ngày 14/5/1969 tổng thống Nichxơn đưa ra kê hoạch 8
25


×