Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Mỏ than vàng danh trong thời kì kháng chiến chống mĩ cứu nước (những năm 1965-1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.31 KB, 108 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM


MAI THANH TÙNG




MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC
(NHỮNG NĂM 1965-1975)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN XUÂN MINH





THÁI NGUYÊN - 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Xuân Minh đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử -
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công ty Cổ
phần than Vàng Danh, Ban Tuyên giáo và Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Ninh
đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả

Mai Thanh Tùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chiến thắng đông - xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954), cam
kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân
dân ba nước Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và
bước vào thời kì quá độ đi lên CNXH. Ở miền Nam, đế quốc Mĩ từng bước
gạt Pháp và dựng lên chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm cầm đầu. Chúng
âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta trở thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự để thực hiện các mục đích xâm lược. Từ đây, nhân dân ta
tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh đương đầu với một kẻ thù xâm lược có tiềm
lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới.
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ (1954-1975) một lần nữa đã khẳng
định tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta ở hai miền đất nước lần lượt đập
tan các chiến lược chiến tranh, mọi mưu đồ xâm lược của kẻ thù để tiến tới
hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải
trực tiếp đương đầu với hai lần giặc Mĩ leo thang phá hoại và làm nghĩa vụ
hậu phương chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các ngành, các giới trên toàn miền Bắc đã nỗ lực tham gia
sản xuất với khẩu hiệu " Vì miền Nam ruột thịt ", " Tất cả để đánh thắng giặc
Mĩ xâm lược ". Trên toàn miền Bắc, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã
xuất hiện nhiều nhà máy, công trường, xí nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn,
tích cực sản xuất, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Với khẩu hiệu "Vừa sản xuất, vừa chiến đấu", công nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ở các nhà máy, công trường kiên quyết không rời vị trí chiến đấu mỗi khi máy
bay địch xuất hiện, giữ vững nhịp độ sản xuất phục vụ đời sống nhân dân và
nhu cầu của cuộc kháng chiến.
Để thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất đòi
hỏi Đảng và nhân dân ta phải có quyết tâm cao, có tinh thần sáng tạo, vận
dụng linh hoạt cả qui luật chiến tranh cách mạng và qui luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất ở miền Bắc có quan hệ khăng khít
với nhau, đồng thời quan hệ với cuộc chiến đấu ở miền Nam. Sản xuất nhằm
phục vụ cho cuộc chiến đấu tại chỗ ở miền Bắc vừa cho cả cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở miền Nam. Mặt khác, chiến đấu còn nhằm bảo vệ sản xuất,
bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phối hợp với cuộc
chiến đấu ở miền Nam.
Từ trong phong trào yêu nước, quân và dân ta ở miền Bắc đã tỏ rõ sức
mạnh của một dân tộc có truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù,
chiến đấu dũng cảm, nêu cao tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, giành nhiều thắng lợi trong lao động sản xuất và xây dựng đất nước.

Thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã góp phần
to lớn chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam, động viên tinh
thần cho quân và dân miền Nam chiến đấu trên trận tuyến chống quân thù.
Mỏ than Vàng Danh được thành lập theo Quyết định số 262/BCNNg-
KB2, ngày 6-6-1964, trong bối cảnh cả miền Bắc đang ra sức thực hiện thắng
lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Trong hoàn cảnh đó, Mỏ than
Vàng Danh vừa củng cố bộ máy tổ chức và cải tiến kĩ thuật, đẩy nhanh tốc độ
sản xuất phục vụ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa hai lần đương
đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ và không ngừng chi viện cho
chiến trường miền Nam. Những kết quả đạt được của Mỏ than Vàng Danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
trên cả mặt trận sản xuất và chiến đấu đã cho thấy sự quan tâm, chỉ đạo kịp
thời của Đảng và ngành Than đối với Mỏ, tinh thần vượt khó vươn lên, dám
nghĩ, dám làm của các thế hệ thợ mỏ than Vàng Danh, biết phát huy cao độ
khẩu hiệu Kỉ luật - Đồng tâm để góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Từ lí do trên đây, chúng tôi chọn "Mỏ than Vàng Danh trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975)" làm Luận văn
Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tìm hiểu về hoạt động sản xuất và chiến đấu của công nhân nói chung,
công nhân ngành than nói riêng là đề tài thu hút được sự quan tâm của giới
nghiên cứu lịch sử ở cả Trung ương và địa phương.
Trong những thập niên gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
cuốn sách, bài viết, hồi kí.. của các học giả được công bố về hoạt động của
các mỏ than trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong đó có Mỏ
than Vàng Danh.
Đề tài lịch sử nghiên cứu về 21 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống

Mĩ cứu nước (1954-1975) đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu
lịch sử. Đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản có giá trị
khoa học và thực tiễn to lớn.
Trong những thập niên 90 của thế kỉ trước, Trung ương đã thành lập Ban
chỉ đạo tổng kết cuộc chiến tranh, xuất bản cuốn "Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mĩ - Thắng lợi và bài học", 1996; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên
soạn "Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", Tập 1 - Tập 2, (Nxb Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
thật, 1991); và "Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam", (Nxb Quân đội
nhân dân, 1997)…
Đề tài về cuộc kháng chiến chống Mĩ nhận được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà nghiên cứu. Văn Tiến Dũng biên soạn "Cuộc kháng chiến chống
Mĩ - Bước ngoặt lớn", (Nxb Sự thật, 1989) và "Cuộc kháng chiến chống Mĩ -
Toàn thắng", (Nxb Sự thật, 1991). Những công trình nghiên cứu trên đã cho
thấy sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng
thời ghi lại những dấu mốc lịch sử quan trọng có tính bước ngoặt của cuộc
kháng chiến. Nhà nghiên cứu Hồ Khang biên soạn "Tết Mậu Thân - Bước
ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", (2005); Phan Ngọc Liên
biên soạn "Hậu phương lớn - Tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước" (1954-1975),(2005)… Những tác phẩm của các nhà nghiên
cứu nêu trên, tuy không đề cập đến hoạt động của Mỏ than Vàng Danh nhưng
là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi tham khảo khi tìm hiểu, nghiên cứu
về quá trình chiến đấu của lực lượng tự vệ Mỏ than Vàng Danh chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ Mỏ và giữ vững nhịp độ sản xuất.
Ở địa phương, công tác chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh và các địa
phương, lịch sử các ngành, nghề, các nhà máy, xí nghiệp... rất được coi trọng.
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh biên soạn "Lịch sử phong trào công
nhân khu mỏ than Quảng Ninh", tập III (1820-1975), (1996); "Quảng Ninh
đất và người", (Nxb Lao động - Xã hội, 2005)..

Ngoài các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương,
hướng tìm hiểu về lịch sử phong trào công nhân cũng được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về đề tài này;
Hoàng Quốc Việt biên soạn "Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam trên con đường cách mạng dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội", (Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Sự thật, 1959); Hữu Tuấn biên soạn "Công nhân đô thị trên tuyến đầu Tổ
quốc" (Nxb Lao động xã hội,1965); Văn Tạo và Đinh Thu Cúc đồng biên
soạn "Giai cấp công nhân miền Bắc Việt Nam" (1955-1960) và "Giai cấp
công nhân miền Bắc trong thời kì khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế,
phát triển văn hoá" (1955-1960), (Nxb Uỷ ban Khoa học Xã hội, 1974); Lê
Duẩn với tác phẩm "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam và nhiệm vụ
của công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa", (Nxb Sự thật, 1975);
Hoàng Quốc Việt biên soạn "Vai trò, xứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân", (Nxb Lao động, 1976); Cao Văn Biền biên soạn "Giai cấp công nhân
Việt Nam thời kì 1936-1939", Uỷ ban KHXH Việt Nam, 1979); Ngô Văn
Hoà, Dương Kinh Quốc biên soạn "Giai cấp công nhân Việt Nam những năm
trước khi thành lập Đảng", (Nxb KHXH,1978); Thi Sảnh biên soạn " Lịch sử
phong trào công nhân Mỏ Quảng Ninh", tập 2, (1983); Phạm Quang Toàn và
Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên), "Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì 1945-
1954", (Nxb Khoa học Xã hội, 1987); Trần Văn Giàu biên soạn "Giai cấp
công nhân Việt Nam", (2003).
Từ năm 2002 trở lại đây, thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8-2002
của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công văn số 218 - CV/TG ngày 27-3-2006
của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
biên soạn lịch sử Đảng bộ", công văn số 367-CV/TU ngày 26-3-2008 của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ và lịch sử truyền thống", các đơn vị
cấp huyện và cơ sở trong tỉnh đã tiến hành sưu tầm biên soạn lịch sử Đảng và

lịch sử truyền thống. Đến nay, đã có 14/14 huyện, thị xã, thành phố biên soạn
và phát hành rộng rãi lịch sử đảng bộ cấp huyện; lịch sử kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị
xã Uông Bí biên soạn "Lịch sử Đảng bộ Thị xã Uông Bí", tập 1, (2006);
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
nhiều xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố biên soạn được lịch sử đảng
bộ xã. Đối với các mỏ than trên địa bàn tỉnh cũng rất coi trọng công tác biên
soạn lịch sử ngành, lịch sử truyền thống của đơn vị. Đến nay, các công ti than
Vàng Danh, Núi Béo, Cao Sơn, Đèo Nai, Cọc Sáu, Hòn Gai, Hà Tu, Hà Lầm,
Mạo Khê… lần lượt biên soạn lịch sử ngành. Riêng đối với Mỏ than Vàng
Danh, năm 2004, nhân dịp kỉ niệm 40 năm ngày thành lập đã biên soạn
"Truyền thống công nhân mỏ - Công ty than Vàng Danh", (1964-2004), (Nxb
Chính trị Quốc gia, 2004). Tiếp đó, vào năm 2009, Công ti than Vàng Danh
tiếp tục biên soạn " 45 năm truyền thống công nhân mỏ Công ti Cổ phần than
Vàng Danh - TKV (1964-2009)", (Nxb Chính trị Quốc gia, 2009) trên cơ sở
kế thừa nguyên bản từ cuốn sách trước (2004), được sưu tầm và biên soạn tiếp
giai đoạn 2004-2009. Hai cuốn sách cho đến nay viết về Mỏ than Vàng Danh
được các nhà nghiên cứu biên soạn theo phương pháp lịch sử truyền thống. Việc
Công ti than Vàng Danh xuất bản hai cuốn sách là cơ sở quan trọng để chúng tôi
tham khảo khi nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu để thực hiện đề tài này.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống Mỏ than Vàng Danh trong những năm 1965-
1975. Chúng tôi đánh giá rất cao những công trình kể trên và coi đó là những
nguồn tài liệu quý giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động sản xuất và chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975).
3.2 Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Mỏ than Vàng Danh xét theo giới hạn địa lí thời kì
1965-1975.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Thời gian: Từ năm 1965 đến năm 1975. Tuy nhiên, để làm rõ yêu cầu
của đề tài, Luận văn đề cập đến tình hình Mỏ than Vàng Danh thời gian trước
năm 1965.
3.3 Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát tình hình Mỏ than Vàng Danh từ cuối thế kỉ XIX đến trước
khi thành lập Mỏ. Đời sống khốn cùng của công nhân dưới bàn tay cai trị tàn
bạo của thực dân Pháp.
- Qúa trình thành lập Mỏ cùng với nhiệm vụ sản xuất và trực tiếp hai lần
đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.
- Sự đóng góp của Mỏ than Vàng Danh trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mĩ cứu nước nói chung và cách mạng giải phóng miền Nam nói riêng.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các văn kiện
Đảng, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lần về thăm
và nói chuyện với công nhân vùng Mỏ; các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học đã được công bố, các bài viết đăng trên tạp chí, các hồi kí,
bút kí cùng các nhân chứng lịch sử đã trực tiếp lãnh đạo hoặc tham gia vào
quá trình sản xuất, chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong những năm từ
1965 đến 1975.
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgic là chủ yếu. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,
tổng hợp cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngoài ra,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn nhân chứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn trình bầy một cách cơ bản và hệ thống quá trình thành lập
cũng như từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu để ổn định sản xuất
của Mỏ than Vàng Danh.
- Luận văn làm rõ vị trí, tầm quan trọng của mặt trận sản xuất than
cho đất nước, đặc biệt trong hoàn cảnh miền Bắc vừa có hoà bình, vừa
có chiến tranh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu để nghiên cứu, giảng dạy và học tập
lịch sử địa phương ở các trường chuyên nghiệp và phổ thông.
- Luận văn góp phần vào việc giáo dục truyền thống và niềm tự hào quê
hương, đất nước cho thế hệ trẻ, trước hết là các thế hệ công nhân Mỏ.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu thành 3 chương nội dung:
Chương 1: Mỏ than Vàng Danh trƣớc năm 1965.
Chương 2: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1965-1968.
Chương 3: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1968-1975.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Chƣơng 1
MỎ THAN VÀNG DANH TRƢỚC NĂM 1965
1.1 KHÁI QUÁT VỀ MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ PHÁP THUỘC
VÀ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1894 - 1954)
1.1.1 Mỏ than Vàng Danh trong thời thuộc Pháp (1894-1945)
Mỏ than Vàng Danh là một đơn vị kinh tế nằm trên địa bàn hành chính
phường Vàng Danh thuộc khu vực rừng núi Yên Tử - Bảo Đài. Mỏ than Vàng

Danh trong vòng cung Đông Triều, cách thủ đô Hà Nội 165 km, Hải Phòng
55 km và trung tâm thị xã Uông Bí 12 km. Về phía bắc, Mỏ giáp huyện Sơn
Động (Bắc Giang), phía nam giáp phường Bắc Sơn (thị xã Uông Bí), phía
đông giáp huyện Hoành Bồ và cách thành phố Hạ Long khoảng 50 km, phía
tây là khu danh lam thắng tích Yên Tử.
1.1.1.1 Tình hình khai thác của thực dân Pháp và các cuộc đấu tranh của
công nhân Mỏ than Vàng Danh
* Tình hình khai thác và chính sách bóc lột công nhân mỏ than Vàng
Danh của thực dân Pháp
Dưới thời Nguyễn, ở Vàng Danh chỉ có vài chục gia đình người Kinh
sống tập trung ở hai xóm thuộc Thượng Mộ Công, một số gia đình người Dao
ở Lán Tháp, Nam Mẫu trong khu vực núi Yên Tử. Khi đó, một số người Hoa
đã được triều đình cho phép khai thác than ở đây nhưng do sử dụng phương
pháp thủ công nên số lượng than khai thác được không đáng kể.
Nhận thấy Vàng Danh nằm trên bể than vùng Đông Bắc, theo mạch Cái
Bầu - Mạo Khê chạy dài 125 km chủ yếu là than đá ăngtơraxit chất lượng tốt,
nhiệt lượng cao, nên giới tư bản khai khoáng người Pháp tìm mọi thủ đoạn để
độc chiếm vùng mỏ này. Sau một thời gian vận động, ngày 15-2-1894,
Xalađanh đã được Toàn quyền Đông Dương ra nghị định nhượng bán cho khu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
vực đất mỏ nằm trên tổng Bí Giàng, thuộc huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên
với diện tích 1.080 ha.
Năm 1910, Đờrăngđông sang Việt Nam và bắt tay vào khảo sát khu vực
Vàng Danh-Uông Bí. Nhận thấy đây là vùng mỏ có trữ lượng cao về than đá
nên ông ta tìm mọi cách chiếm đoạt quyền khai thác. Và chỉ 2 năm sau
(1912), Đờrăngđông đã chiếm được mỏ Uông Bí-Vàng Danh. Năm 1914,
những mẻ than khai thác đầu tiên đã cho nhiều hứa hẹn, do đó đã thu hút
Thống đốc Nam Kì Bơlăngsa đờ la Bơrôsơ (Blanchard de la Broche) và viên
Thiếu tướng không quân Anbe Latasơ (Albert Latache) hùn được tất cả

2.500.000 phrăng để thành lập công ti. Do vậy, từ năm 1915, quyền khai thác
mỏ đã thuộc về Đờrăngđông. Ngày 18/4/1916 ,Công ti mỏ than Đông Triều
đã ra đời và trụ sở được đặt tại Hải Phòng, trong đó quản lí 3 cơ sở khai thác
là Uông Bí (1.800 công nhân), Vàng Danh khi đó gọi là Clotilde (Clôtinđơ,
8.700 công nhân) và cảng Điền Công.
Theo thống kê đề ngày 23/8/1925 của Công ti Mỏ than Đông Triều do
Đuycơrơ (Ducreux) kí, tại Mỏ Vàng Danh (Clotilde) từ năm 1918 đến
1/8/1925, thực dân Pháp đã khai thác 263.200 tấn, cụ thể như sau:
Đơn vị tính: tấn
1918 1919 1920 1921 1922 1923 1924 Tháng
7/1925
432 5.144 14.247 24.857 27.649 41.065 83.211 66.295

Việc khai thác than ở Vàng Danh hoàn toàn theo phương pháp thủ công.
Năm 1925, cảng Điền Công, Nhà máy điện 500KW, Trạm cơ khí Vàng Danh,
đường xe lửa nội bộ có 2 đầu tầu kéo lần lượt hoàn thành.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trong những năm 1926 - 1930, để phục vụ cho công cuộc khai thác than,
thực dân Pháp đã xây dựng xong Nhà máy sàng Vàng Danh, Nhà máy cơ khí
Uông Bí, Nhà máy điện 5000KW, đường xe lửa Vàng Danh - Điền Công và
bắt tay vào việc mở rộng Nhà máy cơ khí Uông Bí, xây dựng Nhà máy sửa
chữa đầu tầu, Nhà máy sửa chữa và đóng xe Barchice, Nhà máy đóng và sửa
chữa toa xe, hệ thống bể than bùn, cầu Uông Bí…
Đến năm 1931, sản lượng khai thác than ở khu vực Mỏ đạt 161.000 tấn.
Để tăng hơn nữa khối lượng khai thác, chủ Mỏ cho khôi phục lại phương
pháp bóc nóc các tầng than (dùng phần đất đá phá hoả của tầng lớp trên lấp
tầng dưới đã khai thác xong) để tránh rủi ro cho người đào lò, tiết kiệm vật
liệu. Nhờ cách làm này mà năng suất khai thác đã tăng lên đáng kể. Số vốn
của Công ti than Đông Triều tính đến ngày 1- 3- 1933, tăng đến 28.000.000

phrăng. Mặt khác, số kĩ sư, kĩ thuật viên và công nhân cũng tăng lên ở Vàng
Danh - Uông Bí. Ngoài đường xe lửa được mở rộng, thường xuyên có 44 đầu
máy hoạt động, chủ Mỏ còn đầu tư xây dựng Nhà máy đúc gang, Xưởng sửa
chữa xà lan với năng lực sửa chữa hằng năm là 30 xà lan và 4 tầu kéo. Trong
năm 1941 - 1942 lại cho xây dựng thêm Nhà máy đất đèn Vàng Danh, Nhà
máy giấy Uông Bí và mở thêm tuyến đường sắt sang tả ngạn sông Uông Bí.
Sự đầu tư vốn lớn đã mang lại cho chủ Mỏ kết quả là sản lượng khai thác than
ở Uông Bí - Vàng Danh từ năm 1937 đến 1942 một khối lượng than đáng kể,
được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây:
Đơn vị tính: tấn
1937 1938 1939 1940 1941 1942
482.600 458.300 562.600 484.800 383.580 144.200
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nhìn chung, sản lượng khai thác than hằng năm của Mỏ Vàng Danh -
Uông Bí là khá cao, chiếm 20% sản lượng khai thác than trên toàn Đông
Dương. Giai đoạn thịnh vượng nhất của Công ti than Đông Triều là trong
khoảng 15 năm, kể từ năm 1925 đến năm 1940, sau khi hoàn thành việc cơ
giới hoá, dây chuyền sản xuất đi vào ổn định và hoàn chỉnh. Công nhân được
hai mỏ thu hút có lúc lên tới 30.000 người (theo báo Bạn dân, số 20, ngày 29-
9-1937). Theo số thẻ phát cho thợ mỏ Vàng Danh - Uông Bí vào năm 1914 đã
có 93.000 người đến làm việc.
Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp
bước vào giai đoạn kết thúc thì số lượng tầu vào ăn than đã giảm đi rõ rệt. Lúc
này, than sản xuất ra không có nơi tiêu thụ, rơi vào cảnh đình trệ, công nhân
bị sa thải hàng loạt. Cùng với đó là nạn thổ phỉ nổi dậy cướp phá khu Mỏ
Vàng Danh, càng làm cho mọi hoạt động ở đây trở nên tiêu điều, khó khăn.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), thổ phỉ lại hoành hành dữ dội hơn.
Ngày nào ở đây cũng xẩy ra nạn giết người cướp của. Hơn thế nữa, nhà cầm
quyền Nhật còn cho lính tới Vàng Danh vơ vét tài sản do bọn chủ mỏ người

Pháp để lại, tổ chức bán số than tồn đọng. Như vậy, đến cuối năm 1944, thực
dân Pháp đã ngừng khai thác than ở Vàng Danh.
Để bảo vệ khu Mỏ cũng như kiểm soát công nhân, bọn chủ mỏ đã cho
lập hai đồn lính khố xanh ở Vàng Danh, biên chế một trung đội do một viên
quan người Pháp chỉ huy. Các đồn này còn phối hợp hành động với viên
Giám binh ở thị xã Quảng Yên. Ngoài ra còn nhiều lính khố xanh và khố đỏ
được sử dụng để canh gác các kho sở, kiểm soát an ninh. Về sau, số này được
thay bằng lính Ân Độ. Một hệ thống mật thám đông đảo với 40 nhân viên đặt
dưới sự chỉ huy của người Pháp và một quản lí người Việt. Các xóm thợ được
chia thành các bang, có nhiều cảnh sát người Việt, do Quản Đằng cầm đầu,
canh giữ lúc nào cũng tỏ ra hung ác, đến mức công nhân mỏ phải truyền tụng
câu ca:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
" Ở nhà sợ mẹ sợ cha,
Khi tới Uông Bí sợ dây da ông Quản Đằng "
Tác phẩm Qúa trình chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước đến
chủ nghĩa Mác-Lênin trong phong trào công nhân khu mỏ Quảng Ninh của
nhà nghiên cứu Thi Sảnh đã cho thấy, làm việc tại đây có 60% người thợ đến
từ tỉnh Thái Bình, Nam Định; người đến từ Kiến An khoảng 7%; người Hà
Nam khoảng 4,5%; người Ninh Bình 3,5%; Hưng Yên và Hải Dương - mỗi
tỉnh 2,5%. Với mỏ Uông Bí - Vàng Danh, ngoài nguồn công nhân tại chỗ
thuộc các huyện Yên Hưng, Đông Triều còn có tới 80% được tuyển từ các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hoá, Nghệ An. Phần lớn họ là những nông
dân bị bần cùng hoá. Công nhân mỏ phải lao động cật lực từ 10 đến 12 giờ
trong một ngày với đồng lương rẻ mạt. Trong những năm 1914 - 1926, tiền
công của thợ lò chỉ bằng 47% tiền công của thợ cơ khí, tiền công của thợ nhặt
than, đội than, làm đường còn thấp hơn, chỉ bằng 40% so với tiền công của
thợ cơ khí. Để giảm chi phí đến mức tối đa, bọn chủ còn tăng cường sử dụng
cả thợ đàn bà và trẻ em, số lao động này chỉ nhận được 30 - 50% tiền công so

với thợ đàn ông.
Tại Vàng Danh - Uông Bí, bọn chủ mỏ thực hiện chế độ cai thầu một
cách triệt để trong hầu hết các công việc nặng nhọc và lao động thủ công. Để
tiết kiệm nguyên liệu, vật tư, chủ mỏ thường cho mở những đường lò hẹp
khiến cho người thợ phải trườn bằng cùi tay và đầu gối để bò qua các mảnh
than đá sắc như dao mới vào được nơi cuốc than. Người thợ phải vác gỗ
ngược trong hầm có chỗ dốc tới 40
0
hoặc đẩy goòng trong những hầm lò chật
hẹp chỉ cao 1,3m, cõng vật liệu trên lưng đi bằng đầu gối và hai tay.
Để trả lương cho công nhân, chủ mỏ Vàng Danh còn thâm độc sử dụng
loại tiền 8 cạnh được làm từ kẽm hòm mìn. Chính vì thế, loại tiền này được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
công nhân gọi là tiền mìn, tiền xiềng xích vì nó không có giá trị sử dụng ở
ngoài khu vực Mỏ. Muốn tới Uông Bí hay về quê, phải xin phép đổi qua cai
thầu và chỉ được hưởng 80% giá trị thường dùng của loại tiền này.
Ngoài loại tiền mìn, chủ Mỏ còn dùng hình thức phát bông thay tiền
buộc, người thợ chỉ mua được hàng của các nhà thầu do chúng chỉ định với
giá cắt cổ. Những tờ bông này hoàn toàn không có giá trị đối với bên ngoài.
Công nhân Vàng Danh phải ở trong những túp nhà lụp xụp làm bàng tre
nứa hoặc xây gạch lợp tôn thấp lè tè, ngủ trên những chiếc giường cao ba
tầng. Cứ ba tầng giường hình thành một cặp gồm hai thợ xúc và một thợ vận
hành để khi làm thì chống được ba vì, lấy được 12 xe than. Thợ vận hành có
quần áo dài, còn thợ xúc chỉ quần đùi, áo may ô đi làm. Công nhân bị cấm tụ
tập quá năm người, giờ cấm không được ra đường phố. Khi làm việc, người
công nhân không được trang bị thiết bị an toàn. Do vậy, nhiều công nhân đã
bị chết do điện giật, xe lửa cán hoặc do sập lò.
Nhiều tài liệu khảo sát cho thấy, với số tiền lương ít ỏi như vậy, nhưng
người thợ không bao giờ được lĩnh đủ bởi sự bòn rút, bớt xén thường xuyên

của cai kí hay sự cúp phạt trắng trợn của bọn chủ Mỏ. Mặt khác, do công việc
ở Mỏ quá nặng nhọc, sinh hoạt lại thiếu thốn nên người thợ mỏ không đủ sức
để làm hết số ngày trong một tháng. Bởi vậy, đời sống của họ rất khốn đốn,
phải ăn cá dích thối, mặc bì gai, ở nhà cũi chó, thường xuyên bị các loại bệnh
tật hoành hành. Những chứng bệnh công nhân thường mắc phải là thương
hàn, sốt rét, dịch tả và những chứng bệnh nghề nghiệp như ho ra đờm đen,
khó thở, rối loạn tim đã giết dần giết mòn những người thợ mỏ. Cả khu mỏ
chỉ có một nhà bệnh, một bác sĩ và một y sĩ, thuốc men rất thiếu thốn. Ở Mỏ
Vàng Danh, tỉ lệ thợ mỏ hằng ngày chết rất cao vì bệnh tật, tai nạn lao động,
và bọn chủ mỏ đánh đập. Không người thợ nào ở mỏ sống qua tuổi 60. Hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
thế nữa, bọn chủ mỏ còn kiềm chế gắt gao người thợ trong giờ làm việc cũng
như những lúc về lán trại. Chúng tạo ra cảnh đám thợ này đối lập với đám thợ
kia, khuyến khích tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nhà thổ và tạo điều kiện cho tôn
giáo phát triển. Thợ mỏ không chỉ bị quản lí theo ca kíp mà còn bị quản lí rất
chặt chẽ trong các lán thợ. Ở Vàng Danh, họ phải sống chen chúc trong một
thung lũng hẹp chưa tới 1km
2
.
Trên một bài phóng sự đăng trên báo Đông Pháp số 3654 ra ngày 29-9-
1937, có đoạn viết:
"Một khoảng đất núi mênh mông hàng trăm km mà không khác gì một
khu nhà thu hẹp trong 4 bức tường. Mỏ muốn cho ai đến thì người đó được
đến còn nếu không đã có bọn mật thám riêng của Mỏ ngăn lại và đuổi đi. Từ
hôm xẩy ra cuộc đình công của phu Mỏ Vàng Danh, sự canh mỏ lại càng
nghiêm ngặt hơn mọi ngày. Các đầu đường vào Uông Bí và các chỗ xe song
loan (một loại xe goòng đặc biệt chuyên dùng để chở thợ mỏ đi làm) đỗ ở Mỏ
Vàng Danh đều có rất đông mật thám của sở mỏ và lính đứng đón để cấm
không cho người lạ mặt tới đất Mỏ…" [16, 27].

Cùng với thiên nhiên khắc nghiệt, "Ruồi vàng, bọ chó, gió Vàng Danh",
thì sự bóc lột tàn nhẫn của chủ Mỏ người Pháp đã khiến cho những ai đã
bước chân đến đây, nếu không gửi lại nắm xương thì cũng mang nhiều bệnh
tật, như sốt rét, tiêu chảy và thường xuyên phải nơm nớp lo sợ bị điện giật, xe
cán, sập lò hay bị đánh cho thân tàn ma dại… Câu ca ai oán ngày xưa vừa gợi
nỗi hờn căm , vừa là nỗi niềm thương cảm:
" Ai đi đến chốn Vàng Danh
Má hồng để lại, má xanh đem về "
Những thủ đoạn cai trị và bóc lột tàn bạo của bọn chủ Mỏ đã buộc người
công nhân không còn con đường lựa chọn nào khác là phải đoàn kết và tổ
chức đấu tranh để giành lấy tự do và quyền sống cho chính mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
* Phong trào đấu tranh của công nhân Mỏ than Vàng Danh.
Bước sang đầu thế kỉ XX, những thay đổi nhanh chóng từ tình hình trong
và ngoài nước đã có tác động đến nhận thức của những người thợ mỏ Vàng
Danh. Ngay trong năm 1928, một số hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên về vùng mỏ thực hiện vô sản hoá. Qua đó, một số công nhân đã
tìm được ánh sáng của cách mạng. Tiếp theo người thợ đường sắt Phạm Văn
Kiều được hội viên Trần Bá Dương giác ngộ, kết nạp rồi đến một số thợ tiện,
thợ nguội, thợ đường sắt cũng lần lượt gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên. Trong năm 1929, thông qua giao thông viên, hội viên Phạm Văn
Kiều đã liên hệ được với các đồng chí Đỗ Huy Liêm, Vũ Thị Mai để nhận
nhiệm vụ chuyển thư từ, tài liệu từ Hải Phòng về Vàng Danh.
Tháng 5/1929, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Bùi Đắc Thanh về
Mỏ Vàng Danh vừa thực hiện nhiệm vụ vô sản hoá, vừa tiến hành gây dựng
cơ sở cách mạng ở vùng mỏ. Tại đây, đồng chí đã thâm nhập vào hàng ngũ
những người thợ mỏ, cũng làm việc quần quật từ sáng tinh mơ cho đến chiều
tối, nhưng đêm đến vẫn không quên làm công tác tuyên truyền trong công
nhân. Nhờ tác phong cùng ăn, cùng ở, cùng làm rất sâu sát đó, đồng chí đã

giác ngộ và vận động được nhiều công nhân ưu tú hiểu biết về chủ nghĩa cộng
sản, sẵn sàng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vào dịp kỉ niệm 12
năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1929), tại Vàng Danh và nhiều nơi
khác trên đất Mỏ đã xuất hiện nhiều truyền đơn và áp phích cách mạng kêu
gọi công nhân mỏ vùng dậy đấu tranh đánh đổ ách thống trị và bóc lột của đế
quốc Pháp.
Trong hoàn cảnh đấu tranh sôi nổi đó, qua thực tiễn hoạt động, Chi
hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Vàng Danh-Uông Bí đã chuyển thành
Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, do đồng chí Bùi Đắc Thanh làm Bí thư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Một thời gian sau, đồng chí Bùi Đắc Thanh nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Đỗ
Huy Liêm lên thay.
Tháng 4/1930, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Vàng Danh-Uông Bí
lại được đổi tên thành Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối tháng 5/1930, cấp
trên quyết định thành lập Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí với ban lãnh đạo
gồm đồng chí Phạm Văn Ngọ làm Bí thư. Sự kiện này đánh dấu chuyển biến
quan trọng về tổ chức và chỉ đạo của Đảng ở nơi tập trung công nhân, là bước
chuẩn bị thành lập Đảng bộ Đặc khu Mỏ Đông Triều-Hòn Gai-Cẩm Phả.
Do địch khủng bố dữ dội, Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí bị phá vỡ
nhiều lần. Mỗi lần như vậy, Đảng uỷ lại nhanh chóng khôi phục để đi vào
hoạt động và chỉ đạo phong trào. Trong báo cáo của Trung ương Đảng, đến
tháng 10/1930, toàn bộ vùng Mỏ có 64 đảng viên thì mỏ Vàng Danh có 6
đảng viên, Mỏ Uông Bí có 12 đảng viên. Vào dịp kỉ niệm Cách mạng tháng
Mười Nga (7-11-1930), Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí đã có nhiều hoạt
động quan trọng, như tổ chức treo cờ Đảng, rải truyền đơn, dán áp phích kêu
gọi công nhân đấu tranh chống chủ mỏ, đòi không được lưu lương của thợ.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng uỷ, công nhân Uông Bí đã nhất tề nghỉ
việc đấu tranh chống chủ mỏ. Để hỗ trợ cho phong trào, Tỉnh uỷ Hải Phòng
đã cử đồng chí Phạm Văn Kiều chuyển một số tiền cho Đảng uỷ Mỏ Vàng

Danh-Uông Bí đem phân phát cho công nhân, giúp đỡ họ cho tới lúc đấu
tranh thắng lợi [30, 8].
Đầu năm 1931, Đảng bộ Vàng Danh-Uông Bí phát triển đến 24 đảng
viên. Tuy nhiên, do việc Trần Văn Trí đầu hàng, khai báo nên chỉ trong một
thời gian ngắn, nhiều cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ Đặc khu Mỏ đã sa vào
tay địch. Nhiều đảng viên chưa bị bắt cũng phải tạm lánh đi nơi khác, cơ sở
quần chúng ở nhiều nơi bị phá vỡ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Ngày 26-01-1931, nhà cầm quyền Pháp mở phiên toà đề hình tại Kiến
An để xét xử 72 đảng viên cộng sản bị bắt và giam giữ trong các đợt khủng bố
cuối năm 1930. Đồng chí Bùi Đắc Thanh - người chiến sĩ cộng sản trung kiên,
đã từng đảm nhiệm trọng trách Bí thư Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí đã
nêu cao tấm gương chiến đấu kiên cường của mình. Trong bài viết bằng tiếng
Pháp ngày 19-02-1931 có nhan đề " Khủng bố trắng ở Đông Dương ", lãnh tụ
Nguyễn Aí Quốc đã ghi lại lời tuyên bố đanh thép của đồng chí trước toà án
thực dân ở Kiến An: "Tôi có gan theo Đảng Cộng sản thì tôi cũng có can đảm
chịu lấy trách nhiệm, chúng tôi không xem cách mạng như một trò trẻ con"
[27, 69].
Tại Uông Bí, một số công nhân đứng ra tổ chức Nhóm nghiên cứu
Macxit bí mật, liên hệ với đồng chí Ninh Văn Phan - một tù cộng sản vừa ở
Nhà tù Côn Đảo trở về và xuống vùng Mỏ theo sự phân công của đồng chí
Hoàng Đình Giong [31, 1].
Trong năm 1935, phong trào cách mạng ở vùng Vàng Danh trở nên sôi
nổi hơn. Trong công văn mật của Sở Mật thám Hải Phòng ngày 19 - 11- 1935
gửi cho Công sứ Quảng Yên ghi rõ:
" Tôi hân hạnh báo để ông biết: một thông tín viên báo cho tôi biết là do
sự kích động của tên Đỗ Văn Chung, tổ trưởng tổ thợ lấy dầu ở mỏ Côtxôtin
(Cao Sơn) nên đã có những cuộc hội họp tổ chức ở Vàng Danh ( Quảng Yên)
Cuộc họp đầu tiên vào ngày 31 - 10 - 1935 tại nhà tên Đỗ Văn Chung có

những tên bản xứ sau đây tham dự: Đỗ Văn Chung, Phạm Văn Mạc, Nguyễn
Đình Nghiệp, Tường (cảnh sát mới ở Mỏ), Thăng, Trần Văn Thành, A Sinh,
Bút, Nền (giám thị), Tâm (nhân viên điện báo), Nguyễn Văn Đức (nhân viên
thư ký), Hùng (cai mỏ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Tất cả những tên bản xứ trên đây phải chăng đều là cựu binh sỹ hoặc
thiếu sinh quân thuộc loại đáng ngờ vực hoặc bị tình nghi.
Ngày 3 và 5 - 11 cũng có hai cuộc họp tại nhà chứa cô đầu.
Tên thông tín viên cho biết là không nắm được mục đích các cuộc họp đó
và vì sao nó được tổ chức rất kín đáo và bí mật " [16, 33].
Bước sang năm 1936, hoạt động đấu tranh có nhiều thuận lợi hơn trước,
các đồng chí như Nguyễn Huy Sán, Nguyễn Văn Hô, Lê Thanh Nghị đã từng
hoạt động ở Vàng Danh sau khi thoát khỏi các nhà tù của đế quốc lần lượt trở
lại khu Mỏ. Các đồng chí Tô Hiệu, Hoàng Văn Nọn, Lương Khánh Thiện
cũng được Xứ uỷ Bắc Kì cử về vận động và khôi phục phong trào cách mạng
ở Vàng Danh - Uông Bí.
Tháng 9 - 1936, Toà soạn báo Le Travail ( Lao động) cử cán bộ về
Mỏ Vàng Danh lập ra tổ chức Công hội, hướng dẫn phương pháp tổ chức đấu
tranh. Nhờ vậy, ngay lập tức thợ mỏ đã đấu tranh với chủ đòi tăng lương và
đã giành được thắng lợi bước đầu. Báo Đông Pháp cho biết:
" Ngót một vạn phu Mỏ Vàng Danh đình công dạo vừa rồi để đòi lương.
Sau cuộc điều đình của các nhà chức trách chủ Mỏ với các cai phu, cuộc đình
công kết thúc.
Chủ đã trả lương cho phu và khi đã lĩnh lương rồi thì quang cảnh tấp
nập. Hàng vạn phu làm ở mỏ đã đổi thay, người ta thấy trong Mỏ có phần
vắng bớt hai, ba nghìn phu với số tiền lương bỏ vào túi.
Rồi cũng sau ngày ấy, sự giữ gìn trật tự trong Mỏ người ta cũng lưu ý
lắm. Nào là lùng bắt các nhà trong Mỏ xem có tàng trữ những đồ vật hôm
đình công phu đã phá phách và lượm lặt của các cửa hiệu và nhà của những

viên thư ký và giám thị. Cũng vì sự lùng bắt gắt gao ấy mà những đồ dùng
đáng giá và tiền bạc các phu lấy được cũng không có chỗ cất " [16, 34].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Tháng 11 - 1936, dưới sự lãnh đạo của Công hội đỏ Hồng Gai, cuộc tổng
đình công của thợ mỏ " đã đạt được một thắng lợi rực rỡ, lần đầu tiên kỷ luật vô
sản đã thắng sự kháng cự của bọn chủ, khiến cho Đông Dương đã bị rung
chuyển bởi một làn sóng bãi công chưa từng thấy xưa nay và không một thuộc địa
nào của nước Pháp có thể so sánh nổi" (Báo Le Travail, ngày 27-11-1936).
Hoà vào không khí chung đó, công nhân Mỏ than Vàng Danh cũng ráo
riết chuẩn bị cho việc tham gia hưởng ứng cuộc tổng bãi công làm cho chủ
mỏ vô cùng hoảng sợ, phải đồng ý tăng lương đồng loạt 10% giống như ở
Mạo Khê và Uông Bí. Phát huy đà thắng lợi, nhiều hội viên Công hội đã bí
mật đến các lán vận động công nhân đấu tranh, đòi chủ phải thi hành luật làm
8 giờ và cấp thuốc cho thợ khi ốm đau, xây thêm nhà ở và mở trường học cho
con em thợ, không cúp phạt lương vô cớ và đánh đập thợ, lập nghiệp đoàn và
quỹ bảo hiểm cho công nhân già yếu [32, 1].
Các cuốn sách: "ABC Mácxít", "Tư bản hấp hối", "Bệnh ấu trĩ tả
khuynh", "Đời sống thợ thuyền Liên Xô"... cũng được bí mật đưa vào khu Mỏ.
Đại diện báo "Tương lai" đặt ở Hải Phòng là Lê Bá Chấn cũng vào Vàng
Danh tìm cách xây dựng các tổ chức nghiệp đoàn, ái hữu nhưng bị bọn chủ
mỏ và mật thám ngăn cản [33, 1].
Ngày 18-1-1937, hơn 9.000 công nhân hầm lò và 300 công nhân nhà
Sàng Vàng Danh lại đứng dậy đấu tranh đòi chủ mỏ phải tăng lương 27% như
thợ mỏ Hòn Gai, bãi bỏ các tên đốc công người Pháp và người Việt hay đánh
đập thợ, phát thuốc mỡ vàng hằng ngày và phát đủ đồ nghề cho thợ không
phải trả tiền.
Trước khí thế mạnh mẽ của cuộc bãi công, bọn chủ mỏ không dám
khủng bố, bọn tay chân cũng bỏ trốn. Một số tên chuyên bóc lột thợ thậm tệ bị
hỏi tội, tài sản bị phá. Hai đốc công gian ác người Việt bị đánh chết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Ngày 21-1-1937, chủ mỏ xin điều đình nhưng ngoan cố không chịu thoả
mãn các yêu sách. Cuộc bãi công tiếp tục. Công sứ Pháp ở Quảng Yên và Án
sát Cung Đình Vận đem theo hai cơ lính vào Vàng Danh vừa dụ dỗ, vừa đe
doạ khủng bố nhưng cuối cùng phải rút về nhiệm sở. Công nhân được bố trí
thường trực đấu tranh theo từng ca kíp. Việc chuẩn bị tiếp tế lương thực và vũ
khí tự vệ được tiến hành chu đáo. Cuối cùng, chủ Mỏ phải đồng ý thi hành
các điều nêu ra, tăng lương cho công nhân 20%. Ngoài các việc ngăn phòng,
làm thêm nhà, phát thuốc, phát giầy và dụng cụ, chúng còn phải bãi bỏ chế độ
thầu khoán. Chủ Mỏ trực tiếp trả lương theo mức thợ chống lò và cuốc than là
1$20/ngày, thợ đẩy xe goòng 0$95/ngày, thợ xúc đội 0$70/ngày. Tên đốc
công người Pháp tuy chưa bị đuổi, nhưng đã bớt hách dịch và đánh đập người
thợ hơn trước.
Đầu tháng 2- 1937, thợ Mỏ Uông Bí - Vàng Danh lại tổ chức đấu tranh
với chủ mỏ đòi được tiếp xúc với phái viên Giuytxtanh Gôđa từ Pháp mới
sang để điều tra về tình cảnh thợ thuyền ở Việt Nam.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ B, thuộc Xứ uỷ Bắc Kì, sự lăn lộn
với phong trào của các đồng chí cán bộ cách mạng mới thoát khỏi lao tù đế
quốc và thực tiễn của các cuộc đấu tranh, Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương
ở Vàng Danh - Uông Bí được tái thành lập, do đồng chí Nguyễn Huy Sán làm
Bí thư, sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Phương. Chi bộ Đảng ở Vàng Danh -
Uông Bí được Khu uỷ B chỉ đạo khá chặt chẽ. Đồng chí Tô Hiệu trực tiếp đến
Uông Bí nhiều lần để nắm tình hình sinh hoạt. Đồng chí Thành Ngọc Quản
(Đào Văn Trường), Trần Quang Huy thường xuyên về cơ sở, đem theo tài liệu
và chỉ thị của cấp trên để hướng dẫn Chi bộ hoạt động. Đồng chí Nguyễn Văn
Hách có nhiệm vụ giữ mạng lưới giao thông ở khu Mỏ và toàn bộ khu vực
Liên tỉnh B. Đồng chí Tô Quang Đẩu sinh hoạt trong Chi bộ với tư cách là đại
diện của báo "Đời nay" nhưng mới sinh hoạt được vài lần thì bị địch bắt. Nhờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
sự chỉ đạo trực tiếp đó, Chi bộ Đảng ở Vàng Danh - Uông Bí đã nắm vững
được tinh thần của các chủ trương và đường lối của Trung ương, nhận thức rõ
được việc cần hạn chế các hoạt động thuộc về bề nổi, tập trung vào việc bảo
vệ tổ chức.
Từ giữa năm 1937, Ban Giám đốc Công ti than Đông Triều thực hiện
chính sách giữ lương của công nhân, không trả hằng tháng mà 3 tháng mới trả
một lần. Đây thực chất vẫn là một thủ đoạn quen thuộc của bọn chủ Mỏ, đã
gây ra nhiều khó khăn cho công nhân. Do vậy, hàng ngàn công nhân đã tỏ thái
độ phản đối kịch liệt. Đồng tình với công nhân còn có cai thầu Vũ Xuân
Phương - còn gọi là sếp Sâm. Lợi dụng mối quan hệ họ hàng, đồng chí Vũ
Khắc Ca đã đề nghị Vũ Xuân Phương ủng hộ công nhân tiến hành cuộc bãi
công đòi chủ Mỏ phải trả lương đúng kì hạn và nhận được sự đồng ý. Hơn
thế, cai thầu Vũ Xuân Phương còn hứa thuê cả luật sư, cho vay tiền để mua
gạo dự trữ đề phòng khi chủ Mỏ cắt lương thực khi bãi công xẩy ra.
Tuy vậy, âm mưu bãi công của công nhân Mỏ than Uông Bí - Vàng Danh
đã bị bọn chủ mỏ phát hiện. Sở Cảnh sát Hải Phòng đã nắm được tình hình và
gửi thông báo về cho viên Phó Giám thị Cảnh sát Uông Bí. Trong nội dung
thông báo có đoạn: "Vào ngày 10 tháng này (tháng 7 năm 1937), tức là ngày trả
lương cho các phu mỏ, nếu Sở than Đông Triều không trả hết tháng cho các phu
mỏ đó thì sẽ có khoảng 700 phu làm việc ở mỏ Vàng Danh có thể tổ chức bãi
công. Những phu này đều làm dưới quyền Cai Xuân, họ hàng thân thiết của Vũ
Xuân Phương, tức sếp Sâm. Đã từ nhiều tháng nay, những người phu lò này mới
chỉ nhận được một phần lương của họ. Họ đã tính toán rằng Sở than Đông Triều
đã không trả đủ lương cho họ và tháng 7 là thời gian họ phải nộp thuế vì thế họ
có thể quyết định tổ chức cuộc tổng bãi công để phản đối" [13, 1].
Do sự phối hợp thiếu thống nhất, cuộc bãi công của gần một vạn công
nhân tham gia tới ngày 22-9-1937 mới nổ ra. Mục đích của cuộc bãi công để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23

chống lại việc chủ mỏ lưu lương ba tháng mới trả một lần và ép công nhân
phải mua hàng của chủ thầu với giá cao gấp nhiều lần giá thị trường. Mô tả
cuộc đình công này của công nhân Vàng Danh, báo Đông Pháp viết:
"…Trong khi họ đang làm giữ thì ông đồn trưởng và lính ở Uông Bí tới. Đang
hăng, họ không sợ gì súng ống, vây cả ông đồn và ném đá vào lính. Đã được
lệnh của Quan sứ Quảng Yên, dẫu gặp phải sự nguy đến bực nào cũng không
được bắn súng vào đám đông người nên lính chỉ bắn súng chỉ thiên để doạ
bọn phu làm dữ. Ông chủ mỏ và các người Tây làm ở Mỏ cũng bị phu ném đá
gạch vào nhà, vào người... " [16, 44].
Trước sự uy hiếp mạnh mẽ của công nhân, cuộc đình công đã thu được
kết quả bước đầu. Bọn chủ mỏ đã từng bước phải nhượng bộ, bắt đầu trả
lương cho công nhân, người nhận được 5 đồng, 10 đồng, có người chỉ nhận
được vài ba đồng. Tuy vậy, về căn bản các yêu cầu của công nhân đưa ra vẫn
không được giải quyết thoả đáng. Bọn chủ mỏ cấu kết với cảnh sát địa
phương nhanh chóng đàn áp cuộc bãi công. Lí giải cho nguyên nhân thất bại
của cuộc đình công năm 1937 của công nhân mỏ Vàng Danh, trong hồi kí
của đồng chí Nguyễn Văn Phương - một đảng viên làm việc tại Mỏ ghi rõ:
"Cuộc bãi công ở Vàng Danh năm 1937 có tính chất tự phát, không có sự
lãnh đạo của chi bộ. Công nhân Vàng Danh đã bỏ việc, đập phá, cướp các
cửa hiệu buôn. Do manh động, lại thiếu tổ chức nên bị địch khủng bố, cuộc
bãi công này nhanh chóng bị thất bại."
Bước sang năm 1938, Chi bộ Đảng ở Vàng Danh - Uông Bí đã tiến hành
nhiều hoạt động có ý nghĩa, như cổ động tuyên truyền cho hoạt động của Hội
Truyền bá Quốc ngữ, tham gia cuộc mít tinh ở nhà Đấu xảo Hà Nội nhân kỉ
niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5, dự đám tang chiến sĩ cách mạng Nguyễn
Thế Rục. Tháng 7-1938, Chi bộ đứng ra thành lập Đoàn Thanh niên Dân chủ
vùng mỏ Uông Bí - Vàng Danh với 16 đoàn viên. Ngày 04-05-1939, Chi bộ

×