Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

SKKN PHÁT TRIỂN NĂNG lực học SINH QUA PHƯƠNG PHÁP dạy học nêu vấn đề TRONG môn LỊCH sử 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 49 trang )

MỤC LỤC
Phần A

- Đặt vấn đề..........................................................................................2

I.Lý do chọn đề tài................................................................................................2
II.Lịch sử vấn đề...................................................................................................4
III.Mục đích nghiên cứu........................................................................................6
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................6
V.Đối tượng nghiên cứu........................................................................................6
VI.Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................7
VII.Phương pháp nghiên cứu................................................................................7
Phần B - Giải quyết vấn đề.................................................................................7
I. Cơ sở lý luận......................................................................................................7
II. Cơ sở thực tiễn................................................................................................11
1. Vài nét về thực trạng.......................................................................................11
2. Nguyên nhân của thực trạng này ...................................................................13
III.Nội dung vấn đề.............................................................................................14
1.Một số biện pháp phát triển năng lực của học sinh trong dạy học nêu vấn
đề.........................................................................................................................14
1.1.Mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử lớp 9 THCS......................................14
1.2.Các biện pháp................................................................................................14
1.3. Vận dụng những thành tố của dạy học nêu vấn đề vào một bài học cụ
thể........................................................................................................................20
2.Kết quả áp dụng................................................................................................27
3. Bài học sư phạm..............................................................................................28
4. Hiệu quả kinh tế - xã hội.................................................................................29
5.Điều kiện và khả năng áp dụng........................................................................29
Phần C: Kết thúc vấn đề...................................................................................31

-1-




“PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
QUA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ TRONG
MÔN LỊCH SỬ 9”
.................................................
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa,hiện đại hóa với mục tiêu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội
đối với lực lượng lao động là phải năng động, sáng tạo, có kiến thức cơ bản, làm
chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học
công nghệ. Để tạo ra lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đó, báo cáo của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã chỉ rõ: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo”.
Chính vì thế, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bên cạnh đổi mới nội
dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta trong thời kỳ mới. Việc đổi
mới phương pháp dạy học không chỉ ở những bộ môn được coi là quan trọng,
chính yếu mà đòi hỏi đổi mới phải đồng bộ ở tất cả các môn, trong đó có môn
Lịch sử.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười cũng đã từng nhấn mạnh: Phải coi trọng
giáo dục lịch sử dân tộc, coi lịch sử là tài nguyên giáo khoa số một trong nhà
trường. Nếu không làm tốt giáo dục Lịch sử trong nhà trường thì thanh thiếu
niên sẽ quên đi cội nguồn dân tộc. Bởi vậy, tri thức Lịch sử là một yếu tố của
nền văn hóa chung cho loài người.


-2-


Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên đã và đang
đổi mới cách dạy, tích cực áp dụng các phương pháp dạy học mới nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh như: dạy học nêu vấn đề, đưa học sinh vào các
tình huống có vấn đề, tạo hứng thú học tập cho học sinh rồi sử dụng hệ thống
câu hỏi, sử dụng tài liệu, tư liệu… Nhưng thực tế cho thấy hiện nay hầu hết các
em không thích học lịch sử vì có quá nhiều các sự kiện, các mốc thời gian mà
các em không thể nhớ được.Trong khi đó nhiều giáo viên truyền thụ lại những
nội dung được trình bày trong sách giáo khoa, học sinh nghe và ghi chép. Học
sinh được làm việc chung theo cả lớp, chưa được tổ chức làm việc theo nhóm và
ít được làm việc độc lập. Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử…không được
trình bày một cách cụ thể, sinh động; học sinh không được trực tiếp làm việc với
các sử liệu. Hoạt động nhận thức của học sinh chưa trở thành trung tâm của quá
trình dạy học lịch sử. Học sinh ít được giao nhiệm vụ và tạo điều kiện thuận lợi
để tự mình hình thành hiểu biết về quá khứ. Phương thức lĩnh hội bao trùm là
nghe và ghi nhớ; do đó, những kiến thức cơ bản không được lĩnh hội vững chắc,
những kỹ năng học tập Lịch sử không được hoàn thiện. Trong dạy học Lịch sử,
vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp đã không tận dụng khả năng tạo ra sự xúc
động, sự rung cảm của học sinh trước các sự kiện, hiện tượng, hành động lịch
sử…
Vậy làm thế nào để các em có hứng thú, say mê học môn Lịch sử. Muốn
học sinh ham học, thích học bộ môn Lịch sử đòi hỏi giáo viên phải có tâm
huyết, lòng say mê đặc biệt cần phải có phương pháp tốt biết gợi mở để cuốn hút
học sinh, dẫn dắt các em vào tình huống có vấn đề và hướng dẫn các em giải
quyết vấn đề để các em nắm bắt được tri thức lịch sử một cách dễ dàng và in sâu
trong tâm thức.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn lịch sử, tôi đã chọn vấn đề “Phát triển năng lực học sinh

qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9” làm sáng kiến
kinh nghiệm. Tôi hy vọng hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm có khả năng vận
dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình trong quá trình công tác và là một tài liệu

-3-


để đồng nghiệp tham khảo góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao
chất lượng bộ môn.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Lịch sử phát triển của giáo dục, Phát triển năng lực học sinh qua phương
pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp được quan tâm
nghiên cứu từ rất sớm cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích
cực của người dạy và người học. Tuy nhiên, tùy vào từng giai đoạn phát triển
của lịch sử, phương pháp nêu vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, người ta đã nhận thấy sự xuất hiện của phương pháp
nêu vấn đề trong cách dạy học trò của Khổng Tử.
V.Ôkôn trong cuốn “ Những cơ sở dạy học nêu vấn đề” đã đưa ra những
khái niệm về vấn đề, dạy học nêu vấn đề, những cơ sở của dạy học nêu vấn đề,
lịch sử của dạy học nêu vấn đề.
I.Ia.Lecne trong cuốn “ Dạy học nêu vấn đề” nên cạnh việc đưa ra những
khái niệm quan trọng về dạy học nêu vấn đề, tình huống có vấn đề, tác giải còn
đi sâu nghiên cứu và làm rõ nguồn gốc, chức năng, bản chất, phạm vi ứng dụng
của dạy học nêu vấn đề.
Trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử tập 1” của các tác
giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã khẳng
định: “Khi hướng dẫn học sinh nắm kiến thức cơ bản, giáo viên cần chú ý đến “
nhu cầu tư duy” của học sinh, khi các em tiếp thu kiến thức mới, hoặc muốn

hiểu sâu sắc, làm phong phú hơn kiến thức đã biết. Trong trường hợp này ở học
sinh xuất hiện những thắc mắc, những vấn đề được đặt ra để giải quyết. các nhà
giáo dục học gọi trường hợp như trên là tình huống có vấn đề. Trong dạy học
giáo viên luôn luôn chú trọng khêu gợi học sinh đặt vấn đề tìm hiểu, không dừng
ở việc thụ động tiếp thu. Đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết là một yếu tố
quan trọng để học tập thông minh, chủ động. Vấn đề đặt ra là phải nhằm vào bản
chất, những điều quan trọng để hiểu sự kiện, chứ không phải là những chi tiết
vụn vặt, hình thức bên ngoài. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết

-4-


vấn đề, sau đó tiếp thụ và củng cố kiến thức mới…Cách dạy học như vậy được
gọi là dạy học nêu vấn đề, khác hẳn với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ
biết nghe, ghi, nhớ mà lười suy nghĩ. Dạy học nêu vấn đề sẽ phát huy tính tích
cực tự nhận thức của học sinh.Một trong những đặc trưng cơ bản của việc phát
triển tư duy của học sinh là phát huy năng lực độc lập học tập, phát triển trí
thông minh óc sáng tạo của các em trong việc biết đặt vấn đề, tự giải quyết vấn
đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên và trao đổi với bạn học.
Về bản chất, Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học
cụ thể mà là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học
liên kết với nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và
tổ chức, thúc đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải quyết vấn đề.”…
Trong cuốn: “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Lịch
sử” của tác giả Nguyễn Hải Châu có viết: “Nhiệm vụ của người giáo viên trong
dạỵ học truyền thống là người truyền đạt kiến thức cho học sinh. Kiến thức đã
được giáo viên chuẩn bị sẵn và cung cấp cho học sinh ở trên lớp theo kiểu giáo
viên giảng (đọc), học sinh chép. Giáo viên là người có sứ mạng truyền thụ kiến
thức cho học sinh, là trung tâm của giờ học, còn học sinh đóng vai trò thụ động,
chờ đợi kiến thức do người giáo viên cung cấp. Nhưng tri thức loài người ngày

càng phát triển phong phú, trong một thời lượng cho phép hết sức hạn hẹp, giáo
viên không thể cung cấp cho học sinh tất cả những gì thuộc về chuyên môn của
mình. Hơn nữa, nếu có cung cấp được thì những kiến thức do giáo viên đưa ra,
học sinh tiếp thu một cách thụ động, sẽ không vững chắc trong nhận thức của
học sinh.
Khoa học giáo dục đã chỉ ra rằng, quá trình học phải là một quá trình chủ
động lĩnh hội kiến thức của học sinh, phải là quá trình tự đào tạo thì việc nắm
kiến thức mới lâu dài và bền vững. Đã từ lâu các nhà giáo dục đã khởi xướng
một kiểu dạy học mới, theo đó thay đổi hẳn quan niệm về vị trí của người giáo
viên ở trên lớp. Giáo viên từ vai trò là trung tâm lớp học, người giữ đặc quyền
trong việc cung cấp kiến thức có sẵn cho học sinh trở thành người tổ chức
hướng dẫn học sinh tự tìm đến kiến thức, biến việc học trở thành một nhu cầu tự

-5-


thân. Có nhiều cách gọi khác nhau về kiểu dạy học này như: “dạy học lấy học
sinh làm trung tâm” “ dạy học tích cực”, “dạy học tự học”, “dạy học nêu vấn
đề”, “dạy học Ơritic”…Dù có tên gọi khác nhau, nhưng nội dung cơ bản của các
quan niệm dạy học này đều nhằm đến mục tiêu là phải tích cực hoá hoạt động
nhận thức của học sinh, biến việc học tập của học sinh trở nên hứng thú, trở
thành nhu cầu của chính người học”.
Đặc biệt cuốn “Tài liệu dạy học và kiểm tra, đanh giá kết quả học tập theo
định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử” của Bộ giáo dục và đào
tạo đã gợi mở các biện pháp nhàm phát huy năng lực của học sinh cấp THCS.
Đánh giá: Những công trình nghiên cứu một trong những cơ sở gợi mở
giúp tôi tìm tòi được hướng giải quyết thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này.
Tuy nhiên các tác giả của các công trình nói trên mới đề cập một cách chung
chung, giải quyết về mặt lý luận mà chưa đề cập cụ thể việc "Phát triển năng lực
học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề trong bộ môn lịch sử 9 THCS”.

Hoàn thành vấn đề này, với tôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có thể vận dụng
lý luận vào dạy học và khả năng vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của bản thân
trong quá trình công tác.Đây chính là lý do giúp tôi tiếp tục đi sâu và làm sáng
tỏ vấn đề.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong bộ môn Lịch sử 9 nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, khắc
phục tình trạng dạy học theo kiểu giáo điều, nhồi sọ, giáo viên đọc cho học sinh
chép những kiến thức có sẵn...
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Qua thực tế giảng dạy tôi thấy việc đổi mới phương pháp là rất quan
trọng. Đó là vấn đề đã được đề cập đến nhưng tôi thấy chưa thật hiệu quả. Tôi
nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra phương pháp, giải pháp phù hợp đối với một
giờ dạy nhằm “Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu
vấn đề trong bộ môn lịch sử 9 THCS”
V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

-6-


Là “Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề
trong bộ môn lịch sử 9 THCS”
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Cụ thể là các bài giảng trong chương trình lịch sử 9 THCS
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết vÊn ®Ò, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về những vấn đề liên quan đến đề tài của
những nhà khoa học giáo dục lịch sử ở nước ta.

- Nghiên cứu lý luận các quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng ta bàn về giáo dục.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm về các biện pháp có liên quan đến đề
tài, so sánh đối chiếu với lớp đối chứng để rút ra kết luận.
- Tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn dạy học lịch sử ở nhà trường phổ
thông.
Đề tài được viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát, khảo sát, so sánh.
- Phương pháp phỏng vấn, điều tra.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp tổng hợp.
- Ph-¬ng ph¸p ph©n tÝch
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm
năng lực được sử dụng như sau: năng lực liên quan đến bình diện, mục tiêu của
dạy học, mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;
năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn…
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là
nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học liên kết với

-7-


nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tổ chức, thúc
đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải quyết vấn đề thông qua đó để
hình thành và phát triển các năng lực của học sinh.
Những vấn đề lý luận và vận dụng của dạy học nêu vấn đề đã được các
nhà giáo, các nhà sư phạm quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, có rất nhiều cách
giải thích khác nhau, quan niệm về dạy học nêu vấn đề cũng khá phong phú.

Chúng ta có thể điểm qua một số quan niệm về dạy học nêu vấn đề của một số
tác giả trong và ngoài nước như sau:
Nhà giáo dục học Ba Lan V.Ôkôn cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là toàn
bộ các hoạt động như tổ chức tình huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý
giúp đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách
giải quyết đó và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các kiến thức
tiếp thu được”
I.Ia. Lecne trong cuốn “Dạy học nêu vấn đề”, ông cho rằng dạy học nêu
vấn đề là trong quá trình học tập, “học sinh giải quyết một cách sáng tạo các loại
vấn đề và các bài toán có vấn đề trong một hệ thống nhất định, thì diễn ra sự lĩnh
hội sáng tạo các tri thức và kỹ năng, sự nắm những kinh nghiệm mà hoạt động
sáng tạo của xã hội tích luỹ được, sự hình thành nhân cách có tính tích cực của
công dân”. Như vậy, theo Lecne, trong dạy học nêu vấn đề phải có vấn đề và các
bài toán có vấn đề, học sinh giải quyết các vấn đề này một cách sáng tạo.
Theo các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng trong giáo trình
“Phương pháp dạy học Lịch sử” đã nêu quan niệm về dạy học nêu vấn đề: “
Trong dạy học, giáo viên luôn chú trọng khơi gợi học sinh đặt vấn đề tìm hiểu,
không dừng ở việc thụ động tiếp thu đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết là
một yếu tố quan trọng để hiểu sự kiện chứ không là những chi tiết vụn vặt, hình
thức bên ngoài. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết vấn đề,
sau đó tiếp thu và củng cố kiến thức mới. cách dạy học như thế gọi là dạy học
nêu vấn đề”.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo: “ Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy
học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một

-8-


cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ
bản sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc

những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo
và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ”.
Từ những ý kiến trên đây về dạy học nêu vấn đề, chúng ta có thể thấy:
Dạy học nêu vấn đề là một quan niệm dạy học, trong đó, việc phát triển tư duy
sáng tạo, độc lập suy nghĩ, khơi gợi nhu cầu, hứng thú học tập của học sinh được
đặt lên hàng đầu. Vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc biệt
trong việc tạo ra tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết sáng tạo
vấn đề đó.
Dạy học nêu vấn đề là cách tổ chức dạy học gồm 3 yếu tố cơ bản: tình
huống có vấn đề, biểu đạt vấn đề đưa học sinh vào tình huống có vấn đề và tổ
chức, hướng dẫn giúp học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo trong giải quyết vấn
đề.
Như vậy dạy học nêu vấn đề thể hiện quan niệm đúng đắn cho rằng, học
sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của giáo dục và được thực hiện với những
bước đi, biện pháp sư phạm hợp lý. Đồng thời, nó cũng bồi dưỡng cho học sinh
hứng thú tìm tòi, nghiên cứu lịch sử, được tập luyện dần dần với phương pháp
nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
Dạy học nêu vấn đề có những yếu tố cơ bản sau:
* Vấn đề:
Có nhiều cách hiểu thuật ngữ “vấn đề” nhưng hiểu theo nghĩa dùng trong
giáo dục thì vấn đề là bài toán mà chủ thể chưa biết ít nhất một phần tử của
khách thể, mong muốn tìm phần tử chưa biết đó dựa vào những phần tử biết
trước nhưng chưa có trong tay thuật giải. Hay có thêt hiểu:Vấn đề là những mâu
thuẫn tự nhiên và xã hội đặt ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Vấn đề mang
tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
* Điều kiện để có tình huống có vấn đề:
Trước hết tình huống phải tồn tại một vấn đề: Đây là vấn đề trung tâm
của tình huống.Tình huống phải chứa đựng một mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn

-9-



giữa trình độ kiến thức sẵn có của bản thân với yêu cầu lĩnh hội kiến thức, lĩ
năng mới. Hay nói cách khác, tình huống có vấn đề là học sinh phải nhận ra
được có ít nhất một phần tử nào đó của khách thể mà học sinh chưa biết và cũng
chưa có thuật giải nào để tìm phần tử đó.
Tình huống phải gợi nhu cầu nhận thức: Tình huống có vấn đề phải
chứa đựng một vấn đề tạo ra sự ngạc nhiên, hứng thú, hấp dẫn, thu hút sự chú ý
của học sinh. Hay nói cách khác là phải gợi nhu cầu nhận thức ở học sinh, làm
cho học sinh cảm thấy cần thiết phải giải quyết. Chẳng hạn tình huống phải bộc
lộ sự khiếm khuyết về kiến thức, kĩ năng để học sinh thấy cần thiết phải chiếm
lĩnh tri thức để lấp đầy những khoảng trốngđó nhằm tự hoàn thiện hiểu biết của
mình bằng cách tham gia giải quyết vấn đề nảy sinh. Nếu tình huống đưa ra
nhưng không khơi dậy ở học sinh nhu cầu phải tìm hiểu, họ cảm thây xa lạ và
không liên quan gì đến mình thì chưa được gọi là tình huống có vấn đề.
Khơi dậy niềm tin ở khả năng bản thân: Tình huống có vấn đề phải phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh, nó không được vượt quá xa tầm hiểu
biết của học sinh vì nếu như vậy học sinh sẽ thấy hoang mang, bế tắc, không sẵn
sàng tham gia giải quyết vấn đề. Nếu tình huống quá dễ thì học sinh không cần
suy nghĩ mà cũng có thể giải quyết được vấn đề thì yêu cầu của giờ học không
được thỏa mãn.
Như vậy tình huống cần khơi dậy ở học sinh cảm nghĩ là tuy họ chưa có
ngay lời giải nhưng bằng kiến thức sẵn có của chính mình cùng với sự tích cực
suy nghĩ thì sẽ có hy vọng giải quyết được vấn đề đó.Với suy nghĩ đó học sinh
sẽ tận lực huy động tri thức và kĩ năng sẵn có liên quan đến vấn đề đó của bản
thân để giải quyết vấn đề đặt ra.Qua đó tạo cho học sinh niềm tin vào khả năng
của bản thân, đây là vấn đề quan trọng của tình huống có vấn đề.
* Biểu đạt tình huống vấn đề trong bài giảng của giáo viên:
Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học nêu vấn đề đặt ra
yêu cầu cao đối với người giáo viên. Khi có tình huống có vấn đề giáo viên phải

tìm cách biểu đạt như thế nào để quá trình dạy học nêu vấn đề diễn ra có hiệu
quả. Giáo viên xem học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Các hình thức

-10-


mà giáo viên thường tổ chức cho học sinh phát hiện vấn đề đó là học lý thuyết
và làm bài tập. Giáo viên luôn thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích
cực để phù hợp với hoạt động học tập của học sinh giúp học sinh tiếp thu kiến
thức một cách dễ dàng và triệt để.
Trong bài giảng của mình, giáo viên phải đặt học sinh vào trạng thái tâm
lý đặc biệt - một trong các điều kiện để có dạy học nêu vấn đề. Lúc đó ở học
sinh xuất hiện thắc mắc, hoài nghi, mâu thuẫn trong nhận thức. Vì thế, học sinh
tò mò, nhu cầu nhận thức cái chưa biết nhưng cần phải biết xuất hiện. Điều quan
trọng là giáo viên phải khéo léo đặt ra vấn đề và gợi hứng thú nhận thức ở học
sinh. Học sinh chỉ hứng thú nghe giáo viên giảng bài khi bài học cung cấp
những kiến thức mới, khi giáo viên có phương pháp giảng dạy sinh động, lôi
cuốn, kích thích học sinh tìm tòi, học hỏi thêm ngoài những điều đã lĩnh hội trên
lớp.
Cũng qua bài trình bày, giáo viên phải nêu được “vấn đề” trong tình
huống có vấn đề, tức là những kiến thức có tính trừu tượng, khái quát nhất định.
Những vấn đề này học sinh chưa biết nhưng do yêu cầu nhận thức, bắt buộc học
sinh phải biết. Cần chú ý thêm rằng, “ vấn đề” trong tình huống có vấn đề phải
vừa sức với học sinh.
Trong dạy học nêu vấn đề, giáo viên có thể đặt ra những tình huống có
vấn đề cơ bản và những tình huống phụ trợ để giải quyết tình huống có vấn đề
cơ bản.
Bài trình bày của giáo viên khi gợi ra những tình huống có vấn đề phải
tạo ra được bầu không khí sáng tạo, sinh động trong lớp học. Từ đó, các em sẽ
hứng thú say mê trong việc tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mới.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Vài nét về thực trạng

- Về phía giáo viên:
Đổi mới phương pháp dạy học là xu thế của thời đại, là trào lưu chung của
loài người, là mệnh lệnh của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là sự đòi hỏi của sự đáp ứng yêu cầu về đào tạo nguồn
-11-


nhân lực trong điều kiện thị trường lao động đầy cạnh tranh của con em chúng
ta,...chứ không phải là ý muốn chủ quan của một người hoặc một nhóm người
nào đó.
Trong mấy năm qua, bộ môn lịch sử đã đổi mới nhiều trong các khâu cơ
bản của quá trình dạy học. Bài học học lịch sử diễn ra sinh động, hấp dẫn, không
khí học tập sôi nổi, hứng thú, học sinh tích cực làm việc một cách độc lập, có
phần sáng tạo. Nhiều giáo viên dạy sử có năng lực tổ chức quá trình học tập theo
quan niệm sư phạm hiện đại, vận dụng các phương pháp mới đạt hiệu quả, bên
cạnh những cách dạy học truyền thống; có nhận thức đúng đắn về đổi mới
phương pháp dạy học. Đặc biệt, một số giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy
học nêu vấn đề có hiệu quả góp phần quan trọng vào việc rèn luyện năng lực
tích cực, độc lập suy nghĩ trong việc giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy
cho học sinh trong quá trình học tập; giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu sắc, đầy
đủ hơn hệ thống kiến thức của môn học, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư duy,
loogic…Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần
trong lao động học tập, thái đội vượt khó nói riêng. Năm học 2014-2015, Bộ
giáo dục triển khai việc đổi mới trong dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát
triển năng lực của học sinh. Bên cạnh việc cải tiến các phương pháp dạy học
truyền thống, kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học thì việc vận dụng
phương pháp dạy học nêu vấn đề góp phần quan trọng trong việc phát triển năng

lực tư dạy, khẳ năng nhận biết và giải quyết vấn đề của học sinh.
Song đôi khi vì nhiều lí do, cách dạy học này đối với giáo viên không
phải lúc nào cũng thành công. Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở
trường THCS chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là
phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên
chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về
truyền thụ kiến thức lí truyết. Việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết
các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng
hợp chưa thực sự được quan tâm.

-12-


Trên thực tế có nhiều giáo viên đã sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn
đề, tuy nhiên sử dụng phương pháp dạy học này để phát triển năng lực cho học
sinh một cách có hiệu quả nhất thì còn nhiều hạn chế.
- Về phía học sinh: Các em thường hay rụt rè khi được yêu cầu phát biểu,
thường chỉ 1 vài em tích cực từ đầu năm đến cuối năm luôn luôn phát biểu, còn
có em ngại nói, ít tư duy, nếu thầy, cô không quan tâm tới có khi cả năm chẳng
phát biểu bao giờ. Vì vậy phần lớn học sinh ngại học lịch sử, không thích học
lịch sử. Hầu hết các em coi môn sử là môn phụ không cần học, nếu học chỉ để
cho đủ điểm, không cần đọng lại gì trong đầu. Học sinh học lịch sử một cách thụ
động, chỉ biết ghi chép như một cái máy, học thuộc như một cái máy....
Tại sao học sinh lại không yêu thích với môn lịch sử, giờ học lịch sử?
Phải chăng là do phía người dạy hay sách giáo khoa. Vì vậy, tôi đã làm phiếu
điều tra trước khi thực hiện đề tài.
PHIẾU ĐIỀU TRA
(Em hứng thú hoặc quan tâm đến nội dung nào sau đây, hãy đánh dấu x vào ô
trống trong bảng)

Nội dung

Không
Em có quan tâm đến bộ môn lịch sử trong trường học
95/150
55/150
Em có yêu thích giờ học lịch sử
80/150
70/150
Đã khi nào em tự đặt câu hỏi về một sự kiện lịch sử
65/150
85/150
Đã khi nào em tự tìm hiểu về một sự kiện lịch sử
50/150
100/150
Qua kết quả điều tra, số học sinh yêu thích môn lịch sử chưa nhiều và tự đặt vấn
đề, tự tìm hiểu về một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử lại càng ít hơn.
2. Nguyên nhân của thực trạng này
Sở dĩ có tình trạng trên vì cách dạy học nêu vấn đề cần rất nhiều thời gian,
đòi hỏi người giáo viên phải tính toán thật kỹ khi xây dựng tình huống. Bởi nếu
tình huống không vừa sức với học sinh hoặc là quá khó hoặc là quá dễ cũng sẽ
không động viên học sinh tham gia tích cực vào quá trình nhận thức tri thức
mới. Hơn nữa nếu đã tốn nhiều thời gian xây dựng mà không khuyến khích
người học tích cực sẽ tạo cho người thầy có tâm lý chán nản, dần dần ngại xây
dựng tình huống có vấn đề. Đồng thời việc thực hiện này ở trên lớp cũng mất
nhiều thời gian, nếu không khéo sẽ dẫn đến cháy giáo án, khó thành công một
-13-


giờ dạy. Nhiều giáo viên xây dựng tình huống nhưng thực tế lại không khéo léo

dẫn dắt thành ra lại khiến vấn đề trở nên rắc rối, khó hiểu, thậm chí lại có kết
quả ngược lại so với mong muốn.
Chính vì thế, nhiều giáo viên xây dựng các tình huống trong dạy học nêu
vấn đề ở bộ môn Lịch sử không được thường xuyên, mà chỉ là để thực hiện
trong các giờ hội giảng, chuyên đề, hoặc có xây dựng tình huống nhưng chỉ là để
đối phó trong giáo án mà thôi. Hơn nữa, cũng xuất phát từ thực tế quan niệm
trong xã hội về môn học: xem nhẹ, không bằng những môn học thời thượng; nên
giáo viên cũng thiếu nhiệt tình.
Còn các em học sinh được học ở những giờ dạy đó đều được nâng cao
hơn về khả năng giao tiếp trước tập thể, tính tích cực và sáng tạo có điều kiện để
thể hiện. Những kiến thức các em tự mình nhận ra và tự mình ghi nhớ nên được
nhớ sâu sắc hơn. Tuy nhiên, không phải giờ học nào cũng được học như thế nên
các em mong muốn có nhiều giờ dạy hay và hứng thú, có nhiều tình huống cho
các em tham gia giải quyết để nâng cao khả năng tự nhận thức cho mình. Nhưng
bên cạnh đó vẫn còn 1 số em không thích học môn sử vì bố mẹ hoặc xã hội
không trọng; hoặc 1 số em chưa thật sự mạnh dạn, nhận thức quá kém so với các
bạn cùng trang lứa (hạn chế của vùng nông thôn miền núi nghèo) nên còn chưa
nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cách dạy học này, vì thế mà chính kiến
không rõ ràng.
III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ
1. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC NÊU VẤN ĐỀ.

1.1.Mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử lớp 9 THCS (Phụ lục)
1.2. Các biện pháp:
Phương pháp dạy học nêu vấn đề sẽ đặt học sinh trong một tình huống có
vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải
quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức.
Dạy học nêu vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức cảu
học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực


-14-


khác nhau của học sinh. Qua thực tiễn giảng dạy của bản thân trong dạy học
Lịch sử lớp 9, tôi đã đúc rút được các biện pháp sau nhằm phát huy năng lực của
học sinh:
a. Biện pháp 1: Trao đổi, đàm thoại trong dạy học lịch sử: Đây là công việc
mà giáo viên nêu ra các câu hỏi để học sinh lần lượt trả lời, đồng thời các em có
thể trao đổi với nhau, dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó đạt được mục đích dạy
học nêu vấn đề.
Việc trao đổi, đàm thoại trong dạy học Lịch sử được tiến hành dưới các
dạng chủ yếu sau:
+ Tái hiện sự kiện lịch sử: Qua trao đổi giữa giáo viên và học sinh nhằm
gợi lại những kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới để khái quát hoá và hệ
thống hoá kiến thức. Nó giúp cho học sinh củng cố, hiểu sâu hơn kíến thức cũ,
làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức mới, không bị gián đoạn trong nhận thức.
Việc trao đổi tái hiện sự kiện lịch sử cũng có thể tiến hành ở đầu giờ để giới
thiệu bài mới hoặc trong tiến trình bài giảng để củng cố hay khẳng định sự kiện,
lúc ấy giáo viên cần nhắc lại kiến thức cũ, để học sinh nhận thức được liên tục,
có hệ thống.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Nước Mĩ ”, giáo viên cho học sinh quan sát bức
tranh Mĩ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản sử dụng câu hỏi tái hiện như sau:
Bức tranh mà em đang quan sát gợi cho em nhớ đến sự kiện nào? Sau khi học
sinh nhớ lại và trả lời giáo viên hỏi tiếp:Các em hãy cho biết: Nước Mĩ đã thu
được những lợi nhuận gì sau chiến tranh?
Đó là tình huống có vấn đề mà HS buộc phải nhớ lại kiến thức và trả lời:
Nước Mĩ buôn bán vũ khí thu được 114 tỉ USD, chiến tranh ít tàn phá......
? Vậy những điều kiện thuận lợi đó giúp nền kinh tế Mĩ phát triển như thế
nào? sau chiến tranh thế giới thứ II thì chính sách đối nội, đối ngoại của giới

cầm quyền Mĩ thực hiện ra sao?..... GV dẫn dắt vào bài hôm nay. Như vậy HS sẽ
nắm kiến thức 1 cách có hệ thống, liên tục.

-15-


Hình ảnh Mĩ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hi-rô-si-ma của Nhật
+ Phân tích và khái quát hoá: Qua trao đổi, đàm thoại nhằm làm cho học
sinh tiếp thu kiến thức trình bày, hiểu được tính logic, bản chất của sự kiện lịch
sử. trong việc trao đổi này, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích và đánh giá
các sự kiện lịch sử.
Câu hỏi nêu ra để học sinh trao đổi kiểu này thường liên quan đến các sự
kiện cơ bản đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp của nhiều hiện tượng, để tìm ra tính
logic, bản chất của sự kiện đó.
Ví dụ: Khi dạy bài 24: “Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính
quyền dân chủ nhân dân (1945 – 1946) ” Phần VI. GV đặt câu hỏi để hướng
dẫn HS thảo luận nhóm và phân tích:
? Tại sao nói việc ký hiệp định sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946 là chủ
trương hết sức sáng suốt của Đảng ta? Trước tình huống này, HS phải vận dụng
kiến thức của các sự kiện liên quan.

-16-


GV có thể gợi mở bằng hệ thống câu hỏi: Quân Tưởng và quân Pháp có
âm mưu gì để chống phá cách mạng nước ta? ( Kí hiệp ước Hoa-Pháp bắt tay
chống phá cách mạng nước ta...)
? Cùng một lúc chúng ta có thể đối đầu với nhiều kẻ thù hay không?
(Chúng ta phải đuổi được 20 vạn quân Tưởng về nước......).
Như vậy qua 2 câu hỏi gợi mở trên, chắc chắn HS sẽ giải quyết được vấn

đề mà giáo viên đưa ra ở đầu mục Phần VI: Tại sao nói việc ký hiệp định sơ bộ
ngày 06 tháng 3 năm 1946 là chủ trương hết sức sáng suốt của Đảng ta? (Tránh
phải đối đầu với nhiều kẻ thù, việc ký hiệp định ta đuổi nhanh được 20 vạn quân
Tưởng về nước, có thời gian để chuẩn bị lực lượng để tiến hành cuộc kháng
chiến lâu dài, tỏ rõ thiện chí hòa bình của nhân dân ta, tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân thế giới....
+ Tìm tòi phát hiện sự kiện lịch sử: Qua trao đổi trong quá trình dạy học
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh khi giải quyết các nhiệm vụ học
tập phức tạp. Trong trường hợp này, giáo viên đặt câu hỏi để học sinh huy động
những kiến thức cần thiết đã thu nhận được trong quá trình học tập, trong hoạt
động thực tiễn ( quan sát, nhận xét…) để so sánh, đối chiếu các sự kiện lịch sử
bằng suy đoán logic và tự tìm ra câu trả lời cho vấn đề đặt ra. Trao đổi tìm tòi
phát hiện bao gồm một chuỗi các câu hỏi lần lượt tìm hiểu những vấn đề nhỏ, bộ
phận có liên quan với nhau, hợp thành vấn đề lớn, cơ bản. Việc giải quyết các
câu hỏi nhỏ có tính chất gợi ý, bổ trợ sẽ dẫn đến việc giải quyết vấn đề chính.
Ví dụ: Sau khi tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
giai đoạn từ 1945-1954. GV đưa ra tình huống có vấn đề: Theo em những thắng
lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược của ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp là
gì? Thắng lợi nào có ý nghĩa quyết định nhất?
HS phải tiến hành thao tác so sánh, đối chiếu trên cơ sở đã nắm được nội
dung của cả 3 chiến thắng Việt Bắc 1947,Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ 1954
để tìm tòi và phát hiện ra vấn đề.
GV có thể hướng dẫn các em thao tác so sánh trên các phương diện: Thời
gian tồn tại, địa bàn ( qui mô)......Với các câu hỏi trên, HS dễ dàng so sánh và

-17-


nhận thấy: Chiến thắng Điện Biên Phủ xứng đáng là thắng lợi có ý nghĩa quyết
định nhất. (Đập tan kế hoạch Na-Va với ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm

xoay chuyển cục diện chiến tranh,tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh
ngoại giaotaij hội nghị Giơ-ne-vơ......)
+ Ôn tập, tổng kết bài học lịch sử hoặc giai đoạn lịch sử: Biện pháp trao
đổi được được tiến hành để khái quát hoá, củng cố kiến thức đã học và nâng cao
hiệu quả học tập cho học sinh.
Ví dụ dạy bài 13: “Tổng kết lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến nay”,
GV nên đặt ra tình huống (vấn đề) ngay ở đầu giờ ôn tập để trong suốt tiến trình
bài giảng sẽ lần lượt giải quyết từng phần của vấn đề: VD –Trong khoảng thời
gian học kì I các em đã được tìm hiểu chặng đường lịch sử thế giới từ sau năm
1945 đến nay. Ở tiết học này, cô trò ta cùng dừng lại để xem xét: Trong giai
đoạn lịch sử đã học nội dung chính của giai đoạn này là gì? Các xu thế phát triển
của thế giới ngày nay? Tại sao lại nói: “ Hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển”
vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các dân tộc? Đó cũng là những vấn đề
chính của tiết ôn tập ngày hôm nay. Với cách đặt vấn đề trên đã tạo tâm thế cho
HS trong giờ học, xác định cho các em mục đích rõ ràng, buộc các em phải tích
cực huy động những kiến thức đã học để giải quyết. Và sau đó trong bài dạy,
GV cho các em thời gian hoàn thiện các bảng thống kê để trả lời các câu hỏi.
+ Trong kiểm tra: Nhằm xem xét việc tiếp thu kiến thức của học sinh
trong học tập để đánh giá, bổ sung, đính chính kiến thức. Việc trao đổi này được
tiến hành thường xuyên, xen vào bài giảng hay trong khi kiểm tra bài cũ. Trao
đổi kiểm tra không chỉ nhằm xem xét học sinh nắm các sự kiện lịch sử mà cả
khả năng phân tích khái quát, hệ thống hoá và thực hành của học sinh.
Với loại câu hỏi này, GV tiến hành thường xuyên trong các bài học hoặc
nên cho HS tự đặt câu hỏi và kiểm tra lẫn nhau, thậm chí bản thân mỗi học sinh
tự đặt câu hỏi và trả lời. Song vấn đề đặt ra là phải tuân thủ những yêu cầu sư
phạm. Chọn các loại câu hỏi nào và tổ chức trao đổi như thế nào cho đúng với
yêu cầu sư phạm.

-18-



b. Biện pháp 2: Tự nghiên cứu vấn đề và trình bày kết quả: Trong trường
hợp vấn đề khó và phức tạp, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự tìm tòi thêm
tư liệu, sự kiện để giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Nguyễn Aí Quốc có vai trò như thế nào đối với sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam? Để làm rõ vấn đề này, ngoài bài học trong sách giáo khoa
học sinh cần phải tìm thêm các tài liệu khác nữa và giành thêm thời gian thì mới
giải quyết trọn vẹn vấn đề. Giải quyết được vấn đề này, học sinh không chỉ kính
phục, trân trọng Người mà còn được bồi dưỡng, củng cố niềm tin vào việc tiếp
tục thực hiện con đường đã được lựa chọn và khẳng định.
c. Các bước tiến hành: Bài học theo kiểu dạy học nêu vấn đề có ý nghĩa đặc
biệt đối với việc hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của
học sinh.
Dạy học nêu vấn đề bao gồm các thành tố: trình bày nêu vấn đề, tình
huống có vấn đề và bài tập nêu vấn đề.
* Bước 1: Trình bày nêu vấn đề: Khi trình bày nêu vấn đề, phải đảm
bảo các yêu cầu về tính khoa học, tính Đảng, ngôn ngữ trong sáng... Khơi gợi và
quyết định hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Giáo viên đặt học sinh trước
sự giải quyết một điều mới, điều chưa biết, đồng thời hướng dẫn học sinh độc
lập tìm ra vấn đề đó trên cơ sở phần trình bày của giáo viên và những kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo, vốn sống thực tế của các em.
* Bước 2: Giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề.
Tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất
hiện khi con người gặp phải tình huống khó khăn giải quyết bằng tri thức đã có,
bằng cách thức đã biết không thể được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức mới và
cách thức hành động mới.
Ví dụ: khi tìm hiểu bài 3 “Quá trình phát triển của phong trào giải
phóng dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa” thì giáo viên có thể dẫn
dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Sau chiến tranh thế giới thứ hai tình hình
chính trị ở Châu Âu có nhiều sự biến đổi với sự ra đời của hàng loạt các nước xã

hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Còn ở Châu Á, Phi, Mĩ-Latinh có gì biến đổi không?

-19-


Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra như thế nào? Hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc tan rã ra sao? Các em cùng tìm hiểu tiết học hôm nay để trả lời
cho những nội dung trên.
Có những loại tình huống có vấn đề sau:
- Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự
lựa chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.
- Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận
điểm kết luôn sai lầm. Để đạt được điều đó người học phải tìm ra được chỗ yếu,
chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kết luận đó và chứng minh tính
chất sai lầm của chúng.
- Tình huống tại sao là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học và
trong dạy học.
Như vậy, các tình huống trên đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức
và kĩ năng vốn có đẻ giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các
mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đến
kết quả đó.
* Bước 3: Giáo viên đưa ra bài tập nêu vấn đề (bài tập nhận thức)
- Đây là bài tập mà việc độc lập giải quyết nó sẽ dẫn đến chố tạo ra sự
hiểu biết mới bằng phương thức giải quyết mới mà trước đó học sinh chưa
biết.Chức năng quan trọng của của bài tập nêu vấn đề là rèn luyện năng lực tích
cực , độc lập suy nghĩ trong việc giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho
học sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc xây dựng và sử dụng bài tập nêu
vấn đề trong dạy học phải nhằm vào mục đích: Tăng cường hoạt động nhận thức
tích cực, độc lập thông minh sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức;
giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức của môn

học, bài học; rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy, lôgic...bồi dưỡng tư tưởng
tình cảm đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần trong lao động học tập, thái
độ vượt khó nói riêng.
1.3. Vận dụng những thành tố trên vào một bài học lịch sử cụ thể có
cấu trúc như sau:

-20-


Ví dụ: Khi dạy học bài 9 (SGK sử 9)- Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ
hai đến nay.
Bước 1:
GV chiếu cho học sinh xem 2 đoạn phim tư liệu ngắn: một là về đất nước
Nhật Bản sau chiến tranh; Hai là về sự phát triển của đất nước Nhật Bản ngày
nay. Nêu cảm nhận của em về 2 đoạn phim tư liệu trên? Tại sao lại Nhật Bản lại
phát triển nhanh như vậy? Từ sự phát triển của Nhật Bản, Việt Nam ta học được
bài học gì....
Làm như vậy, GV đã đặt mục đích học tập trước khi học sinh nghiên cứu
bài mới - dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề và nêu bài tập nhận thức
thực tiễn..

Nước Nhật Bản bị tàn phá sau chiến tranh thế giới thứ II

-21-


NHẬT BẢN NGÀY NAY

Bước 2:
Trong giờ học, GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu kênh chữ, kênh hình

SGK; cung cấp thêm tư liệu phim ảnh, thời sự, báo chí...về Nhật Bản. Từ đó tổ
chức cho học sinh giải quyết vấn đề mà ở bước 1 GV đã nêu ra:
+GV đề xuất hướng giải quyết các nội dung của bài học: học sinh tự tìm
hiểu sự kiện và trả lời theo từng phần, mục của bài theo cá nhân và nhóm.
+GV hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải quyết: phân công nhiệm vụ
từng bạn trong nhóm.

-22-


+GV hướng dẫn cho học sinh thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề đã nêu
ra để làm sáng tỏ nội các nội dung bài học: Vì sao, Nhật Bản lại phải tiến hành
cải cách dân chủ sau chiến tranh, nội dung và ý nghĩa của những cải cách dân
chủ đó. Thành tựu phát triển kinh tế của Nhật Bản từ năm 1950 đến đầu những
năm 70 của thế kỉ XX, nguyên nhân phát triển cũng như những hạn chế. Thành
tựu về khoa học kĩ thuật của Nhật Bản sau chiến tranh, chính sách đối ngoại của
Nhật Bản. Quan hệ Nhật Bản và Việt Nam.
Bước 3: Kết luận:
-Từng cá nhân học sinh, hoặc trưởng nhóm học sinh trình bày phần tìm
hiểu của mình hoặc nhóm mình.
+Các cá nhân hoặc nhóm khác bổ sung, đánh giá.
+GV kết luận và đánh giá học sinh, cho điểm.
+Đề xuất vấn đề: Qua bài hôm nay, em thấy Việt Nam ta sẽ học được bài
học gì từ sự phát triển của Nhật Bản?
Với cách làm như vậy, kết hợp với các phương pháp khác và CNTT trong
giờ học sẽ làm cho giờ học hiệu quả hơn nhiều, học sinh được làm việc nhiều và
qua giờ học thấy mình tự chủ, tự tin, hiểu biết.
ỨNG DỤNG NHỮNG BIỆN PHÁP TRÊN VÀO MỘT BÀI CỤ THỂ

Bài 19: Tiết 11

NHẬT BẢN
I.MỤC TIÊU BÀI HỌC

Sau khi học xong bài học, học sinh cần
1.Kiến thức
- Nắm được Nhật Bản từ một nước bại trận, bị tàn phá nặng nề đã vươn
lên trở thành một siêu cường kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới, sau Mĩ.
- Hiểu được chính sách đối nội, đối ngoại của giới cầm quyền Nhật Bản.
- Từ sự phát triển của Nhật Bản liện hệ tới sự nghiệp đổi mới của Việt
Nam nhằm xây dựng một nước Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Tư tưởng, tình cảm, thái độ

-23-


Giáo dục ý chí vươn lên, tinh thần lao động hết mình, tôn trọng kỉ luật của
người Nhật Bản, đó chính là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết
định đưa tới sự phát triển thần kì về kinh tế của Nhật Bản.
3. Kĩ năng
Rèn cho học sinh phương pháp tư duy: Biết phân tích, so sánh, liên hệ.
II.THIẾT BỊ DẠY HỌC

1.Giáo viên
- Bản đồ Nhật Bản, châu Á.
- Tư liệu lịch sử về Nhật Bản.
- Máy chiếu.
2.Học sinh
- Sưu tầm một số tranh ảnh về đất nước Nhật Bản trong các lĩnh vực kinh
tế, khoa học kĩ thuật.
III.TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY – HỌC


1.Ổn định tổ chức lớp: Kiểm tra sĩ số lớp 9A
2. Kiểm tra bài cũ (4’)
GV chiếu câu hỏi:? Những biểu hiện giàu và mạnh của nước Mĩ sau chiến tranh
thế giới thứ hai? Rút ra nhận xét của em về sự phát triển của cường quốc này?
HS: lên bảng trả lời
HS nhận xét bạn
GV: Nhận xét và chốt đáp án lên máy chiếu.
3.Giới thiệu bài mới.
Chiếu slide 1 cho học sinh xem 2 đoạn phim tư liệu ngắn: 1. về đất nước
Nhật Bản sau chiến tranh; 1.Về sự phát triển của đất nước Nhật Bản ngày nay.
Nêu cảm nhận của em về 2 đoạn phim tư liệu trên? Tại sao lại Nhật Bản lại phát
triển nhanh như vậy? Từ sự phát triển của Nhật Bản, Việt Nam ta học được bài
học gì....
Dạy và học bài mới :
Hoạt động của thày và trò
Hoạt động 1: (10’)Cá nhân

Néi dung
I. Tình hình Nhật Bản sau chiến
-24-


*Mức độ kiến thức cần đạt: Nắm
được tình hình Nhật Bản sau chiến
tranh.
* Tổ chức thực hiện:
- Trước khi tìm hiểu nội dung I, GV
giới thiệu sơ qua về nước Nhật ( thiên
nhiên, đất nước, con người )

Gv chiếu slide bản đồ thế giới: và
giới thiệu vị trí nước Nhật – 1 quốc
gia nằm ở khu vực Đông Á Châu Á.
Thuộc cung núi lửa TBD.
Chiếu slide3 lược đồ nước Nhật.
Và giới thiệu: NB là 1 quốc đảo. Đất
nước trải dài theo hình cánh cung
gồm 4 đảo chính :Hôkkaiđô, Hônshu,
Shikôku và Kyushu . Đất nước nhiều
núi, ít sông và sông ngắn, đất đai cằn
cỗi, ít tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy
con người NB đã phải vật lộn vất vả
để tồn tại và đi lên.
Dẫn dắt vào vấn đề: Sau chiến tranh
Nhật Bản là nước như thế nào? Nhật
đã có chính sách ra sao để khôi phục
kinh tế.Cô và các em tìm hiểu mục 1.
Nêu vấn đề: Tình hình Nhật Bản sau
khi chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc?
H: Mất thuộc địa, kinh tế bị tàn phá,
thất nghiệp....
H: bổ sung: Đất nước bị quân đội
nước ngoài chiếm đóng.
Gv: nhận xét, bổ sung và hoàn thiện
nội dung học sinh trả lời.
Gv? Nhật Bản đã có những cải cách
gì? Nội dung và ý nghĩa của những
cải cách đó?
HS: suy nghĩ trả lời

GV: Gợi cho HS bằng những câu hỏi
nhỏ giúp các em giải quyết vấn đề
? Những cải cách trên các lĩnh vực
kinh tế? ban hành hiến pháp? Quân
đội?...
Hs: dựa vào nội dung SGK để trả
lời.HS khác nhận xét bổ sung
? Em có nhận xét gì về nội dung cải

tranh.

1.Tình hình sau chiến tranh:
- Sau chiến tranh Nhật Bản mất hết
thuộc địa, kinh tế bị tàn phá, khó
khăn bao trùm như thất nghiệp,
thiếu lương thực...Đất nước bị quân
đội nước ngoài chiếm đóng.

2.Cải cách dân chủ
- Nội dung: Ban hành hiến pháp
mới, cải cách ruộng đất, ban hành
các quyền tự do dân chủ...
- Ý nghĩa: chuyển từ chế độ chuyên
chế sang chế độ dân chủ, tạo nên sự
phát triển thần kì về kinh tế.

-25-



×