Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.48 KB, 16 trang )

Câu hỏi: Quan điểm đổi mới căn bản toàn diện về quản lý nhà trường
trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm của cá nhân về đổi mới nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
BÀI LÀM
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cần thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế”, và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân”. Hội nghị lần thứ Tám BCH Trung ương Đảng (khóa
XI) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW chính là hiện thực hóa quan điểm chỉ
đạo của Đảng về giáo dục và đào tạo, nhằm thống nhất nhận thức và hành động;
phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân; huy động các nguồn lực đầu tư, sự
phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành và các tổ chức xã hội cho sự nghiệp
giáo dục.
1.

Mục tiêu tổng quát


Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu
học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát


huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản
lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, khoa học – công nghệ
ngày càng tiến triển mạnh mẽ, nhiều vấn đề về môi trường, dân số, khí hậu…
nảy sinh theo chiều hướng ngày càng gay gắt. Để đáp ứng yêu cầu mới, rõ ràng
giáo dục không thể cứ như hiện nay mà cần phải có sự thay đổi căn bản và toàn
diện.
Muốn giáo dục thay đổi căn bản và toàn diện thì các quyết sách về giáo
dục không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt mà còn phải tạo
cơ sở để phát triển toàn bộ hệ thống giáo dục với tầm nhìn vài thập kỷ. Mục
tiênu được đưa ra thay đổi toàn diện giáo dục trong Nghị quyết 29 của Trung
ương đẩm bảo được các yêu cầu này, hứa hẹn mang lại một nền giáo dục mới
phát triển.
2.

Mục tiêu chụ thể

Một trong những vấn đề hết sức cấp thiết là tình trạng mất cân đối giữa
ba bộ phận chính: giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học. Nghị Quyết xác định rõ vị trí và mục tiêu cụ thể của từng bộ phận, cũng
như từng cấp học, từ đó cơ cấu lại hệ thống giáo dục nghĩa là điều chỉnh về tổ


chức và hoạt động của mỗi bộ phận và cả hệ thống từ: cấp học mầm non, phổ

thông, đại học, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp.
3.

Nhiệm vụ giải pháp

Nghị quyết nêu rõ các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện nhằm mang lại
hiệu quả cao đối với việc thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện:
3.1.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối

với đổi mới giáo dục và đào tạo.
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính
trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Với vai trò là hạt nhân chính trị trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản
Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng
được thể hiện thông qua quyền quyết định và quyền kiểm tra, giám sát việc thực
hiện đường lối chính trị.
Đảng quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động và phát triển của đất nước. Quyền lực chính trị của Đảng
được kết tinh trong cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, chủ trương tạo lập
khung chính trị cho sự phát triển của đất nước, của từng lĩnh vực, từng ngành,
từng cấp trong mỗi giai đoạn phát triển trong đó có Giáo dục và đào tạo.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với đổi mới giáo dục
và đào tạo cần:
+ Hoàn thiện quy định về Đảng theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ đổi mới: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công

nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt


Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của toàn dân tộc".
+ Để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nghiên cứu bổ sung
trong Hiến pháp quy định "Tổ chức và hoạt động của Đảng chịu sự giám sát của
nhân dân và chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình trước nhân dân". Trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Do vậy, vị trí cầm quyền, nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải
được hiến định để tạo cơ sở luật hóa theo đúng yêu cầu của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ trong
việc thực hiện chiến lược, chính sách phát triển giáo dục. Đổi mới chỉ đạo việc
thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục trong thực hiện chiến lược phát triển
giáo dục. Hội đồng này có bộ phận giúp việc, huy động lực lượng các nhà khoa
học, giáo dục, hoạt động kinh tế - xã hội,... có uy tín thuộc các lĩnh vực khác
nhau tham gia quá trình xây dựng, thẩm định các chủ trương, chính sách, kế
hoạch phát triển, đánh giá chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục một cách
thống nhất và đồng bộ.
3.2.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo

dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học.
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công
khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và
chuyên ngành đào tạo. Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm

chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đa
dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các
chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.


Để thực hiện được nhiệm vụ này cần:
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Giáo dục sẽ giúp học sinh phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, trở thành
người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt
đời. Học sinh sẽ hình thành những phẩm chất tốt đẹp và các năng lực cần thiết
để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức
và sáng tạo.
- Thực hiện dạy học phân hóa phù hợp với đối tượng, giảm tải nội dung,
chương trình các môn học trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng và mục
tiêu giáo dục toàn diện; kết hợp hài hòa “dạy chữ”, “dạy người” với “dạy nghề”.
- Xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học phù hợp với điều
kiện thực tế của từng địa phương, đơn vị, từng đối tượng học sinh; tăng cường
các hoạt động giáo dục ngoại khóa, sinh hoạt tập thể; tích hợp, liên môn, lồng
ghép các nội dung giáo dục truyền thống, kỹ năng sống, giáo dục môi trường,
pháp luật, giáo dục địa phương; dạy học gắn với di sản, gắn với sản xuất... nhằm
phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Việc dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học được xem là chìa
khóa để đổi mới giáo dục. Và để thực hiện, đổi mới nội dung này thì giải pháp
dạy học theo hướng tiếp cận năng lực cần phải xác định chính xác ngưỡng nhận
thức năng lực phù hợp của người học. Ngoài ra, cần điều chỉnh lại mục tiêu,
thiết kế xây dựng lại nội dung cho từng cấp, bậc và ngành học; bổ sung điều
kiện quan trọng khác như giáo trình, sách giáo khoa,... Đây là yếu tố quan trọng,
hướng tới một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng, đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

3.3.

Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh

giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.


Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước
theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và
công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá
cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học;
đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá ở mỗi cấp
học là khác nhau;cần có sự lựa chọn phù hợp với nội dung kiến thức và mục
đích kiểm tra. Tuy nhiên Nghị quyết nhấn mạnh việc đổi mới cần hướng tới:
Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá và thi cử theo định hướng đánh giá
phẩm chất, năng lực. Kiểm tra, đánh giá có vai trò kép: Kích thích, tạo động lực
điều chỉnh, phát triển, hoàn thiện chương trình dạy học, hoạt động dạy, hoạt
động học, hoạt động quản lý bảo đảm chất lượng giáo dục; xác nhận thành tích
học tập theo quy chuẩn chất lượng đạt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá
phải vừa là phương pháp, vừa là nội dung giáo dục, vừa là hoạt động quản lý
chất lượng giáo dục.
Chương trình giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực
học sinh đòi hỏi phương thức đánh giá là đánh giá quá trình kết hợp với đánh
giá tổng kết. Phương thức này sẽ khắc phục được các bất cập, nhược điểm hiện
nay và đặc biệt tạo được sự chuyển biến các yếu tố cơ bản của chương trình
giáo dục: đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng
lực; liên tục tổ chức điều chỉnh quá trình giáo dục để khắc phục được những
hiện tượng như “ngồi nhầm lớp”, “nhầm cấp học”, “nhầm chọn nghề”; một cách
tích cực, tự giác ngăn chặn hoặc hạn chế tiêu cực trong thi cử; giảm áp lực, tốn

kém trong tổ chức thi,… Đặc biệt, công tác kiểm tra mới yêu cầu tư duy phê
phán, tư duy phản biện sẽ kích thích hứng thú học tập, tạo môi trường học tập
dân chủ, sáng tạo.
Cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ


chức hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện. Cơ cấu lại
các trình độ đào tạo theo hướng chuẩn hóa. Cải tiến tín chỉ, đổi mới tuyển sinh,
đa dạng hóa phương thức đào tạo, xây dựng các quy chuẩn về liên thông,
chuyển tiếp giữa các cấp bậc học, trình độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và
thực hiện các giải pháp khác hỗ trợ việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục
phù hợp với điều kiện của chúng ta tạo mọi điều kiện cho người đi học, cho tất
cả đối tượng học tập.
3.4.

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo

dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Quy hoạch lại mạng
lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Đa dạng hóa các phương
thức đào tạo.
Sự phát triển nhanh của khoa học-công nghệ ở nông thôn trong những
năm đổi mới ở nước ta cũng đã mở ra nhu cầu mới về học tập suốt đời cho mọi
đối tượng, tầng lớp kể cả những người nông dân.
Việc đưa khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp
đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn ở trình độ cao hơn trong hệ thống sản
xuất. Kết quả yêu cầu người nông dân cần đa dạng hơn với nhiều kiến thức, kỹ
năng để sản xuất phát triển.

Mặt khác với truyền thống của một dân tộc hiếu học, ngoài tác động của
tiến trình chuyển đổi kinh tế và tiến bộ của khoa học-công nghệ, bản thân mỗi
nông dân ngày càng quan tâm hơn đến các nhu cầu cá nhân riêng biệt trong
nâng cao chất lượng đời sống bản thân, gia đình, họ tộc và cộng đồng. Do vậy
học tập suốt đời còn là nhu cầu thực sự của mỗi nông dân để tự thỏa mãn mình.
Cần có những biện pháp nhằm tạo điều điện cho mọi người dân, đối
tượng có nhu cầu được tham gia học tập:


- Xây dựng và phát triển hệ thống học tập suốt đời, một công việc to lớn
có vai trò quan trọng nhằm phát huy nguồn lực con người; yêu cầu này đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục, làm cho giáo dục và đào tạo không
chỉ đóng kín trong nhà trường mà còn có thể tiến hành các hoạt động giáo dục đào tạo thông qua nhiều hình thức tổ chức phong phú, linh hoạt, tổ chức đào tạo
liên thông, mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi được
học thường xuyên, liên tục, suốt đời, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.
- Giáo dục - đào tạo được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác
nhau; xóa bỏ ngăn cách giữa các ngành học và cấp học, giữa giáo dục chính quy
và giáo dục thường xuyên. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo
hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học.
- Tổ chức có hiệu quả thực chất việc phân luồng sau trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo
hướng khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và cơ cấu vùng
miền, gắn nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng
dụng. Ưu tiên phát triển các trường cao đẳng kỹ thuật, công nghệ và các cơ sở
giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
- Tăng cường đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
các cơ sở giáo dục thường xuyên để xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo
điều kiện cho người dân được học mọi lúc, mọi nơi khi có nhu cầu, đẩy mạnh
việc xây dựng xã hội học tập;

3.5.

Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân

chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo
dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.


Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục,
đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa
phương.
Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và
đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ
động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Trên thực tế giáo dục chúng ta mới tăng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm ở các trường đại học và các trường tư thục. Còn ở các cơ sở giáo dục,
trường công chịu sự quản lý chặt chẽ của cấp trên chịu trách nhiệm quản lý trực
tiếp.
 Để tăng quyền tự chủ các cơ sở giáo dục, đào tạo, cần:
+ Hoàn thiện chính sách, pháp luật, văn bản pháp quy; văn bản hướng
dẫn thực hiện các điều khoản tự chủ tự chịu trách nhiệm các cơ sở giáo dục;
+ Đẩy mạnh công tác phân cấp, phân quyền, chịu trách nhiệm của các bộ
phận, các cấp;
+ Gắn liền trách nhiệm và quyền lợi với các cấp quản lý, mỗi cơ sở giáo
dục; mỗi trường học;
+ Tiến hành công khai minh bạch các khoản chi tiêu, tài chính, chính
sách tuyển dụng, hoạt động của nhà trường, của cơ sở giáo dục; chịu sự giám sát
của đối tượng giáo dục; của xã hội;
Đối với các trường đại học, cao đẳng các vấn đề được tự chủ, tự chịu
trách nhiệm:

+ Tự chủ trong quản lý điều hành nhà trường;
+ Tự chủ tài chính
Tự chủ tài chính phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài chính được cung cấp
và của nhà tài trợ về việc sử dụng nguồn tài chính đó. Ngoài ra, học phí, hợp


đồng cung cấp dịch vụ, các khoản vay và thu phí khác cũng là nguồn thu lớn
của các trường đại học.
+ Tự chủ trong tuyển dụng và quản lý đội ngũ cán bộ và xác định điều
kiện làm việc của họ
Quyền tự chủ của các trường đại học trong quản lý đội ngũ thể hiện ở sự
tự do tuyển chọn, bố trí giảng viên và cán bộ vào các vị trí lao động cần thiết.
Các cơ sở đại học còn có quyền tự chủ trong việc xác định các điều kiện cho
cán bộ và đặc biệt giảng viên làm việc thuận lợi.
- Tự chủ trong hoạt động đào tạo, tuyển sinh
Hoạt động đào tạo gồm các nội dung như: tuyển sinh; ngành đào tạo;
chương trình, giáo trình đào tạo; phương pháp giảng dạy…Tuyển sinh là một
khâu quan trọng của quá trình đào tạo. Số lượng tuyển sinh phải trên cơ sở nhu
cầu học tập, nhu cầu nhân lực của xã hội, phụ thuộc vào năng lực về cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên, tài chính, khả năng quản lý giảng dạy của từng trường.
- Tự chủ trong xác định các chuẩn mực và phương pháp đánh giá
Việc đánh giá phải đáp ứng yêu cầu theo các tiêu chuẩn và chất lượng
chung. Phương pháp đánh giá chủ yếu được sử dụng theo truyền thống nhà
trường và ít bị can thiệp từ bên ngoài. Sự can thiệp của bên ngoài chủ yếu tập
trung ở việc xác định các cơ chế, quy trình không những cho việc đánh giá mà
cả quá trình giáo dục - đào tạo.
 Tự chịu trách nhiệm đối với:
+ Trách nhiệm với xã hội với người học
Là trách nhiệm đảm bảo chất lượng như cam kết và trách nhiệm sử dụng
hiệu quả và minh bạch kinh phí đóng góp của người học và của xã hội.

Thông qua cơ chế công khai, người học cũng như người sử dụng lao động
có điều kiện giám sát việc thực hiện các cam kết của các trường về mục tiêu đào


tạo, chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo và các nguồn lực đảm bảo chất lượng
đào tạo. Một trường đại học đưa sai thông tin công khai hay không thực hiện
đúng cam kết đã công khai sẽ không thu hút được sinh viên vào trường và giảm
niềm tin của người tuyển dụng lao động và các nhà đầu tư.
- Trách nhiệm với Nhà nước:
Là trách nhiệm đảm bảo mọi hoạt động của nhà trường theo sứ mạng đã
công bố và trong khuôn khổ của pháp luật, trách nhiệm sử dụng kinh phí đầu tư
của Nhà nước một cách hiệu quả và minh bạch, trách nhiệm báo cáo và chịu sự
giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Trong cơ chế tự chủ, các tổ chức hội
ngành nghề, hội khoa học sẽ đóng vai trò các cơ quan giám sát về chất lượng
đào tạo và nghiên cứu khoa học, giúp Bộ GD&ĐT kiểm định chất lượng và xếp
hạng, phân loại các trường đại học một cách công khai, minh bạch và chính xác.
- Trách

nhiệm đối với chính nhà trường với cơ sở giáo dục

Là trách nhiệm phát triển nhà trường một cách bền vững, giữ vững và
nâng cao uy tín của trường vì quyền lợi của tập thể đội ngũ cán bộ giáo viên
cũng như sinh viên. Trong cơ chế tự chủ, uy tín và sự phát triển của trường phụ
thuộc một cách quyết định vào năng lực lãnh đạo, quản lý và chuyên môn của
chính đội ngũ cán bộ từng trường; Nhà nước chỉ tạo cơ chế thông thoáng và
giúp các trường thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình
3.6.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu


đổi mới giáo dục và đào tạo.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo
theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học,
trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có
trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học


có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý...
Bên cạnh những thành tựu đạt được nền giáo dục chúng ta còn không ít
những khó khăn thách thức. Chất lượng giáo dục còn chênh lệch nhiều giữa các
vùng miền và các loại hình trường; chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, chất
lượng dạy và học ngoại ngữ, tin học còn hạn chế, chưa đáp ứng được so với yêu
cầu; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đổi mới giáo dục, một bộ phận đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng kịp yêu cầu trong tình
hình mới, trong khi nguồn lực và khả năng đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và
nhân dân còn hạn chế.
Để xây dựng, phát triển đội ngũ cần:
- Xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lí giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
- Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những
người thực sự có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
- Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại,
bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu
nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức nhà giáo và năng lực nghề nghiệp.
- Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào
tạo. Tiến tới tất cả giáo viên tiểu học, trung học cơ sở phải có trình độ đại học

trở lên; giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có trình độ đại học
trở lên và có năng lực sư phạm, năng lực chuyên môn tương ứng với trình độ và
ngành nghề đào tạo; giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên
và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lí giáo dục
các cấp phải được đào tạo về nghiệp vụ quản lí.
- Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục:


+ Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lí
giáo dục phải trên cơ sở đánh giá thực tế năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu
quả công tác.
+ Lương và các chính sách khác là một trong những yếu tố chính tạo
động lực cống hiến và đổi mới giáo dục của đội ngũ nhà giáo. Nghị quyết Trung
ương lần này tiếp tục khẳng định:"Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao
nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp
tùy theo tính chất công việc, theo vùng".
+ Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu
khoa học; khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
Cần tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ, đội ngũ nhà giáo chính là chủ
thể của mọi hoạt động đổi mới giáo dục. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý là một trong những nhiệm vụ then chốt của ngành để thực hiện đổi mới
và phát triển giáo dục theo hướng bền vững.
Thực hiện nghiêm túc Kế hoạch phát triển nhân lực ngành giáo dục, rà
soát, sắp xếp lại đội ngũ đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo chất lượng
phù hợp với yêu cầu thực tiễn từng địa phương. Xây dựng và triển khai thực
hiện Đề án đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo
dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, dạy nghề.
Xây dựng tiêu chí đánh giá giáo viên theo hướng lấy hiệu quả sự tiến bộ của học
sinh về năng lực và phẩm chất làm tiêu chí đánh giá.

Nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ
cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các cấp học theo yêu cầu chuẩn nghề
nghiệp để đáp ứng yêu cầu của chương trình, sách giáo khoa phổ thông mới;
đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và lề lối làm
việc của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng đội ngũ nhà


giáo có chí, có tầm, có tâm, có đức, có tinh thần trách nhiệm, hết lòng vì sự
nghiệp giáo dục.
3.7.

Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng

góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào
tạo.
Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ
trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với
các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào tạo.
Để thu hút tài trợ, đóng góp của xã hội, cần:
+ Ngành giáo dục tăng cường tham mưu đề xuất chủ trương, cơ chế chính
sách huy động các nguồn lực xã hội của cấp ủy chính quyền địa phương.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về
việc huy động và sử dụng các nguồn lực xã hội trong giai đoạn phát triền.
+ Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng các khoản đóng góp tự
nguyện cho các cơ sở giáo dục và đào tạo.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp các lực lượng xã hội, các ban
ngành đoàn thể, các tổ chức cùng tham gia đóng góp và cùng thực hiện công tác
huy động các nguồn lực xã hội phát triển.
+ Tạo môi trường thuận lợi phát triển hệ thống cơ sở giáo dục ngoài công

lập.
+ Tăng cường công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực
nhằm nâng cao chất lượng các loại hình
3.8.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học,

công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.


Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung
đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên
cứu khoa học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên
cứu và chuyên gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về
khoa học giáo dục.
Nói đến khoa học giáo dục, là nói đến một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp
vào loại nhất. Phức tạp, vì đối tượng của nó là con người từ tuổi ấu thơ cho đến
tuổi trưởng thành, và ngày nay, khi loài người mong muốn xây dựng một xã hội
học tập, với ý tưởng “giáo dục cho mọi người” và “học suốt đời”, thì đối tượng
nghiên cứu của khoa học giáo dục lại mở rộng đến con người ở mọi lứa tuổi.
Phức tạp, còn vì phạm vi nghiên cứu của khoa học giáo dục ngày càng rộng lớn
mà vấn đề được đặt ra để nó giải quyết lại vốn đã tồn tại từ rất lâu.
Ngày nay ở nước ta, vai trò của khoa học giáo dục đã được thể chế hoá.
Luật giáo dục 1998 cũng như Luật giáo dục 2005, đều có quy định: Nhà nước
ưu tiên phát triển khoa học giáo dục và yêu cầu mọi chủ trương, chính sách về
giáo dục phải được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục.
Tuy nhiên, khoa học giáo dục nước ta chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt của
mình.
Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ và giải pháp cần thực hiện để nâng cao chất
lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ về thành lập viện nghiên

cứu, trung tâm nghiên cứu; chuyển giao công nghệ; kết hợp giữa đào tạo và ứng
dụng công nghệ... các nhiệm vụ thiết thực với tình hình phát triển chung góp
phần nâng cao chất lượng giải quyết các vấn đề còn tồn đọng của khoa học giáo
dục lâu nay.
Tuy nhiên để thực hiện được cần có những chính sách khuyến khích đối
với người thực hiện nghiên cứu khoa học. Tình trạng chung của chúng ta là các
đề tài khoa học còn rất ít, chiếm tỷ lệ nhỏ trong ngành. Chưa thôi thúc được mọi
người, mọi thành viên, trường nghiên cứu khoa học phục vụ công việc của mình


mà hầu hết dựa vào sự chỉ đạo của cấp trên. Chính vì vậy cần phải có chính sách
khuyến khích nghiên cứu khoa học dành cho người tham gia nghiên cứu để thúc
đẩy mạnh mẽ, đưa khoa học đến gần hơn với cuộc sống, với công việc.
3.9.

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong

giáo dục, đào tạo.
Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc
lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành
tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương
và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.
Chủ động hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Mời giáo viên, giảng
viên nước ngoài đến giảng dạy cho học sinh, bồi dưỡng cho giáo viên, giảng
viên ở các cơ sở giáo dục phổ thông và các cơ sở đào tạo, trước mắt đối với
môn ngoại ngữ; cử cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên đi học tập, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ ở nước ngoài; gửi học sinh của tỉnh đi du học nước
ngoài bằng các nguồn kinh phí tự túc, học bổng để góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh.

Nói tóm lại đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một yêu cầu
khách quan và cấp bách của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo bao gồm: đổi mới tư duy; đổi mới mục tiêu
đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp
dạy và học; cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở
vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm…, trong toàn hệ thống (giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, đào tạo nghề). Đây là những vấn đề
hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết ,
cẩn trọng, có những biện pháp cụ thể phù hợp với từng cơ sở giáo dục, vùng
miền để mang lại hiệu quả cao khi tiến hành thực hiện Nghị quyết.



×