Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

CÁC QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI KHÁCH HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.3 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT

CÁC QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
LUẬT SƯ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
KHÁCH HÀNG


MỤC LỤC

2


CÁC QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ TRONG MỐI QUAN
HỆ VỚI KHÁCH HÀNG

I. Khái niệm về quan hệ giữa luật sư với khách hàng

1.1. Khái niệm về khách hàng
Điều 2 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung 2012 quy định: khách hàng là các cơ
quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý. Luật sư thực hiện việc
cung cấp dịch vụ pháp lý chỉ khi có yêu cầu của khách hàng. Trong trường hợp luật sư
cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì cơ quan tiến
hành tố tụng cũng được xem là khách hàng và trong trường hợp này cơ quan tiến hành tố
tụng là khách hàng đặc biệt của luật sư.

1.2. Khái niệm về quan hệ giữa luật sư với khách hàng
Quan hệ với khách hàng là một mối quan hệ quan trọng trong những mối quan hệ


cơ bản nhất trong hành nghề luật sư. Nếu luật sư gây dựng được mối quan hệ tốt với
khách hàng, tạo được uy tín thì không những khách hàng sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ của
luật sư khi có những vụ việc mới, mà còn giới thiệu cho bạn bè, đồng nghiệp, người quen
tìm đến luật sư.
Quan hệ luật sư với khách hàng phát sinh từ khi luật sư chấp nhận vụ việc và ký
hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng cho đến khi chấm dứt hợp đồng, thậm chí có
thể kéo dài cả sau khi hợp đồng dịch vụ đã chấm dứt.
Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý và quan hệ luật sư
với khách hàng là một loại quan hệ dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Đó là
quan hệ dựa trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận giữa hai bên là cung cấp dịch vụ pháp lý và
bên sử dụng dịch vụ pháp lý. Dưới góc độ quan hệ xã hội, quan hệ này không chỉ thuần
túy là quan hệ dân sự, mà còn là quan hệ đối tác, hợp tác, quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa
luật sư và khách hàng.
Quan hệ luật sư với khách hàng là mối quan hệ quan trọng nhất trong quá trình hành
nghề của luật sư. Sự thành bại trong nghề nghiệp của luật sư phụ thuộc rất nhiều vào mối
quan hệ giữa luật sư với khách hàng.

3


II. Bản chất mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng
Trong tổng thể các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác nhau trong ngành nghề
luật sư, quan hệ luật sư – khách hàng là mối quan hệ nền tảng làm phát sinh các quan hệ
khác.
Về pháp lý, quan hệ luật sư – khách hàng là một loại quan hệ dân sự, cụ thể là quan hệ
hợp đồng dịch vụ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trong quan hệ này, các quyền
và nghĩa vụ của luật sư với khách hàng được thiết lập trên cơ sở tự nguyện của hai bên.
Tuy nhiên, vì là loại quan hệ dịch vụ pháp lý nên còn chịu sự điều chỉnh của các quy
phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật dân sự.
Danh dự, uy tín, trạng thái tích cực hay tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư

gắn liền với quá trình thực hiện mối quan hệ này. Do vậy, tính chất đạo đức trong hành vi
ứng xử của luật sư có thể nói là bản chất của mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng, là
một trong những yếu tố góp phần quyết định sự thành công trong nghề nghiệp của luật
sư.

-

-

-

III. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong mối quan hệ với
khách hàng
Bao gồm 9 quy tắc được quy định tại chương II Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp của luật sư Việt Nam.
-

Quy tắc 6: Nhận vụ việc khách hàng
Quy tắc 7: Thù lao
Quy tắc 8: Thực hiện vụ việc của khách hàng
Quy tắc 9: Từ chối nhận và thực hiện vụ việc của khách hàng
Quy tắc 10: Đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý
Quy tắc 11: Giải quyết xung đột về lợi ích
Quy tắc 12: Giữ bí mật thông tin:
Quy tắc 13: Tiếp nhận khiếu nại của khách hàng
Quy tắc 14: Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng

3.1. Quy tắc 6: Nhận vụ việc khách hàng
-


Nhận vụ việc của khách hàng là điều kiện làm phát sinh mối quan hệ luật sư – khách
hàng, giúp luật sư tạo ấn tượng tốt đẹp ban đầu với khách hàng.
Quy tắc này quy định nghĩa vụ và thái độ ứng xử về mặt đạo đức của luật sư khi nhận vụ
việc của khách hàng, trong đó nghĩa vụ được quy định tại 6.4 cũng đồng thời là nghĩa vụ
pháp lý được quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012.
4


-

Quy tắc 6.2 :
+ Quy tắc này đảm bảo cho luật sư có thể bảo về quyền và lợi ích của khách hàng
một cách tốt nhất.
+ Có 2 nguyên tắc chung phải tuân theo khi Luật sư nhận yêu cầu đại diện cho
khách hàng. Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất là khách hàng có quyền tự do lựa
chọn bất cứ Luật sư, văn phòng luật sư (công ty luật) nào mình muốn. Nguyên tắc thứ hai
là luật sư phải lựa chọn cho mình vụ việc theo khả năng chuyên môn, điều kiện thực tế và
khi luật sư đưa ra được lời khuyên vô tư, khách quan và tốt nhất cho khách hàng của
mình.
+ Quyền lựa chọn luật sư của khách hàng :
• Thông thường, luật sư không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng nếu
không được khách hàng đề nghị, trừ trường hợp do yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự.
• Khi nhận vụ việc, luật sư tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng, luật sư không được
can thiệp vào sự lựa chọn của khách hàng bằng cách gợi ý khách hàng nên lựa chọn
luật sư này hay luật sư khác.
• Khách hàng phải được chọn luật sư bằng ý chí tự do của riêng mình và luật sư phải
không bị áp lực (áp lực tài chính hoặc áp lực khác) từ một bên thứ ba nào đó có thể
làm ảnh hưởng đến tính chất của việc đại diện cho khách hàng.
• Nghĩa vụ của luật sư là tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng. Nghĩa vụ này hoàn

toàn không mâu thuẫn, không ảnh hưởng đến quyền từ chối của luật sư. Khách hàng
có quyền lựa chọn luật sư và luật sư có quyền từ chối yêu cầu của khách hàng, trừ
trường hợp không được từ chối theo quy định của pháp luật.
+ Quyền từ chối luật sư của khách hàng:


Khách hàng có quyền lựa chọn luật sư và đồng thời có quyền từ chối luật sư bất cứ
lúc nào, bất kể có lý do hay không, sau khi đã thanh toán các dịch vụ pháp lý của
luật sư. Về phía luật sư, vẫn phải đưa ra mọi biện pháp thích hợp để làm giảm hậu
quả xấu cho khách hàng ngay cả khi bị khách hàng sa thải một cách vô lý.
• Việc một khách hàng có quyền từ chối một luật sư chỉ định hay không phụ thuộc
vào luật áp dụng. Nếu khách hàng muốn làm như vậy, cần giải thích rõ cho khách
hàng biết hậu quả của việc này là cơ quan chỉ định sẽ yêu cầu một luật sư thay thế
hoặc khách hàng sẽ không có luật sư bảo vệ.
+ Luật sư chỉ nhận việc theo khả năng chuyên môn, điều kiện của mình:

5




Luật sư không được xử lý một vấn đề pháp lý thiếu sự chuẩn bị đầy đủ hoặc không thể
dành đủ thời gian cần thiết cho việc thực hiện yêu cầu của khách hàng.
+ Thực hiện vụ việc trong phạm vi yêu cầu hợp pháp của khách hàng:



Luật sư phải khẳng định chính xác yêu cầu của khách hàng khi nhận việc.
Luật sư phải tuân theo yêu cầu của khách hàng và phải bàn bạc với khách hàng về
phương pháp xử lý vụ việc.

• Luật sư không được tư vấn cho khách hàng tham gia hoặc giúp đỡ khách hàng thực
hiện những hành vi mà luật sư biết là phạm pháp hoặc gian trá, tuy nhiên, luật sư có
thể thảo luận về hậu quả pháp lý của hành vi mà khách hàng định làm và có thể tư
vấn hoặc giúp đỡ khách hàng xác định hiệu lực pháp lý, phạm vi, phương thức hoặc
luật áp dụng.
• Những vụ việc không chỉ đơn thuần mang tính pháp luật mà có thể còn thuộc phạm
vi của các nganh chuyên môn khác. Nếu việc tham khảo ý kiến của chuyên gia
trong lĩnh vực khác là nghĩa vụ của luật sư thì luật sư phải giới thiệu các chuyên gia
đó.
+ Điều này cũng có nghĩa là luật sư không được nhận việc nếu có xung đột với
khách hàng khác. Luật sư có quyền và nghĩa vụ từ chối cung cấp dịch vụ pháp lí nếu yêu
cầu của khách hàng vi phạm pháp luật trái đạo đức xã hội hoặc nếu thực hiện yêu cầu đó
có thể dẫn đến việc luật sư vi phạm pháp luật hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư.
Nếu người Luật sư đã chấp nhận thực hiện dịch vụ bào chữa hay kiện tụng thì phải tuân
theo những yêu cầu của khách hàng về phương pháp xử lí vụ việc. Cả khách hàng và luật
sư đều có quyền và nghĩa vụ đối với mục đích và phương pháp thực hiện. Tuy nhiên luật
sư không được tìm kiếm những mục đích hoặc sử dụng phương pháp nếu chỉ vì khách
hàng muốn luật sư làm như vậy.

3.2. Quy tắc 7: Thù lao
Ví dụ : Bà D. ở quận Thủ Đức (TP.HCM) kiện người hàng xóm lấn chiếm đất đai.
Được người quen giới thiệu, bà nhờ Luật sư T. (Đoàn Luật sư TP.HCM) giúp đỡ. Những
tưởng có mối men giới thiệu thì sẽ được ưu ái, nào ngờ bà D. phải xây xẩm mặt mày khi
nghe Luật sư đòi thù lao trọn gói 100 triệu đồng và yêu cầu ứng trước 50 triệu. Nhắm
không xong, bà tìm cớ cáo lui rồi đi tìm hai Luật sư khác… dọ giá. Bà kể: “Thật bất ngờ,
một luật sư nói thù lao chỉ 12 triệu đồng, luật sư kia lấy 10 triệu đồng”. Bà thắc mắc hỏi
vì sao lại chỉ có giá đó thì hai luật sư cho hay vụ bà nhờ họ thấy lấy như vậy là hợp lý.
Hay ở vụ việc khác, năm 2011, ông L. bị luật sư A. kiện ra TAND quận 5 (TP.HCM) đòi
món nợ 150 lượng vàng. Tại tòa, ông L. khẳng định món nợ này thực chất là thù lao để
6



-

-

-

-

luật sư lo thủ tục, chi phí hợp thức hóa giấy tờ nhà cho ông. Để ràng buộc, luật sư yêu
cầu ông ký giấy nợ khống 150 lượng vàng. Làm xong giấy tờ nhà, phát hiện khoản thù
lao luật sư đòi quá cao, ông không trả thì bị kiện. TAND quận 5 đã buộc ông L. phải trả
cho luật sư 171 lượng vàng cả gốc lẫn lãi. Ông L. kháng cáo và được TAND TP hủy án.
Xử sơ thẩm lần hai, hai bên thỏa thuận là ông L. trả cho luật sư hơn 100 lượng vàng. Sau
vụ này, dù thắng kiện nhưng luật sư A. đã bị Đoàn Luật sư TP xóa tên vì hét thù lao quá
cao và vi phạm đạo đức nghề nghiệp khi “dụ” thân chủ ký giấy nợ thay cho thù lao thỏa
thuận…
Thù lao là khoản tiền bỏ ra để bù đắp công sức của luật sư khi thực hiện dịch vụ pháp lý.
Chi phí luật sư là những khoản tiền mà luật sư phải chi trả trong quá trình thực hiện dịch
vụ pháp lý như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác. Mức thù lao và chi phí
được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Thù lao vừa thể hiện quyền của luật sư khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, vừa thể
hiện trách nhiệm của luật sư trước khách hàng, bảo đảm việc cung cấp dịch vụ có chất
lượng, xứng đáng với thù lao mà khách hàng trả cho luật sư.
Việc tính thù lao dựa trên các căn cứ và phương thức cụ thể, được quy định tại Điều 55
Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung 2012.
Về cơ bản, việc tính mức thù lao dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng và
được thể hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, nguyên tắc thoả thuận về thù
lao chỉ được áp dụng đối với vụ việc tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, vụ việc dân

sự.
Thù lao luật sư chỉ áp dụng đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với luật sư
hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp pháp lý
của Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ hợp đồng lao
động thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.

3.3. Quy tắc 8: Thực hiện vụ việc của khách hàng
-

Quy định bổn phận của luật sư trong quá trình nhận vụ việc của khách hàng
Quy tắc 8.3 :
Trước khi nhận yêu cầu của khách hàng, luật sư có quyền từ nhận hoặc từ chối vụ
việc. Còn trong trường hợp đã nhận việc thì không có quyền từ chối, trừ trường hợp buộc
phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc. Đối với vụ việc từ chối ngay từ đầu thì luật sư có
quyền không đưa ra lý do từ chối. Ngược lại, đã đảm nhận rồi thì khi từ chối phải đưa ra
lý do chính đáng.
7


Luật sư chỉ được từ chối vụ việc mà mình đã đảm nhận nếu phát hiện ra có mâu
thuẫn quyền lợi hoặc luật sư rơi vào trường hợp bất khả kháng mà không thể bàn giao
cho luật sư khác.
Luật sư không được chuyển giao vụ việc mà mình đã đảm nhận cho luật sư khác
làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng. Trong
trường hợp vì lý do nào đó mà không thể tiếp tục thực hiện được, chẳng hạn : đi xa, ốm
đau, bất khả kháng,… thì có thể bàn giao công việc cho luật sư khác nếu được khách
hàng đồng ý.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định thế nào là bất khả kháng. Những trường hợp
sau đây có thể coi là trường hợp bất khả kháng hay không : khi trùng lịch xét xử, khi có

công việc đột xuất của gia đình, khi đi công tác nước ngoài, khi thiên tai xảy ra,… Các
trường hợp bất khả kháng cần phải hiểu là các trường hợp luật sư không thể cung cấp
được dịch vụ pháp lý, hoặc không thể cung cấp dịch vụ pháp lý với chất lượng tốt, trong
khi luật sư rơi vào tình trạng không biết trước, không có nghĩa vụ phải biết trước các sự
kiện xảy ra mà khi gặp phải, nếu tiếp tục cung cấp dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi
của khách hàng.

3.4. Quy tắc 9: Từ chối nhận và thực hiện vụ việc của khách
hàng
-

Quy tắc này quy định quyền từ chối của luật sư trong hai giai đoạn: nhận vụ việc và từ
chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng.
Quy tắc 9.1 quy định cụ thể 6 trường hợp luật sư được quyền từ chối nhận vụ việc của
khách hàng.
Quy tắc 9.2 quy định 8 trường hợp luật sư có quyền từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc đã
nhận của khách hàng.

3.5. Quy tắc 10: Đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ
pháp lý
-

Quy tắc này quy định về nghĩa vụ của luật sư khi quyết định chấm dứt thực hiện dịch vụ
pháp lý đã cung cấp cho khách hàng.
Một luật sư không được đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng
trừ khi có lý do chính đáng. Khi chấm dứt hợp đồng, luật sư phải gửi thông báo kịp thời
cho khách hàng. Những lý do chính đáng được quy định trong Quy tắc 9.2.

3.6. Quy tắc 11: Giải quyết xung đột về lợi ích
8



-

-

"Quy tắc 11. Giải quyết xung đột về lợi ích
11.1. Xung đột về lợi ích trong hành nghề luật sư là sự đối lập về quyền lợi vật
chất hay tinh thần đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra giữa hai hay nhiều khách hàng của
luật sư; giữa luật sư, nhân viên, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của luật sư với khách
hàng trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên quan đến vụ việc đó;"
Khái niệm xung đột về lợi ích:
+ Xung đột này nảy sinh khi lợi ích của hai hay nhiều khách hàng xung đột với
nhau. Mặt khác, xung đột về lợi ích cũng có thể xảy ra khi lợi ích của chính luật sư xung
đột với lợi ích của khách hàng.
+ Theo quy định tại Điều 9 Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 “
Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây: a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành
chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật”.
11.2 quy định thái độ ứng xử của luật sư trong 4 trường hợp cụ thể về xung đột lợi ích

3.7. Quy tắc 12: Giữ bí mật thông tin
-

-

Khái niệm “bí mật thông tin”:
+ Là những bí mật nghề nghiệp có liên quan đến việc luật sư đảm nhiệm.
+ Bao gồm các bí mật điều tra, bí mật về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, tình
hình tài chính, bí quyết kinh doanh, bí mật về đời tư hoặc những thông tin khác của

khách hàng được xác định là bí mật.
Quy tắc này quy định bổn phận và trách nhiệm đạo đức của luật sư.

3.8. Quy tắc 13: Tiếp nhận khiếu nại của khách hàng
"Quy tắc 13. Tiếp nhận khiếu nại của khách hàng
13.1. Khi tiếp nhận yêu cầu khiếu nại của khách hàng, luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư có thái độ ôn hòa, nhã nhặn, chủ động thương lượng, hòa giải với khách hàng;
nếu không có kết quả thì hướng dẫn khách hàng thủ tục khiếu nại tiếp theo để quyền lợi
của khách hàng được giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo vệ uy tín của luật sư, tổ
chức hành nghề luật sư."
Nếu khách hàng có khiếu nại với luật sư thì khiếu nại cần được giải quyết nhanh
chóng và hiệu quả, trong tất cả mọi trường hợp khách hàng phải được đảm bảo rằng
khiếu nại của họ phải được xem xét một cách nghiêm túc và được trả lời một cách sớm
nhất.

9


Trong trường hợp khách hàng không hài lòng với cách giải quyết khiếu nại của văn
phòng luật sư, công ty luật thì phải cân nhắc việc có thể kiện văn phòng luật sư, công ty
luật theo con đường hành chính hoặc tư pháp.

3.9. Quy tắc 14: Những việc luật sư không được làm trong
quan hệ với khách hàng
-

Quy tắc này chính là các quy phạm cấm đoán có ý nghĩa bắt buộc đối với luật sư
Là những nghĩa vụ đạo đức của luật sư trong quan hệ với khách hàng.

IV. Một số vụ kiện thực tế liên quan đến mối quan hệ giữa luật sư và

khách hàng
- Tháng 1-2008, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã bác kháng cáo,
tuyên y án 29 năm tù đối với luật sư Lê Bảo Quốc về các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trốn khỏi nơi giam, đưa hối lộ, làm giả tài liệu,
giấy chứng nhận của cơ quan, tổ chức. Theo tòa, lợi dụng kẽ hở của pháp luật, tâm lý lo
sợ trong tranh chấp, sự thiếu hiểu biết của người dân, luật sư Lê Bảo Quốc đã lừa đảo
chiếm đoạt gần 4 tỉ đồng và 35.000 USD của 11 cá nhân; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
hơn 181 triệu đồng và 20.000 USD của bốn cá nhân khác…
- Tháng 8-2009, TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt luật sư Lê Quốc Trung (Đoàn Luật
sư TP Hà Nội) 13 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo bản án, năm 2004, luật
sư Lê Quốc Trung thành lập một công ty TNHH. Với mác luật sư, giám đốc, cần vốn kinh
doanh, Lê Quốc Trung đã sử dụng nhiều thủ đoạn gian dối chiếm đoạt hơn 1,7 tỉ đồng
của nhiều người để đánh bạc và cá độ đá banh rồi bỏ trốn.
- Tháng 2-2010, TAND tỉnh Quảng Ninh đã phạt luật sư Nguyễn Ngọc Chính 12
năm tù về hai tội làm môi giới hối lộ và lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phạt luật sư tập sự
Trần Thị Ngọc Tú 4 năm tù về tội làm môi giới hối lộ. Được chọn là người bảo vệ cho
một người bị khởi tố về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tuy nhiên luật sư Nguyễn
Ngọc Chính đã cấu kết với điều tra viên VNS (đã bị phạt 16 năm tù) ỉm đi kết quả giám
định để luật sư lừa gia đình thân chủ là sẽ thay đổi kết quả này “biến từ ma túy thành
không” với giá 20.000 USD. Đồng thời, điều tra viên VNS thỏa thuận với thẩm phán
HCT (chủ tọa phiên tòa, đã bị phạt 15 năm tù) xử mức án nhẹ nhất với giá 200 triệu
đồng…

10


Nghiêm trọng nhất có thể kể đến là vụ án lừa đảo do luật sư Nguyễn Trọng Quý
cầm đầu. VKSND TP đã đề nghị TAND TP HCM tuyên phạt vị luật sư này mức án chung
thân về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng giá trị tài sản lên tới 35 tỷ đồng.
Theo luật sư Đoàn Công Thiện (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang) chuyện

luật sư vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật xuất phát từ ý thức vụ lợi của một số luật sư
thiếu lương tâm nghề nghiệp, thiếu bản lĩnh, bị chi phối bởi giá trị vật chất. Vi phạm
thường rơi vào những người không chịu rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, không
đặt lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích chung của xã hội.
Đến những lời biện hộ "cười ra nước mắt" dành cho khách hàng:
Vì “mục đích cao cả” là bảo vệ quyền lợi của thân chủ, không ít luật sư đã gây ra
những tai nạn nghề nghiệp “cười ra nước mắt”. Những lời thề “danh dự”, câu nói “chợ
búa”, lập luận “cùn” đã được các luật sư tuôn ra ngay tại phiên tòa khiến người tham dự
bất bình.
Trong một phiên xét xử vụ án hiếp dâm, khi bị cáo nhận tội thì luật sư H. (Đoàn
Luật sư tỉnh Q.) lại vắng mặt. Sang phần tranh luận, vị luật sư này mới có mặt và chẳng
cần biết diễn biến phiên tòa trước đó, cứ hùng hồn: “Tôi thề danh dự với Hội đồng xét xử
là thân chủ của tôi không phạm tội”. Kết quả, luật sư thì bị tòa “uốn nắn”, còn vị thân chủ
thì vẫn lĩnh án 5 năm tù.
Khi tham gia bào chữa trong một vụ giết người tại TAND TP.HCM, một luật sư đã
lập luận rằng bị cáo chém nạn nhân để “phòng xa”. Theo luật sư này, khi hai bên ẩu đả,
nạn nhân đuổi theo bị cáo thì việc bị cáo cầm dao chém nạn nhân là chuyện bình thường.
Bởi vì nếu không làm vậy thì nạn nhân vẫn tiếp tục đuổi theo và có thể… giết bị cáo.
Khi kiểm sát viên vặn lại: “Luật sư nói thế nhưng tại sao nạn nhân gục xuống rồi bị
cáo vẫn chém tiếp cho chết hẳn?”. Luật sư này còn cố cãi : “Thưa quý viện, thân chủ của
tôi làm vậy cho... chắc ăn” (!). Lúc này kiểm sát viên thật sự tức giận: “Đề nghị luật sư
tranh luận nghiêm túc vào đúng bản chất vụ án. Rõ ràng hồ sơ thể hiện bị cáo đã cố sát
chém nạn nhân cho đến chết rồi bỏ trốn, không hề có dấu hiệu của sự phòng vệ chính
đáng, thế mà luật sư còn cố biện hộ cho được”. Vị luật sư này vẫn không chịu thua: “Tui
nói vậy thôi, trúng hay trật tùy tòa đánh giá” (!?).
Trên đây chỉ là hai trong nhiều vụ luật sư thực hiện việc bào chữa lấy được, theo
kiểu cố đấm ăn xôi. Theo nhiều chuyên gia, đội ngũ luật sư của nước ta hiện nay có chất
lượng không đồng đều. Tham gia tố tụng, không ít luật sư còn yếu về chuyên môn, kinh

11



nghiệm, cãi chày cãi cối, không bảo vệ được mà còn làm xấu hơn tình trạng của thân chủ
bởi đương nhiên là không tòa nào chấp nhận những lập luận vô lý của họ.
Lấy đạo đức làm gốc cho nghề luật sư
Nghề nghiệp đòi hỏi mỗi luật sư phải tự điều chỉnh hành vi của mình và cơ sở của
sự tự điều chỉnh đó chính là đạo đức. Luật sư hành nghề với mục tiêu phụng sự công lý,
tôn trọng và dựa trên pháp luật thì trước hết phải xuất phát từ nền tảng đạo đức. “Vạn
pháp do tâm”, nếu rèn giũa để cái tâm trong sáng hiện ra thì mọi tình huống phức tạp xảy
ra trong đời sống cá nhân và hành nghề của từng luật sư đều sẽ trở nên đơn giản. Theo
Luật sư Trương Xuân Tám: “Nếu luật sư không giữ gìn đạo đức nghề nghiệp cao quý của
mình mà cứ hứa hão, hứa suông nhằm lôi kéo khách hàng, nhằm thu tiền thù lao cao thì
rất nguy hiểm. Vừa dễ dẫn đến mất uy tín, vừa không xây dựng được thương hiệu cho
mình lại dễ dẫn tới sai phạm”.
Luật sư Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng nhấn mạnh: “Luật
sư dù giỏi cỡ mấy mà không có đạo đức thì coi như hỏng. Luật sư là người bảo vệ công
lý, lẽ phải, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và quyền tự do, dân chủ, pháp
chế XHCN. Nếu họ vi phạm đạo đức thì không những không bảo vệ được mà còn tác
dụng rất xấu tới dư luận xã hội và uy tín nghề nghiệp.” Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào Bộ
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư để răn đe, giáo dục, thuyết phục thì chưa
đủ. Quan trọng hơn là cơ quan chức năng phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý
nghiêm các trường hợp sai phạm của luật sư, kết hợp với việc tăng cường đấu tranh
phòng, chống tham nhũng nói chung trong các cơ quan tố tụng.

12



×