Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quản lý vốn lưu động và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý vốn lưu động tại thời báo kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.88 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý tài chính luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lý
của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp
trong cuộc đời kinh doanh. Nếu như doanh nghiệp quản lý tài chính kém hiệu
quả sẽ rất dễ bị thua thiệt và dẫn đến thất bại trong kinh doanh. Việc quản lý tài
chính có hiệu quả sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng nghĩa với
sự tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải đảm
bảo bảo toàn và phát triển vốn nói chung cũng như vốn lưu động nói riêng.
Muốn quản lý vốn lưu động của mình có hiệu quả các doanh nghiệp phải có sự
kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như tình hình kinh tế- xã hội luật pháp của đất nước. Dù cho đó là doanh nghiệp
kinh doanh hay công ích, doanh nghiệp thương mại hay sản xuất, doanh nghiệp
thua lỗ hay đang hưng thịnh muốn tồn tại và phát triển thì không thể không quản
lý tốt các nguồn lực của mình mà cụ thể ở đây là vốn lưu động.
Trong thời gian qua Thời báo Kinh tế Việt Nam đã có những cố gắng
trong việc khai thác và sử dụng vốn phát triển SXKD và đã đạt được kết quả
nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được Thời báo vẫn còn nhiều vấn
đề cần giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý vốn đặc biệt là vốn
lưu động.
Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề và từ những kinh nghiệm đúc kết
qua quá trình làm việc thực tế ở Thời báo Kinh tế Việt nam, em đã nghiên cứu
thực hiện đề tài:
“ QUẢN LÝ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC QUẢN LÝ VỐN LƯU ĐỘNG TẠI THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT
NAM ”
Nội dung của Đề tài được trình bày theo 3 chương:
Chương I - Giới thiệu Thời Báo Kinh Tế Việt Nam – Một đơn vị hành
chính sự nghiệp có thu và chi
Chương II - Quản lý vốn tại doanh nghiệp và thực trạng công tác quản lý
vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt nam
Chương III -Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý vốn lưu động


tại Thời báo Kinh tế Việt nam


CHƯƠNG I
THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM - MỘT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ
NGHIỆP CÓ THU VÀ CHI
I-Quá trình hình thành và phát triển của Thời báo Kinh tế Việt nam
Thời báo Kinh tế Việt Nam ra đời và phát triển cùng với tiến trình đổi
mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sự đa dạng hoá của các thành phần kinh
tế cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, làm cho số
lượng các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn.
Nhu cầu thông tin kinh tế không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp Việt nam mà
còn trở nên rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh
doanh và đầu tư ở Việt nam
Thời báo Kinh tế Việt nam (TBKTVN) là cơ quan Trung ương của Hội
Kinh tế Việt nam, được thành lập từ năm 1991. TBKTVN là một tổ chức sự
nghiệp, mang tính chất kinh tế, chính trị, xã hội nhiều hơn là tổ chức kinh doanh,
hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Số báo đầu tiên ra mắt bạn đọc vào
tháng 3 năm 1992 dưới dạng báo tháng, phát hành trên cả nước với lượng phát
hành là 3000 bản/1kỳ và đầu tháng 6/1993 báo bắt đầu phát hành hàng tuần.
Để nâng cao chất lượng cũng như việc mở rộng phạm vi hoạt động của tờ
báo, ngày 24 tháng 09 năm 1992, Thời báo Kinh tế Việt Nam đã ký Hợp đồng
Hợp tác Kinh doanh (BCC) với công ty Ringier AG, Thuỵ Sỹ, một công ty
truyền thông-thông tin đa quốc gia với hơn 8000 nhân viên khắp toàn cầu, về
việc in ấn và phát hành tờ "Thời báo Kinh tế Việt Nam". Đây là Hợp đồng Hợp
tác Kinh doanh theo giấy phép đầu tư số 470/GP cấp ngày 26 tháng 11 năm
1992 của Uỷ Ban Nhà Nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ kế Hoạch và Đầu
tư).
Cùng với sự hợp tác của công ty Ringier AG, tháng 03 năm 1994, Thời
báo Kinh tế Việt Nam xuất bản thêm một ấn phẩm mới tạp chí kinh tế tháng

bằng tiếng Anh Vietnam Economic Times.
Từ đó đến nay, Thời báo Kinh tế Việt Nam đã phát triển không ngừng,
tháng 6/1997 một ấn phẩm mới nữa ra đời "Tư vấn tiêu dùng" - chuyên san
dành cho mọi gia đình, phát hành hàng tháng; tờ "The Guide" tách khỏi
"Vietnam Economic Times" tạo thành một ấn phẩm mới. Tháng 7/1998 tờ báo
điện tử "VNECONOMY.COM.VN" cũng chính thức đi vào hoạt động. Sự phát
triển đó càng được khẳng định hơn, vào đầu năm 2003 , báo "Thời báo Kinh tế
Việt Nam" một lần nữa tăng kỳ phát hành lên một tuần 4số, với lượng phát hành
và số trang không đổi.

2


Từ một cơ sở vật chất nghèo nàn với số lượng cán bộ ít ỏi, trụ sở cơ quan
đặt tại số 8 Lý Thường Kiệt- Hà Nội; đến nay Thời báo Kinh tế Việt Nam đã và
đang lớn mạnh về nhiều mặt với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Trụ sở chính
cuả Toà soạn hiện nay đặt tại 96 Hoàng Quốc Việt - Hà Nội, với một diện tích
mặt bằng sử dụng rộng lớn, đầy đủ và phù hợp với yêu cầu công tác của một cơ
quan báo chí. Số lượng cán bộ của Thời báo Kinh tế Việt Nam hiện có trên 100
người, không tính đến đội ngũ cộng tác viên đông đảo gồm các giáo sư, tiến sỹ..
thuộc nhiều bộ ngành khác nhau.
Ngoài ra Toà báo còn có các chi nhánh tại các thành phố Hải Phòng, Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu.
II-Chức năng và nhiệm vụ của Thời báo Kinh tế Việt nam
Mục đích hoạt động của tờ báo như tờ trình của Hội Kinh tế Việt nam với
Bộ Văn hoá Thông tin là truyền bá những kiến thức và thành tựu về khoa học
kinh tế, gắn khoa học kinh tế với đời sống với chính sách luật pháp của nhà
nước, bồi dưỡng kiến thức kinh nghiệm kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp
Việt nam.
III-Cơ cấu tổ chức quản lý của Thời báo Kinh tế Việt nam

Cơ cấu tổ chức quản lý của Thời báo Kinh tế Việt nam như sau :
BAN LÃNH ĐẠO

BỘ PHẬN THƯƠNG MẠI

BỘ PHẬN BIÊN TẬP

BỘ PHẬN TRỊ SỰ

BIÊN TẬP TIẾNG VIỆTBIÊN
TẬP TIẾNG ANHBÁO ĐIỆN TỬ

BỘ PHẬN QUẢNG CÁOBỘ
PHẬN PHÁT HÀNHBỘ PHẬN
TÀI CHÍNH

Ban lãnh đạo bao gồm : Tổng Biên tập và các Phó Tổng biên tập.
Tổng Biên Tập là người phụ trách cao nhất, chịu trách nhiệm về công viêc
chung trước Pháp luật và Hội Kinh tế VN. Giúp việc cho Tổng Biên Tập là các
Phó Tổng Biên Tập và các trưởng bộ phận.
Tổ chức của Thời báo Kinh tế Việt nam gồm 3 bộ phận chính: Bộ phận
biên tập, Bộ phận thương mại và Bộ phận trị sự.
3


1 . Bộ phận trị sự:
Bộ phận trị sự đứng đầu là một giám đốc trị sự, phụ trách 12 nhân viên, có
nhiệm vụ lo toàn bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cũng như quan tâm
đến đời sống tinh thần cho toàn bộ nhân viên trong toà soạn...
2 . Bộ phận biên tập:

Bộ phận biên tập đứng đầu là các Phó tổng biên tập, trong đó gồm nhiều
ban nhỏ: Phóng viên - Biên tập - Sản xuất. Đây là bộ phận có nhiệm vụ quan
trọng nhất, sản xuất ra các ấn phẩm, bao gồm 5 ấn phẩm: Việt Nam Economic
Times và The Guide tạp chí phát hành hàng tháng, Thời báo Kinh tế Việt Nam
phát hành 4 kỳ trong tuần, Tư vấn tiêu dùng - chuyên san hàng tháng và báo
điện tử - VNECONOMY.COM.VN phát hành hàng ngày.
3. Bộ phận Thương mại:
Bộ phận Thương mại, phụ trách công việc kinh doanh của Toà báo. Bộ
phận Thương mại làm việc trực tiếp với phía đối tác Ringier về nghiệp vụ. Tuy
nhiên, về pháp lý vẫn thuộc về Thời báo kinh tế Việt nam và vấn đề nhân sự
phải được Tổng Biên Tập quản lý.
3.1Phòng quảng cáo:
Phòng quảng cáo hoạt động dưới sự chỉ đạo và điều hành của trưởng
phòng quảng cáo. Trưởng phòng quảng cáo là người trực tiếp tham mưu cho hội
đồng biên tập về những mục tiêu nội dung của các bài viết về những sản phẩm
của những doanh nghiệp được đăng quảng cáo trên các ấn phẩm của
TBKTVN.Bộ phận quảng cáo gồm 20 nhân viên cả 2 miền Nam và Bắc, đã có
những đóng góp không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh của Thời báo vì tuy là
một đơn vị phát hành song thực tế doanh thu quảng cáo lại là khoản thu chính
trong tổng doanh thu của TBKTVN.
3.2Phòng phát hành:
Phòng phát hành dưới sự điều hành của trưởng phòng phát hành. Những
ấn phẩm sau khi đã được nghiệm thu về chất lượng in ấn, từ nhà in được chuyển
giao trực tiếp cho bộ phận Phát hành. Bộ phận phát hành tiến hành nhập kho
đúng số lượng phát hành, sau đó phát hành kịp thời tới khách hàng đúng thời
gian quy định. Ví dụ: tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam phải được bán ở tất cả các
sạp báo, hoặc tới tay khách hàng vào các sáng thứ 2, 4, 6, 7 trong tuần.
3.3Phòng tài chính:
Phòng tài chính do một Giám đốc tài chính trực tiếp phụ trách. Đội ngũ
cán bộ gồm có một kế toán trưởng, bốn kế toán viên, một thủ quĩ và một thủ

kho, với những nhiệm vụ chính sau:

4


-

Tổ chức công tác hạch toán và kế toán các nghiệp vụ kinh doanh và sản
xuất toàn Toà soạn theo Pháp lệnh Kế toán thống kê.
- Làm nhiệm vụ thống kê theo yêu cầu quản lý Nhà nước, xây dựng và quản
lý các định mức về tiền lương lao động toàn Toà soạn, lập ngân sách tài
chính.
- Báo cáo kế toán tổng hợp về doanh thu và lợi nhuận từng tháng, báo cáo
tình hình tài chính định kỳ cho Công ty Ringier và cho Tổng Biên tập .
- Trợ lý Giám đốc và Ban lãnh đạo trong việc ra các quyết định tài chính đối
với hoạt động SXKD
- Kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính của công ty.
Hiện nay công ty là một đơn vị hạch toán độc lập, toàn bộ công việc kế
toán được tập trung thực hiện tại phòng kế toán từ khâu tập hợp số liệu, ghi sổ
kế toán đến lập báo cáo tài chính.
IV-Đặc điểm về sản xuất và tiêu thụ tại Thời báo Kinh tế Việt nam
Sản phẩm của Thời báo Kinh tế Việt Nam bao gồm 5 ấn phẩm đã kể
trên, trong đó 1 ấn phẩm là báo điện tử, hiện nay bạn đọc được khai thác thông
tin miễn phí, còn lại 4 ấn phẩm báo giấy, trong đó số lượng phát hành lớn nhất
và thường xuyên nhất là tờ thời báo kinh tế Việt Nam, phát hành vào sáng thứ 2,
4, 6 và 7 hàng tuần.
Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ công ty đã có áp dụng nhiều phương thức
bán hàng thích hợp:
- Phát hành qua Công ty Phát hành Báo chí Trung ương là một kênh quan
trọng và chủ yếu của Thời báo Kinh tế Việt Nam. Mỗi số, Toà soạn chuyển

báo đến Công ty và phương thức thanh toán là gối đầu hàng tháng.
- Phương thức bán hàng trực tiếp, theo phương thức này nhân viên phát hành
mời khách hàng đặt báo trực tiếp qua Toà soạn và Toà soạn tổ chức một đội
phát báo đưa báo đến tận nơi đúng ngày phát hành. Khách hàng có thể trả
ngay tiền hàng hoặc chậm trả, số hàng hoá đã bán không thuộc sở hữu của
doanh nghiệp.
- Bên cạnh phương thức này công ty còn áp dụng phương thức gửi đại lý.
Mỗi khách hàng muốn làm đại lý cho công ty phải tiến hành làm thủ tục cần
thiết đó là ký hợp đồng đại lý, đến Toà soạn nhận báo từ lúc 5 giờ sáng các
ngày ra báo rồi phân phát đến các sạp nhỏ hơn để bán lẻ hoặc phát báo cho
độc giả do mình tự khai thác. Những đại lý này có thể trả tiền trước và nợ
tiền.
Ngoài ra công ty còn sử dụng các phương thức thanh toán khác nhau tuỳ vào
từng khách hàng bao gồm :
5


Bán hàng thanh toán ngay
 Bán trả chậm
 Về giá bán:
Khác với loại hình sản phẩm khác, giá bán các ấn phẩm thường ít biến
động, thường được cố định theo năm. Giá bán được in trên mặt báo tại bìa cuối
của tờ báo và không có giảm giá, khách hàng hưởng hoa hồng theo số lượng
phát hành.
CHƯƠNG II : QUẢN LÝ VỐN TẠI DOANH NGHIỆP VÀ
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VỐN LƯU ĐỘNG TẠI THỜI BÁO KINH TẾ
VIỆT NAM
I. Vốn lưu động - Khái niệm và các vấn đề có liên quan
1.Tài sản lưu động
Hoạt động SXKD của bất kỳ doanh nghiệp nào, trong bất kỳ lĩnh vực nào

muốn tiến hành được cũng đòi hỏi phải có hai yếu tố vô cùng quan trọng của
quá trình sản xuất đó là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trên cơ sở các
yếu tố của sản xuất này thì tài sản của một doanh nghiệp cũng được chia làm hai
loại: Tài sản cố định và Tài sản lưu động.
Việc quản trị và sử dụng lại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất lớn đối với
việc hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch chung của doanh nghiệp. Qua thực tiễn
người ta nhận thấy rằng mặc dù hầu hết các vụ phá sản, giải thể trong kinh
doanh là hậu quả của nhiều nhân tố chứ không chỉ do quản lý vốn lưu động tồi.
Song cũng không thể phủ nhận rằng sự bất lực trong hoạch định và kiểm soát
chặt chẽ các loại tài sản lưu dộng và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một
nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại cuối cùng.
2.Vốn lưu động-Vốn lưu động thường xuyên và cách xác định
2.1.Vốn lưu động -Vốn lưu động thường xuyên
Bất cứ hoạt động SXKD nào cũng cần có vốn, vậy vốn là gì? Kinh tế chính
trị học quan niệm vốn là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Như vậy tất cả
những gì đem lại cho người sử dụng giá trị thặng dư đều được coi là tư bản hay
vốn. Ngoài ra vốn còn được hiểu một cách cụ thể hơn đó là biểu hiện bằng tiền
của vật tư tài sản được đầu tư vào SXKD, là giá trị ứng trước, chi phí cơ hội của
việc nắm giữ tài sản, vật tư. Do vậy một cách chung nhất vốn được định nghĩa là
lượng tiền ứng trước để thoả mãn các yếu tố đầu vào.
Vốn được đầu tư vào quá trình SXKD dưới dạng các tài sản của doanh
nghiệp và ứng với mỗi lọai tài sản được đầu tư bằng một loại vốn khác nhau đó
là vốn lưu động và vốn cố định. Với định nghĩa tương đối đầy đủ ở trên ta có thể
khái quát vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn các nhu cầu về đối


6


tượng lao động. Hay nói cách khác vốn lưu động chính là giá trị của tài sản lưu

động
Với định nghĩa này có thể thấy các bộ phận cơ bản cấu thành vốn lưu
động bao gồm:
 Tiền mặt và các chứng khoán có khả năng thanh khoản: Tiền mặt bao gồm
tiền hiện có trong két và tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp. Chứng khoán
thanh khoản cao thường là các tín phiếu kho bạc, thương phiếu ngắn hạn mà
doanh nghiệp có thể dễ dàng đem bán.
 Các khoản phải thu: Đây là một bộ phận quan trọng, một khoản mục tất yếu
trong cơ chế thị trường. Cơ sở của các khoản phải thu là các hoá đơn bán
hàng và các phiếu chấp nhận trả tiền của người mua mà do nhiều lý do người
bán chưa thu được tiền ngay.
 Dự trữ tồn kho: Dự trữ tồn kho trong một doanh nghiệp bao gồm nguyên
nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, thành phẩm. Chi phí dự
trữ không chỉ gồm chi phí bảo quản mà còn bao gồm cả chi phí cơ hội của
vốn. Việc dự trữ mặc dầu có chi phí nhưng nó cũng mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp. Điều này sẽ được đề cập kỹ hơn trong mục quản lý vốn lưu
động
Như ta đã biết tài sản của doanh nghiệp được chia làm hai bộ phận là tài
sản lưu động (và đầu tư ngắn hạn) và tài sản cố định (và đầu tư dài hạn). Để
hình thành hai loại tài sản này đòi hỏi phải có các nguồn tài trợ tương ứng đó là
các nguồn tài trợ ngắn hạn và nguồn tài trợ dài hạn
Thông thường các nguồn vốn dài hạn là các nguồn vốn mà doanh nghiệp
sử dụng lâu dài, còn các nguồn vốn ngắn hạn là các nguồn vốn doanh nghiệp
được sử dụng trong khoảng thời gian dưới 1 năm. Nguồn vốn dài hạn này trước
hết được đầu tư để hình thành nên TSCĐ, phần dư của nguồn vốn dài hạn và
nguồn vốn ngắn hạn là để hình thành nên TSLĐ. Khi đó xuất hiện một khoảng
chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và TSCĐ bằng với chênh lệch giữa TSLĐ và
nguồn vốn ngắn hạn. Phần chênh lệch này được gọi là vốn lưu động thường
xuyên.
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đánh giá

tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó phản ánh:
- Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay không
- TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn
hay không
Ngoài chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên, để nghiên cứu tình hình đảm
bảo vốn cho hoạt động kinh doanh người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu vốn
7


lưu động thường xuyên. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn
hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ(TSLĐ không phải là tiền)
2.2.Cách xác định
Có nhiều cách để xác định vốn lưu động song có lẽ cách đơn giản, dễ hiểu
nhất là xác định vốn lưu động theo khái niệm vốn lưu động trừ đi vốn lưu động
là giá trị của TSLĐ. Với cách xác định này ta có
Tiền và các chứng khoán có
Giá trị của các
Giá trị của dự
VLĐ =
+
+
(1)
khả năng thanh khoản cao
khoản phải thu
trữ tồn kho
Ngoài ra ta còn có thể xác định vốn lưu động theo vốn lưu động thường
xuyên. Như ta đã biết vốn lưu động thường xuyên là phần chênh lệch giữa
nguồn vốn dài hạn và TSCĐ, giữa TSLĐ và nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy vốn
lưu động thường xuyên được xác định như sau :
VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn –

Tài sản cố định
(2)
= Tài sản lưu động

Nguồn vốn ngắn hạn
Nhìn vào biểu thức trên ta nhận thấy vốn lưu động thường xuyên của
doanh nghiệp khác với vốn lưu động ở chỗ : Vốn lưu động của doanh nghiệp thể
hiện giá trị tài sản của doanh nghiệp do vậy luôn luôn dương. Trong khi đó vốn
lưu động thường xuyên có thể âm hoặc dương
- VLĐ thường xuyên âm khi nguồn vốn dài hạn < TSCĐ cũng có nghiã là
TSLĐ đủ để đầu tư cho TSCĐ, một phần TSCĐ phải đầu tư bằng nguồn vốn ngắn
hạn. Đồng thời TSLĐ không đủ bù đắp nợ ngắn hạn làm cho cán cân thanh
toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần
TSCĐ để thanh toán cho nợ ngắn hạn đến hạn. Rõ ràng không một doanh
nghiệp nào mong muốn điều này.
- VLĐ thường xuyên ≥ 0 khi nguồn vốn dài hạn ≥ TSCĐ đồng thời TSLĐ ≥
nguồn vốn ngắn hạn. Điều này chứng tỏ tình hình tài chính của công ty
tương đối lành mạnh. Nguồn vốn dài hạn sau khi đầu tư vào TSCĐ sẽ đầu
tư vào một phần TSLĐ. Điều này đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
và TSCĐ của doanh nghiệp được đầu tư vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn.
Từ (2) ta có thể suy ra một cách khác để xác định vốn lưu động :
Vốn lưu động =

VLĐ thường xuyên
+ Nguồn vốn ngắn hạn (3)
Tổng nguồn vốn (tài sản) của
Vốn lưu động =
Tài sản cố định
(4)

doanh nghiệp
Từ công thức (4) ta có nhận xét vốn lưu động của doanh nghiệp là phần
còn lại của tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được sau khi đã
tài trợ cho TSCĐ.
8


Như vậy ta có thể xác định vốn lưu động của doanh nghiệp theo 3 cách
trên và cả 3 cách này cùng cho một kết quả như nhau song một công thức lại có
một ý nghĩa riêng phản ánh một khía cạnh nào đó của vốn lưu động.
II. Quản lý vốn lưu động trong các doanh nghiệp
1.Sự cần thiết của công tác quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp
Vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng là điều kiện không thể thiếu để
thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động SXKD. Trong mọi loại
hình doanh nghiệp vốn lưu động được đầu tư vào TSLĐ, một bộ phận không thể
thiếu được của quá trình SX, đảm bảo cho quá trình này diễn ra liên tục, đảm
bảo sự vận hành của TSCĐ. Cụ thể vốn lưu động là một bộ phận chủ yếu cấu
thành nên thực thể sản phẩm, tức là cấu thành nên giá thành sản phẩm. Do vậy
chi phí về vốn lưu động là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm sản xuất hay
cung ứng. Và vì vậy quản lý vốn lưu động cũng là một cách để quản lý chi phí,
giá thành... nhằm đạt được hiệu quả SXKD. Quản lý vốn lưu động lúc này được
xem xét trên giác độ của quan điểm hiệu quả.
Như vậy trong suốt quá trình tồn tại, sự vận động của vốn lưu động luôn
gắn với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vốn lưu động vận động
theo mỗi giai đoạn của quá trình SX như: cung ứng vật tư, sản xuất kinh doanh,
dự trữ và tiêu thụ...Với tư cách là người có vai trò quyết định đối với hiệu quả sử
dụng vốn lưu động, chủ doanh nghiệp phải tính toán chặt chẽ số vốn lưu dộng
phù hợp với nhu cầu sản xuất, làm thế nào để tiết kiệm vốn , tránh lãng phí, ứ
đọng vốn ở các khâu, công đoạn của quá trình sản xuất, tiêu thụ. Đó cũng chính
là yêu cầu, nội dung của công tác quản lý vốn lưu động

2.Nội dung của công tác quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp
2.1.Yêu cầu, nguyên tắc của công tác quản lý vốn lưu động
Để thực hiện công tác quản lý vốn lưu động có hiệu quả nhà quản trị
doanh nghiệp cần nắm được các yêu cầu, nguyên tắc của công tác này
- Đảm bảo đủ nguồn vốn
- Huy động vốn với chi phí thấp nhất
- Sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả
2.2.Nội dung của công tác quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp
Mục tiêu của quản lý vốn lưu động là làm thế nào để đạt được hiệu quả tốt
nhất trong việc sử dụng vốn lưu động. Để đạt được mục tiêu này, các nhà quản
lý tài chính doanh nghiệp cần phải trả lời cho được một loạt các câu hỏi như:
Doanh nghiệp nên giữ một lượng tiền mặt và dự trữ là bao nhiêu ? Doanh
nghiệp có nên bán chịu hay không ? Nếu doanh nghiệp bán chịu thì điều khoản
bán hàng nên như thế nào ? Doanh nghiệp nên bán chịu cho loại khách hàng nào
9


và ở đâu ? Doanh nghiệp có nên mua chịu hay là đi vay để trả tiền ngay ? Nếu đi
vay thì sẽ vay như thế nào và ở đâu ? ... Tuy nhiên trước khi trả lời tất cả các câu
hỏi trên, một vấn đề lớn đầu tiên đặt ra đối với các doanh nghiệp đó là để đảm
bảo vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng cho hoạt động SXKD, doanh
nghiệp cần xác định nên lựa chọn nguồn tài trợ nào cho phù hợp. Vì cơ cấu, quy
mô vốn của các doanh nghiệp là không giống nhau do đó sẽ là không hợp lý nếu
quy định một mô hình tài trợ vốn như nhau cho tất cả các doanh nghiệp. Vì vậy
điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tự xác định cho mình một sự kết hợp
các nguồn tài trợ có lợi nhất.
2.2.1. Quản lý sử dụng vốn lưu động
Hai đặc trưng cơ bản của TSLĐ là tham gia vào một chu kỳ SXKD và
luân chuyển 1 lần đã quyết định phương pháp quản lý đặc trưng vốn lưu động là
quản lý theo định mức. Vì vậy để quản lý vốn lưu động tại doanh nghiệp phải

căn cứ vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của SX để định mức vốn cho từng đơn vị
sản phẩm, từng khâu hay từng loại tài sản.
2.2.2. Quản lý dự trữ
a-Vai trò của dự trữ
Hàng hoá dự trữ trong doanh nghiệp có 3 loại: nguyên vật liệu thô, sản
phẩm dở dang, thành phẩm.
+Trong quá trình sản xuất, hàng hoá tồn kho là các nguyên liệu, bán thành
phẩm nằm ở các công đoạn của dây chuyền sản xuất
+ Trong quá trình tiêu thụ, do có độ chễ giữa sản xuất và tiêu dùng, do sản
xuất mang tính thời vụ...hàng hoá dự trữ tồn tại dưới dạng các sản phẩm hoàn
thành.
Đối với một doanh nghiệp thì dự trữ không trực tiếp, quyết định tạo ra lợi
nhuận nhưng nó có vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Sở dĩ như vậy vì nhờ có dự trữ đóng vai trò như một bước đệm SX mà
hoạt động SXKD của doanh nghiệp mới diễn ra bình thường, và do đó doanh
nghiệp sẽ không bị lãng phí sức lao động, không bị mất thị trường, và sử dụng
hợp lý máy móc thiết bị...
Do vậy, đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không thể
tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có vật tư, hàng hoá dự
trữ. Tuy nhiên trong quá trình dự trữ cũng phát sinh rất nhiều chi phí liên quan
vì vậy nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ không hiệu quả, tốn kém, ứ đọng vốn,
còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình SXKD bị gián đoạn. Do đó đối với
các doanh nghiệp việc quản lý dự trữ đòi hỏi phải xác định được lượng dự trữ tối
ưu, lượng dự trữ có chi phí dự trữ thấp nhất mà vẫn đảm bảo hiệu quả SXKD.
10


Thông thường dự trữ tồn kho trong doanh nghiệp chiếm 20% tổng tài sản của
doanh nghiệp.
b-Phương pháp quản lý dự trữ

Hàng hóa dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm có 3 bộ phận song quản lý
dự trữ chủ yếu xoay quanh bộ phận thứ nhất là nguyên vật liệu dự trữ. Phương
pháp cơ bản để quản lý dự trữ là dựa trên mô hình mức dự trữ tối ưu (E.O.Q).
Mô hình được xây dưng trên giả định là các lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Công tác quản lý dự trữ phải đáp ứng được nhu cầu của SXKD đồng thời
phải điều chỉnh liên tục trước những thay đổi khách quan cũng như chủ quan.
2.2.3. Quản lý vốn bằng tiền
a-Lý do doanh nghiệp phải dự trữ tiền mặt
Tiền mặt và tài sản có giá trị như tiền mặt là những tài sản có tính thanh
khoản cao nhất nhưng điều này cũng đồng nghĩa là chúng có tính sinh lời thấp
nhất. Vì vậy không một doanh nghiệp nào lại muốn giữ một khối lượng tiền mặt
lớn. Tuy nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải
mua sắm các tư liệu sản xuất, do vậy doanh nghiệp dù không muốn vẫn phải giữ
một lượng tiền mặt nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán cho những khoản
mua sắm này. Như vậy rõ ràng không phải giữ tiền mặt chỉ toàn là bất lợi mà
ngược lại nó còn đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích nhất định mà không
một doanh nghiệp nào lại từ chối. Những lợi thế đó là:
 Nhờ việc giữ tiền mặt, doanh nghiệp có thể chủ động trong SXKD. Cụ thể:
+ Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận
lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động chi trả.
+Khi có đủ tiền mặt giúp cho doanh nghiệp đáp ứng được các nhu cầu
trong những trường hợp khẩn cấp, vượt qua được những khó khăn do yếu tố thời
vụ và chu kỳ kinh doanh.
 Ngoài ra việc giữ tiền mặt còn giúp doanh nghiệp hưởng lợi thế chiết khấu
khi mua hàng hoá thanh toán ngay.
 Giữ đủ tiền mặt còn giúp doanh nghiệp duy trì tốt các chỉ số thanh toán trong
ngắn hạn, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đồng thời giúp doanh nghiệp có
thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi.
b-Phương pháp quản lý tiền mặt
Tuy rằng tiền mặt có những lợi thế trên song về cơ bản tiền mặt là tài sản

không sinh lãi do vậy trong quản lý tiền mặt việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt
phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng.
Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các tài sản gần với tiền mặt
11


như các chứng khoán có tính thanh khoản cao. Các loại chứng khoán gần như
tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt. Sở dĩ nói như vậy vì nếu
tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao và khi cần thiết cũng có thể đổi úng sang tiền mặt một cách dễ dàng
và ít tốn kém chi phí. Như vậy trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng
khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.
2.2.4. Quản lý các khoản phải thu
Trên thực tế, doanh nghiệp bán sản phẩm cho các doanh nghiệp khác
nhưng không phải lúc nào cũng thu được tiền ngay. Các hoá đơn chưa thanh
toán được gọi là tín dụng thương mại. Các khoản tín dụng thương mại này tạo
thành các khoản phải thu của doanh nghiệp. Vì vậy quản lý các khoản phải thu
chính là quản lý tín dụng thương mại – Một nội dung quan trọng của quản lý
vốn lưu động.
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng
Để thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp cần phải phân
tích khả năng tín dụng của khách hàng. Công việc này bắt đầu từ khi doanh
nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó là việc xác minh phẩm
chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách hàng
phù hợp với những tiêu cuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng
thương mại có thể được cấp. Tuy nhiên việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng đòi
hỏi phải đạt tới sự cân bằng thích hợp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng đặt ra quá cao sẽ
loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng, và ngược lại nếu tiêu chuẩn này lại quá
thấp có thể làm tăng doanh thu nhưng có rủi ro cao và chi phí cũng cao.


Thông tin tín dụng: Nếu doanh nghiệp muốn biết tình hình tín dụng của
khách hàng thì doanh nghiệp có thể tìm hiểu từ nhiều nguồn
- Báo cáo tài chính, bảng cân đối tài sản, kế hoạch ngân quỹ...
- Qua các ngân hàng
- Lịch sử thanh toán của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác...

Phương pháp đánh giá tín dụng thương mại
Phương pháp cho điểm
Không có một công thức chung nhất để đánh giá khả năng khách hàng có
thanh toán hay không. Nhưng một cách chunh nhất để đánh giá là dựa vào 5 tiêu
thức sau:
- Phẩm chất tư cách tín dụng
- Năng lực trả nợ
- Vốn của khách hàng
- Thế chấp
12


- Điều kiện kinh tế
Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp chỉ đơn thuần dựa trên số liệu thống kê của các năm.
Thông thường các doanh nghiệp có sổ sách theo dõi về khách hàng tiềm năng và
dựa trên cơ sở số liệu thông kê để đánh giá khách hàng, từ đó làm cơ sở cho việc
cấp tín dụng thương mại.
* Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị
Việc quyết định cấp tín dụng cho một khách hàng dựa trên cơ sở lợi íchchi phí của luồng tiền :
1− r
NPV = −[ PQ + V (Q'−Q) + cP' Q'] +
PQ'

1+ R
Trong đó :
P – Giá bán đơn vị
Q – Số lượng hàng hoá bán được trong trường hợp thanh toán ngay
Q’– Số lượng hàng hoá bán được trong trường hợp bán chịu
V– Chi phí biến đổi của 1 đơn vị sản phẩm
r – Tỷ lệ phần trăm hàng bán chịu không thu được tiền
c – Chi phí đòi nợ và tài trợ bù đắp cho khoản phải thu
P’– Giá bán chịu ( P’=P/(1-i))
i – Chiết khấu tính theo tỷ lệ phần trăm đối với hàng trả tiền ngay
R – Doanh lợi yêu cầu thu được hàng tháng
Nguyên tắc chấp thuận một khoản tín dụng thương mại là NPV>0
* Theo dõi khoản phải thu
Để giúp cho việc quản lý các khoản phải thu nhà quản lý phải biết cách
theo dõi các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dung
thương mại kịp thời. Thông thường người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp,
mô hình sau:
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu tiêu thụ bình quân ngày
Trong đó :
Doanh thu
Doanh thu tiêu thụ
=
bình quân ngày
Số ngày
Ý nghĩa : Kỳ thu tiền bình quân cho biết phải mất bao nhiêu ngày đồng
tiền bán hàng trước đó mới được thu hồi.
Do vậy khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số và lợi nhuận
không tăng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán và
doanh nghiệp phải có biện pháp can thiệp kịp thời.

II-Quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt nam
13


1. Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo KT Việt nam
1.1 Giới thiệu hoạt động phòng Tài chính-Kế toán Thời báo KT Việt nam
Với quy mô không lớn, số lượng nhân viên thuộc phòng Tài chính-Kế
toán của Thời báo Kinh tế Việt nam cũng không nhiều.
Theo biên chế, phòng kế toán của công ty có 8 người:
- Giám đốc tài chính: người chịu trách nhiệm cao nhất với Tổng biên tập
và Ban lãnh đạo về các báo cáo tài chính và quản lý công việc của các
nhân viên như sau:
- Kế toán trưởng: Có nhiệm vụ điều hành bộ máy kế toán thực thi theo
đúng chế độ chính sách, hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra hoạt động của các
nhân viên kế toán đồng thời trợ lý Giám đốc Tài chính.
- 1 kế toán tổng hợp: Thực hiện công tác kế toán tổng hợp (ghi sổ cái)
theo dõi mạng kế toán tài chính, lập báo cáo tài chính kiêm kế toán chi
phí.
- 2 kế toán tiêu thụ: 1 tại Hà Nội, 1 tại Thành phố Hồ Chính Minh, theo
dõi thực hiện các khoản doanh thu, công nợ.
- Kế toán thanh toán: Theo dõi chi tiết thanh toán với các đối tác đơn vị
liên quan, thanh toán hoa hồng, thanh toán lương bảo hiểm cho cán bộ
công nhân viên chức. Đồng thời theo dõi tình hình trích lập và sử dụng
các quỹ, tình hình thu chi tồn quỹ tiền mặt.
- Thủ quỹ: Có nhiệm vụ giữ quỹ tiền mặt, thu chi tiền mặt và ghi sổ quỹ.
- Kế toán kho (kiêm thủ kho): Quản lý tình hình xuất, nhập, tồn kho.
Phòng Tài chính - Kế toán có nhiệm vụ quản lý phân tích tài chính của
Thời báo theo đúng nguyên tắc, quy đinh của Nhà nước, tổng hợp doanh thu, chi
phí, tính toán thu nhập của công ty, tính các khoản thuế phải nộp và các khoản
đóng góp với Nhà nước. Phòng tài chính-kế toán phải thường xuyên báo cáo về

tình hình tài chính của công ty cho Ban lãnh đạo và công ty Ringier như các
khoản phải trả, các khoản phải thu, quỹ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, kế hoạch
tài chính trong thời gian tới... Đồng thời phòng Tài chính-Kế toán còn phải chịu
trách nhiệm về những báo cáo tài chính của công ty trước Pháp luật.
1.2 Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán

14


Bộ máy kế toán của Thời báo KT Việt nam có tổ chức như sau :
GIÁ M ĐỐC TÀ I CHÍ NH
KẾ TOÁN TRƯỞNG

KẾ TOÁN TỔNG HỢP

KẾ TOÁN
TIÊU THỤ
TẠI HÀ NỘI

KẾ TOÁN
TIÊU THỤ
TẠI TP. HCM

KẾ TOÁN
THANH
TOÁN

THỦ
QUỸ


THỦ
KHO

Kế toán Thời báo Kinh tế Việt Nam sớm tiếp cận với phương tiện tiên
tiến và được trang bị máy móc kỹ thuật khá hiện đại, các máy tính của bộ phận
tài chính được nối mạng với nhau do một máy chủ "server" quản lý. Từ năm
1995, cơ quan đã cho triển khai sử dụng phần mềm kế toán "Sunsystem" của
Mỹ.
2.Thực trạng huy động và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt
nam trong một vài năm gần đây
2.1.Cơ cấu tài sản và nguồn tài trợ
Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Thời báo trong vài năm qua được thể
hiện qua Bảng 1 và sự biến động của nó thể hiện trong bảng 2.

15


Bảng 1–Cơ cấu tài sản-nguồn vốn từ 1997-2000
Năm
1997
1998
1999
Triệu
%
Triệu
%
Triệu
%
đồng
đồng

đồng
Chỉ tiêu
I. Tài sản
10014 100 11288 100 11558 100

14239

100

1. TSLĐ

6235,5

62,3

6750,2

59,8

6945,7

60,1

8620,5

60,5

2. TSCĐ

3778,5


37,7

4537,4

40,2

4612,3

39,9

5618,5

39,4

II.Nguồn vốn

10014

100

11288

100

11558

100

14239


100

1. Nợ phải trả
2. Vốn chủ sở
hữu

5253,2

52,5

5825,5

51,6

5903,4

51,1

6934,4

48,7

4760,8

47,5

5462,1

48,4


5654,6

48,9

7304,6

51,3

Chỉ tiêu
I. Tài sản

2000
Triệu
%
đồng

(Nguồn: Bảng cân đối tài sản 1997-2000)
Bảng 2–Biến động tài sản-nguồn vốn giai đoạn 1996-1999
Đơn vị :Triệu đồng
Năm
97/96
98/97
99/98
CLệch
%
CLệch
%
CLệch
%

1273,6

112.7

270.4

102.4

81.4

100.7

1. TSLĐ

514.7

108.3

195.5

102.9

88.2

101.3

2. TSCĐ

758.9


120.1

74.9

101.7

-6.8

99.9

II. Nguồn vốn

1273.6

112.7

270.4

102.4

81.4

100.7

1. Nợ phải trả

572.3

110.9


77.9

101.3

71.8

101.2

2. Vốn chủ sở hữu

701.3

114.7

192.5 103.5
9.6
100.2
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99)
Qua bảng 1và 2 ta có nhận xét về cơ cấu tài sản của Thời báo KT Việt
nam như sau:
- TSCĐ của thời báo chiếm tỷ lệ nhỏ : khoảng từ 35%-40%. TSCĐ đạt tỷ
trọng lớn nhất vào năm 2000 là 40,2%. Cơ cấu TSCĐ tăng lên trong năm 2000
là vì công ty đã khấu hao hết máy móc thiết bị đã dùng trước đây và đang đầu tư
vào máy móc, thiết bị mới. Sở dĩ Thời báo là một doanh nghiệp SXKD song cơ
cấu TSCĐ lại không lớn là vì Thời báo chỉ đảm nhận các khâu biên tập và chế
bản còn việc in ấn do Công ty In Tiến bộ thực hiện. Do vậy TSCĐ của Thời báo
chủ yếu là các máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác quản lý...
- TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn, tuy nhiên cơ cấu TSLĐ không ổn định qua
các năm, cơ cấu này có năm tăng nhưng có năm lại giảm đi. Nhìn chung cơ cấu
này thường dao động trong khoảng 60%. Con số này nói lên rằng công ty luôn

có nhu cầu lớn về vốn lưu động
16


2.2.Cơ cấu tài sản-Tài sản lưu động
Để thấy rõ sự thay đổi về cơ cấu của TSLĐ (sử dụng vốn lưu động) là do
những nhân tố nào ta có thể quan sát ở Bảng 3.
Bảng 3–Cơ cấu vốn lưu động từ 1996-1999
1996
1997
1998
1999
TSLĐ
Triệu
Triệu
Triệu
Triệu
%
%
%
%
đồng
đồng
đồng
đồng
1232.
18. 1377.
1. Tiền mặt
2078.5 33.3
18.3 1290.3

19.6
8
6
9
Tiền mặt tại quỹ
176.5 2.8 200.3
3
230.6 3.3 252.4
3.6
Tiền gửi ngân
30. 1032.
1902
15.3 1059.7 15.3 1125.5
16
hàng
5
5
61. 4807.
72. 5218.
2. Phải thu
3849
71.2 5011.3
74.2
8
1
1
4
Phải thu khách
4556.
68. 4882.

3678.2 59.1
67.5 4750.3
69.4
hàng
8
4
3
Ứng trước cho
0
0
0
0
110.2 1.6 200.5
2.9
người bán
Phải thu khác
170.8 2.7 250.3 3.7
150.8 2.1 135.6
1.9
3. TSLĐ khác
Tạm ứng
Chi phí trả trước

308

4.9

710.3 10.5

644.1


9.3

437.6

6.2

281.2

4.5

265.5

285.5

4.1

293.3

4.2

26.8

0.4

3.9

444.8 6.6
358.6 5.2 144.3
2.1

6750.
7033.
Tổng : 6235.5 100
100 6945.7 100
100
2
9
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99 /A-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn )
Nhìn vào bảng 3 ta nhận thấy cơ cấu vốn lưu động của thời báo trong
những năm gần đây tỷ trọng chủ yếu trong vốn lưu động của công ty vẫn là các
khoản phải thu(60%-70%). Trong các khoản phải thu thì chủ yếu là phải thu từ
khách hàng, nó chiếm khoảng trên 90% tổng số các khoản phải thu.Tỷ trọng của
khoản mục này tăng dần cả về tỷ lệ cũng như giá trị tuyệt đối, với tốc độ nhanh
hơn cả tốc độ tăng của tài sản lưu động. Thời điểm đánh dấu tốc độ tăng lên
nhanh chóng của các khoản phải thu này là năm 1997.

17


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ VỐN
TẠI THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM
1.Kết quả kinh doanh của Thời báo
Thực chất xem xét kết quả kinh doanh của công ty cũng chính là đánh giá
một mặt thực trạng sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
Về mặt tiêuaaa thụ doanh thu cũng như doanh thu thuần đã tăng lên nhanh
chóng qua các năm. Tốc độ tăng của 2 khoản mục này đạt giá trị lớn nhất là vào
năm 1997( doanh thu tăng 29,36% và doanh thu thuần là 30,48%). Đây là kết
quả của sự gia tăng số lượng phát hành cũng như loại ấn phẩm phát hành. Tuy
nhiên họat động thực sự làm gia tăng doanh thu lại là từ quảng cáo, nhất là từ
năm 97 trở lại đây.

Về lợi nhuận từ năm 1997 trở lại đây công ty đều làm ăn có lãi . Tuy năm
1997 có tốc độ tăng doanh thu thuần là lớn nhất song lợi nhuận lại thấp hơn so
với các năm 99, 98. Sở dĩ như vậy là vì năm 1996 công ty đang trong tình trạng
lỗ (154,7tr) và kết quả kinh doanh trong mấy năm trước cũng không sáng sủa
hơn chút nào, lợi nhuận thu được năm 97 tuy không nhiều nhưng đánh dấu một
giai đoạn phát triển mới đầy hứa hẹn của công ty. Tốc độ tăng lợi nhuận của
Thời báo trong 3 năm 99, 98, 97 không đồng đều. Tốc độ này đạt giá trị lớn nhất
là vào năm 1998 (284,25%). Năm 99 tốc độ này giảm chỉ còn 131,49% mặc dù
trong năm 99 tốc độ tăng của doanh thu cao hơn so với tốc độ này của năm 98 .
Điều này có thể lý giải là do năm 99 tốc độ tăng của chi phí cũng lớn hơn rất
nhiều so với năm 98, thậm chí lớn hơn cả tốc độ tăng của doanh thu thuần. Kết
quả là lợi nhuận năm 99 tăng nhiều về mặt tuyệt đối song tốc độ tăng chậm lại
so với năm 98.
2.Tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong tất cả các khâu của quá
trình SX, tiêu thụ thông qua công tác quản lý chi phí, quản lý doanh thu
2.1.Quản lý doanh thu
Quản lý doanh thu được hiểu là các hoạt động làm tăng doanh thu cho
doanh nghiệp hay nói cách khác đó cũng chính là những biện pháp nhằm đẩy
nhanh hàng hoá ra thị trường. Những biện pháp này được xem xét ở các khía
cạnh: hàng hoá, thị trường, dịch vụ, xúc tiến bán... Hiện nay doanh thu của Thời
báo đang gia tăng dần qua các năm song không có gì đảm bảo rằng doanh thu
này sẽ tăng vững chắc trong các năm tiếp theo nếu công ty không áp dụng các
biện pháp để quản lý doanh thu. Với các hàng hoá là ấn phẩm báo chí những
biện pháp quản lý doanh thu ở Thời báo cần được thực hiện trên các mặt sau :

18


Về sản phẩm – Công ty cần nâng cao trình độ của đội ngũ biên tập viên,
viết báo đảm bảo số lượng và chất lượng thông tin đem đến cho người đọc.

Cụ thể tờ báo cần đưa ra những thông tin mới nhất về tình hình kinh tế
VN, các chuyên mục như hỏi đáp, hướng dẫn…

Thời báo nên tập trung hơn nữa vào vào chuyên mục mới này...
 Về giá cả- Hiện nay giá cả các ấn phẩm bằng tiếng Việt của Thời báo là
tương đối phù hợp tuy nhiên với các ấn phẩm bằng tiếng Anh thì mức giá
còn quá cao so với thu nhập của người Việt nam.
 Về thị trường: Mặc dù tờ thời báo là một tờ báo được nhiều độc giả yêu
thích nhưng --mạng lưới phân phối của Thời báo còn hạn hẹp chủ yếu tập
trung ở các thành phố lớn. Vì vậy một giải pháp quan trọng để tăng doanh
thu là mở rộng thị trường. công ty cũng cần mở rộng số lượng cộng tác
viên không chỉ trong lĩnh vực viết báo mà cả trong lĩnh vực bán hàng
2.2.Quản lý chi phí
Giảm chi phí tăng lợi nhuận nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn lưu động là điều mà tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn. Qua quá trình
thực tập tại Thời báo kinh tế Việt nam em nhận thấy công tác quản lý chi phí của
Thời báo còn một số hạn chế. Trong khuôn khổ luận văn này em chỉ xin nêu ra
một ý kiến nhỏ góp phần giúp công ty quản lý tốt các khoản chi phí, tránh lãng
phí.
2.3 Quản lý chặt chẽ vốn lưu động trên các mặt-Tổ chức tốt công tác
thanh toán tiền hàng và thu hồi công nợ, xây dựng một kế hoạch thu chi tiền mặt
hợp lý
Quản lý vốn lưu động chính là quản lý TSLĐ, để quản lý vốn lưu động
một cách có hiệu quả bên cạnh các biện pháp mà Thời báo đang áp dụng như
hạch toán kế toán để theo dõi sự biến động của vốn lưu động thông qua sự thay
đổi của cơ cấu TSLĐ, có sự điều chỉnh tỷ lệ vốn lưu động qua từng thời kỳ công
ty nên xem xét các biện pháp để tăng cường chất lượng công tác quản lý vốn lưu
động trên các mặt
3. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp trên
Nhìn chung mặc dù nguồn vốn chủ sở hữu của Thời báo vẫn chiếm tỷ lệ

lớn trong tổng tài sản nhưng qua 4 năm có thể thấy tỷ lệ này đang giảm dần và
nhường chỗ cho nợ phải trả (>50%). Điều này nói lên rằng trong mấy năm trở
lại đây để tài trợ cho hoạt động SXKD của mình công ty đã phải tăng cường huy
động nguồn lực từ bên ngoài. Một mặt đây là sự năng động của công ty trong
việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu SXKD nhưng đồng thời nó cũng nói lên
rằng khả năng tự tài trợ của công ty ngày càng kém.


19


Nguồn vốn ngắn hạn nhìn chung tăng lên qua các năm về mặt số tuyệt đối.
Tuy nhiên xét về tỷ trọng thì nguồn vốn ngắn hạn chỉ chiếm khoảng 50%. Liệu
sự gia tăng này có tốt hay không và tỷ lệ này đã hợp lý hay chưa? Điều này sẽ
được trả lời khi xem xét tới cơ cấu nguồn vốn lưu động của công ty.
Nguồn vốn dài hạn của công ty cũng gia tăng qua các năm. Nguồn vốn dài
hạn của Thời báo chỉ bao gồm vốn chủ sở hữu. Điều này cho thấy vốn tự bổ
sung của Thời báo đã được tăng lên, cũng có nghĩa là hoạt động SXKD của
công ty đã có hiệu quả đem lại lợi nhuận. Tuy nhiên tốc độ gia tăng của vốn chủ
sở hữu lại chậm hơn tốc độ gia tăng của nợ ngắn hạn. Công ty cần xem xét điều
này vì nó có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thanh toán của công ty.
Để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động Thời báo phải lựa chọn một trong 3 mô
hình tài trợ vốn lưu động đã được đề cập ở phần lý thuyết. Mô hình được các
nhà quản trị tài chính của Thời báo lựa chọn là mô hình 3. Theo mô hình này,
nguồn vốn dài hạn của công ty sau khi tài trợ cho TSCĐ sẽ được đầu tư vào
TSLĐ. Phần còn lại của TSLĐ sẽ được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn mà cụ
thể đối với Thời báo là các khoản nợ ngắn hạn. Nguồn huy động cho vốn lưu
động lại bao gồm nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm
thời. Trong đó nguồn vốn lưu động thường xuyên là phần còn lại của nguồn dài
hạn sau khi đầu tư vào TSCĐ và nguồn vốn lưu động tạm thời là nợ ngắn hạn.

Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn lưu động ta còn nhận thấy Thời báo đã không sử
dụng nợ vay để tài trợ cho hoạt động của mình mà chủ yếu là khai thác nguồn
vốn chiếm dụng. Điều này vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực
tới SXKD. Cụ thể công ty không phải trả chi phí về nợ vay(lãi tiền vay) nhưng
đổi lại công ty phải nộp thuế thu nhập nhiều hơn do không trừ lãi vay vào lợi
nhuận trước thuế. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp đều phải đa dạng hoá các
nguồn vốn của mình để không chỉ tận dụng được lợi thế của từng nguồn mà
chúng còn có tác động bổ trợ cho nhau trong những trường hợp có những biến
động lớn về nguồn. Vì vậy Thời báo cần xem xét tới khả năng huy động vốn
bằng nợ vay để tài trợ cho hoạt động SXKD ngày càng mở rộng của mình.
Nhà nước nên có quy định cụ thể trong việc tính toán các chỉ tiêu liên quan
đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động sao cho phù hợp với yêu cầu quản lý và sử
dụng vốn lưu động trong thời gian tới (cụ thể để tính chỉ tiêu khả năng sinh lời
của vốn lưu động thì nên sử dụng lợi nhuận trước thuế, lãi gộp hay lợi nhuận sau
thuế, thực tế hiện nay cho thấy các doanh nghiệp không thống nhất trong việc
đánh giá các chỉ tiêu này).
Đối với các doanh nghiệp liên doanh như Thời báo kinh tế Việt nam, Nhà
nước cần có những chính sách ưu đãi hơn nữa như giảm các thủ tục giấy tờ
20


phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi trong việc vay vốn khi các doanh nghiệp này có
nhu cầu... Có như vậy mới khuyến khích, duy trì hoạt động của các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam.

21




×