Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

NGHỆ THUẬT CHỈ đạo kết THÚC CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG dân tộc (1946 1975) ỞVIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.88 KB, 9 trang )

NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KẾT THÚC CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC (1946-1975) Ở VIỆT NAM
MÃ: SU09
Đặt vấn đề
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ, giành độc lập dân tộc, chỉ đạo
kết thúc chiến tranh đã trở thành nghệ thuật quân sự, chính trị, ngoại giao Việt
Nam; nghệ thuật này tiếp tục được phát triển trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946-1954), đế quốc Mĩ (1954-1975) xâm lược. Khác với nhiều cuộc
kháng chiến chống phong kiến phương Bắc, nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến
tranh của tổ tiên ta là tránh hao tổn xương máu không cần thiết cho dân tộc, giữ
thể diện cho “Thiên triều”, đặt quan hệ hòa hảo giữa hai nước, trên cơ sở đó bảo
vệ vững chắc nền độc lập, tự chủ…, ở thế kỷ XX, trước xu thế quan hệ quốc tế
ngày càng mở rộng, mọi hoạt động đều mang tính toàn cầu, thì việc kết thúc một
cuộc chiến tranh còn phải tính đến lợi ích chiến lược của các cường quốc, tình
hình quốc tế và khu vực… Quá trình chỉ đạo chiến lược của Đảng ta cho thấy:
“Kết thúc chiến tranh phải chủ động, vừa đạt được mục tiêu cách mạng đề ra, vừa
phải giữ được độc lập tự chủ, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế cả
trong và sau chiến tranh, mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ quốc tế, trong đó
có nước đối phương”. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo kết thúc
chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng ở thế kỷ XX chẳng những có ý nghĩa
khoa học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
1. Nghệ thuật tạo sức mạnh để chiến thắng
Lịch sử nhân loại đã minh chứng quy luật của chiến tranh là “mạnh được
yếu thua”. Kết thúc chiến tranh là một nghệ thuật, chủ yếu là “nghệ thuật tạo sức
mạnh”. Trong suốt cuộc chiến, bên nào tạo được sức mạnh vượt trội, bên đó sẽ
chiến thắng.
Sự kiện ngày 19 tháng 12 năm 1946 cho thấy, toàn thể dân tộc Việt Nam
bước vào cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai trong tình thế khó
khăn chồng chất. Xét về tương quan lực lượng Pháp mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Đảng và Chính phủ chủ trương tiến hành cuộc kháng
chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lưc cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của


quốc tế”; đồng thời dự kiến cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: cầm cự,
phòng ngự và tổng phản công. Như thế, tổng phản công sẽ kết thúc chiến tranh.
Để giành thắng lợi qua từng giai đoạn, nhất là có lực lượng cho tổng phản
công, Đảng, Chính phủ thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc;
tích cực xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự,
văn hóa. Nhờ đó ta đã đánh bại kế hoạch tiến công căn cứ địa Việt Bắc của thực
dân Pháp. Với thất bại này, Pháp buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh ở
Đông Dương, từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”; đồng thời thực
hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh”. Như vậy, cuộc kháng chiến chống Pháp đã chính thức chuyển sang một
giai đoạn mới.


Sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947, Đảng, Chính phủ chủ
trương củng cố chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng
cường lực lượng vũ tranh nhân dân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân toàn
diện; đưa chiến tranh du kích vào vùng sau lưng địch, kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị, kinh tế với sự nổi dậy phá tề, trừ gian của quần chúng nhân dân. Kết quả,
ta đã “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”; các cơ sở kháng chiến
được xây dựng. Từ chổ chiến đấu trong vòng vây, ta đã tạo được thế và lực, để đến
giữa năm 1949 Pháp phải thừa nhận “không thể thắng Việt Minh về mặt quân sự”.
Đây cũng là thời điểm đánh dấu cả hai phía Việt- Pháp đều tăng cường xây
dựng sức mạnh tổng hợp, để kết thúc chiến tranh theo chiều hướng có lợi nhất.
Năm 1949, bằng kế hoạch Rơve, công nhận chính phủ Bảo Đại, đồng ý viện trợ
kinh tế và quân sự cho Pháp đã đánh dấu sự can thiệp của Mĩ ngày càng sâu và
“dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Bằng sự giúp đỡ của Mĩ,
Pháp từng bước khắc phục những khó khăn, tăng cường càn quét, mở rộng phạm
vi chiếm đóng, củng cố vùng đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời chuẩn bị một kế hoạch
quy mô lớn tiến công Việt Bắc lần thứ hai, giành thắng lợi và kết thúc chiến tranh.
Về phía ta, ngày 14 tháng 1 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng

đặt quan hệ ngoại giao với các nước. Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Chính phủ Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, tiếp đó là Chính phủ Liên Xô (30-1-1950) và chỉ trong
vòng một tháng các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thật đúng như
nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước
ta một thắng lợi to lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn trên thế
giới- Liên Xô và Trung Quốc dân chủ và các nước dân chủ mới đã thừa nhận
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước ngang hàng trong đại gia đình dân
chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và gia nhâp vào khối 800
triệu dân chống đế quốc. Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy là cái đà cho
những thắng lợi chính trị sau này” (1).
Phát huy những thắng lợi đạt được, khắc phục những khó khăn, nhất là khi
Pháp thực hiện kế hoạch Rơve; đồng thời đưa cuộc kháng chiến phát triển, tháng 6
năm 1950, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới. Sau một tháng
chiến đấu, ta đã đánh tiêu diệt hai trung đoàn cơ động của địch, giải phóng 35 vạn
dân, chọc thủng “Hành lang Đông- Tây”, phá thế bao vây của địch, kế hoạch Rơve
bị phá sản hoàn toàn; con đường liên lạc giữa ta với các nước xã hội chủ nghĩa
được khai thông; quân đội ta đã giành thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc
Bộ), mở ra một bước phát triển mới cho cuộc chiến tranh. Đến năm 1951, ta mở
chiến dịch Hòa Bình phá tan âm mưu của Pháp chia cắt chiến trường chính Bắc Bộ
với vùng tự do Khu 4. Năm 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc, mở rộng vùng giải
phóng Tây- Bắc Bộ. Đầu năm 1953, Trung ương Đảng, Chính phủ Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Ítxala phối
hợp mở chiến dịch Thượng Lào. Kết quả, liên quân Việt - Lào đã giải phóng toàn
bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với trên 30 vạn


dân. Điều đó đã tạo thế và lực cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 19531954 giành toàn thắng.
Sau tám năm tiến hành kháng chiến và kiến quốc, Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã tạo được sức mạnh tổng hợp, mở các cuộc tiến công chiến lược với

quy mô ngày càng lớn, đánh thẳng vào quân đội viễn chinh Pháp, buộc kẻ đi xâm
lược phải đầu hàng ở Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Theo đó, Chính phủ Pháp và các bên tham
dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp, chấm dứt ách thống trị của Pháp trong gần một thế kỷ ở Việt
Nam; miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng, đúng vào thời khắc lịch sử này, toàn thể dân tộc Việt Nam lại
phải đối diện với một kẻ thù còn mạnh hơn thực dân Pháp gấp nhiều lần, đó là đế
quốc Mĩ. Tên đế quốc sừng sỏ, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh nhất và chính
sách đối ngoại đầy tham vọng trong hệ thống các nước đế quốc.
Bằng nhiều thủ đoạn chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự, đế quốc Mĩ
đã dựng lên một chính quyền, quân đội tay say ở niền Nam Việt Nam. Mĩ - Diệm,
ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ như: thực hiện chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”,
“trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc hội”, tăng cường khủng bố, đàn áp các phong
trào đấu tranh của nhân dân miền Nam nhằm chia cắt lâu dài và vĩnh viễn Việt
Nam. Biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiến tới tiêu diệt Chủ nghĩa cộng sản đang phát triển
mạnh ở Đông Nam Á. Rõ ràng, phong trào đấu tranh chính trị, hòa bình của nhân
dân miền Nam đòi Mĩ- Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ đã không
còn phù hợp.
Bằng sức mạnh vượt trội, đế quốc Mĩ tin chắc rằng sẽ đạt được tham vọng
trong cuộc chiến tranh này. Giới cầm quyền Mĩ không chấp nhận bất kỳ điều gì
khác ngoài chiến thắng quân sự trên chiến trường, vì vậy “trong gần 20 năm đế
quốc Mĩ đã động viên trên 3 triệu lượt sĩ quan, binh lính lần lượt sang Việt Nam,
trong đó có 535.000 quân đóng trên đất Nam Việt Nam, 103.000 đóng ở các căn
cứ trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Hạm đội 7 thường xuyên
trực tiếp chiến đấu. Mĩ đưa sang Việt Nam hơn 70% lực lượng bộ binh, 85% lực
lượng lính thủy đánh bộ, 40% tàu chở máy bay, 52% tuần dương hạm, 50% lực

lượng không quân chiến thuật, gần 50% máy bay chiến lược B52 của toàn nước
Mĩ ” (2). Mĩ huy động tất cả những vị tướng tài giỏi, 40% chuyên gia vật lý, hàng
trăm viện nghiên cứu, 2.200 nhà máy cùng 5,5 triệu lao động trên toàn nuớc Mĩ
chuyên nghiên cứu, cải tiến, chế tạo và sản xuất vũ khí, phương tiện kỹ thuật chiến
tranh; lôi kéo 34 nước “đồng minh” tham gia cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Đế
quốc Mĩ còn triệt để sử dụng chiêu bài ngoại giao, lợi dụng sự mâu thuẫn giữa
Liên Xô với Trung Quốc để phá hoại phong trào đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước của nhân dân ta. Mĩ đã thực hiện một cuộc chiến tranh tổng
lực mà lịch sử 200 thành lập chưa bao giờ sử dụng; đây là thời điểm mà nhân loại


chứng kiến sự hủy diệt, tính chất ác liệt của một cuộc chiến tranh cục bộ trong thời
kỳ Chiến tranh lạnh.
Để kết thúc chiến tranh thắng lợi, Việt Nam phải kết hợp, phát huy các yếu
tố để tạo nên sức mạnh tổng hợp: tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh; đường lối,
sự chỉ đạo chiến tranh đúng đắn; ý chí chiến đấu của cả một dân tộc; sự vững
mạnh của hậu phương, ủng hộ của quốc tế.
Thấm nhuần Chủ nghĩa Mác- Lê nin và trải qua thực tiễn đấu tranh cách
mạng, Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một
đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Đó
là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, với mục tiêu
chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Có thể nói đây là đặc điểm lớn nhất, độc đáo nhất trong lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đảng ta dự kiến cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước “sẽ là cuộc đấu tranh trường kỳ”, cuộc chiến sẽ phát triển đến mức cao
nhất bằng một cuộc Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa; trước hết phải đánh cho Mĩ
cút, sau đó đánh cho Ngụy nhào; đồng thời Đảng khẳng định tiến hành kháng
chiến chống lại một nước lớn có sức mạnh về quân sự, kinh tế không thể kết thúc
chiến tranh bằng cách đánh tiêu diệt đội quân xâm lược, mà phải đánh vào ý chí

xâm lược, làm thất bại từng mục tiêu chiến lược của địch, giành thắng lợi từng
bước; làm cho đối phương thấy không thể thắng ta bằng quân sự.
Sự sáng suốt của Đảng ta còn thể hiện khi xem xét, đánh giá địch một cách
biện chứng, đó là Mĩ tuy có tiềm lực về kinh tế, quân sự nhưng không phải là vô
hạn “trong cái không phải là vô hạn ấy, sức mạnh của Mĩ đưa vào cuộc chiến
tranh lại chỉ có hạn. Là một quốc gia có chiến lược toàn, Mĩ luôn luôn phải đặt
Việt Nam trong chiến lược đó. ” (3). Quá trình điều hành chiến tranh của Mĩ chịu
tác động bởi nhiều yếu tố như: nội tình nước Mĩ, trong đó có sự phản đối của dân
chúng; khả năng can thiệp của Liên Xô, Trung Quốc; dư luận thế giới lên án…
Nhưng để ngăn chặn, tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc ở
Đông Nam Á…, Mĩ buộc phải đem quân trực tiếp nhảy vào cuộc chiến ở Việt
Nam, buộc phải vứt bỏ “mặt nạ” thực dân mới, một khi cuộc chiến tranh Việt Nam
kéo dài Mĩ sẽ bị sa lầy, lúc đó tính chất phi nghĩa hoàn toàn bị phơi bày, kinh tế
giảm sút, đồng đô la mất giá; đồng thời các nước khác như Nhật Bản, Tây Âu
mạnh lên cạnh tranh gay gắt với Mĩ, Liên Xô vượt Mĩ về vũ khí chiến lược…, Mĩ
phải từ bỏ Việt Nam để bảo vệ những lợi ích mang tính chiến lược toàn cầu. Cho
nên, sự cần thiết phải đưa cuộc chiến tranh Việt Nam sang tận nước Mĩ, nhất là
vào những năm vận động bầu cử tổng thống; ta vừa mở những cuộc tiến công
chiến lược, vừa kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và ngoại giao, từ đó gây
tác động sâu sắc đến xã hội Mĩ. “Buộc giới cầm quyền Mĩ phải cân nhắc giữa lợi
ích quốc gia, chiến lược toàn cầu và vấn đề Việt Nam”(4).
Sau thất bại trong các chiến lược chiến tranh: Đơn phương (1954-1960),
Đặc biệt (1961-1965), Cục bộ (1965-1968), Việt Nam hóa chiến tranh và Đông
Dương hóa chiến tranh (1969-1973), và nhất là sau cuộc tập kích chiến lược 12


ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi ở miền Bắc Việt Nam không thành
công, đế quốc mạnh nhất thế giới buộc phải kí vào Hiệp định Pa ri về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Kí Hiệp định Pari, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân

dân Việt Nam, rút hết quân về nước; tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân Việt Nam
tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đến năm 1974, khi thời cơ
xuất hiện Đảng, Chính Phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra chủ
trương, kế hoạch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2. Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm, lấy thắng lợi quyết định trên chiến trường
để tạo ưu thế tuyệt đối trên bàn đàm phán.
a. Trong kháng chiến chống Pháp
Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đảng, Chính phủ chưa dự kiến
kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính trị, đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao trên chiến trường và trên bàn đàm phán. Tuy nhiên, sau 8 năm tiến
hành chiến tranh, cuộc kháng chiến của dân tộc ta không ngừng phát triển, quân
đội liên tiếp giành chiến thắng trên chiến trường, hậu phương phát triển vững
mạnh; 39 vạn quân Pháp đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu; ta đã làm phá sản các
kế hoạch chiến tranh của Pháp, 5 viên cao ủy, 6 viên tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh bị triệu hồi; vùng chiếm đóng của Pháp bị thu hẹp, quân Pháp trên chiến
trường càng lâm vào tình thế phòng ngự bị động. Vấn đề đặt ra là cần phải nhanh
chóng kết thúc chiến tranh, trả lời báo Experessen Thụy Điển ngày 26-11-1953,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến
tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng
lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến
tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng
và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẳn sàng tiếp ý muốn đó… Cơ sở của việc đình chiến ở
Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt
Nam”(5).
Trước sức ép của dư luận cả trong và ngoài nước, ngày 3 tháng 12 năm
1953 Chính phủ Pháp ra thông báo: “Pháp đã hai lần nêu quan điểm của mình,
Việt Minh nên trình bày quan điểm của họ bằng con đường chính thức. Quan điểm
của Việt Minh sẽ được xét với ý muốn làm tất cả để lập lại hòa bình vững bền, bảo
đảm độc lập cho các nước liên kết cũng như quyền tự do và an ninh cho các công

dân” (6).
Thực tế cho thấy, một mặt nêu vấn đề giải quyết chiến tranh Đông Dương
bằng thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mặt khác
Chính phủ Pháp đã và đang thực hiện kế hoạch Nava, quyết định giành thắng lợi
trên chiến trường để kết thúc chiến tranh: “Kế hoạch Nava chẳng những được
Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mĩ tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ
điều…” (7). Sự dàn xếp giữa các nước lớn về một giải pháp chấm dứt chiến tranh
ở Đông Dương cũng được xúc tiến.


Đảng, chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng bản
chất của đế quốc thực dân Pháp; hiểu rõ thương lượng, giải pháp chính trị trong
chiến tranh chỉ có thể đạt được trên những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên
chiến trường; bài học “Triều Tiên cho thấy, kinh nghiệm là phải đánh bao giờ cho
đế quốc quỵ, nó biết không thể đánh được nữa, nó mới chịu đàm phán, đừng có ảo
tưởng mình muốn đàm phán là nó đàm phán. Ta cũng phải đánh cho Pháp quỵ,
lúc ấy có đàm phán mới đàm phán, chứ không phải đưa đàm phán ra là nó đàm
phán ngay đâu. Đừng có ảo tưởng. Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 99%,
còn hy vọng 1% nóa vẫn đánh. Phải đánh cho nó quỵ nó mới chịu” (8). Vì vậy,
tháng 9 - năm 1953, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở
cuộc tiến công chiến lược đông- xuân 1953-1954 nhằm đánh bại kế hoạch Nava;
đồng thời mở một cuộc tiến công ngoại giao nhằm đẩy Pháp vào thế bị động, tạo
điều kiện kết thúc chiến tranh có lợi cho ta.
Cuộc Tiến công chiến lược đông- xuân 1953-1954, giành thắng lợi to lớn,
bước đầu ta đã làm phá sản kế hoạch Nava; Nava buộc phải tập trung mọi cố gắng
để xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương,
Với kế hoạch Nava “Bộ chỉ huy Pháp tin chắc rằng sẽ giáng cho Việt Minh một
trận thất bại nặng nề ở Điện Biên Phủ. Chúng tôi chuẩn bị đón chờ những trận
chiến đấu gay go và kéo dài. Chúng tôi (chỉ người Pháp) sẽ chiến thắng” (9). Điện
Biên Phủ “là pháo đài bất khả xâm phạm” (theo như cách mà tướng lĩnh Pháp, Mĩ

nhận định); Điện Biên Phủ, từ một con nhím làm chốt chặn đường sang Thượng
Lào đã biến thành “một pháo đài không thể công phá được”, đồng thời là một cái
bẫy lớn có thể “nghiền nát” quân đội nhân dân Việt Nam” (10); Điện Biên Phủ trở
thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và Pháp.
Như vậy, trước khi đến Hội nghị Giơnevơ chủ trương nhất quán của ta là
“tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến, nếu có thương lượng thì vừa đánh vừa đàm, để
đạt tới một giải pháp chính trị phù hợp; ta không đánh giá quá cao Hội nghị
Giơnevơ, nhưng không bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ dư luận thế giới, tranh thủ làm
cho hội nghị có thể bắt đầu để đi đến các cuộc gặp gỡ khác” (11).
Trong quá trình chuẩn bị Hội nghị, Liên Xô và Trung Quốc đều muốn có
một giải pháp kết thúc chiến tranh, gián tiếp tỏ thái độ không tiếp tục giúp đỡ cuộc
kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam; gần như có một thỏa thuận ngầm về giải
pháp chia cắt Việt Nam. Còn đế quốc Mĩ thì ra sức vận động thành lập một liên
minh quân sự, xúc tiến để can thiệp trực tiếp bằng quân sự (không quân, lục quân)
vào Đông Dương, thậm chí còn đe dọa sẽ sử dụng vũ khí nguyên tử.
Nhưng tất cả mọi hy vọng của Pháp, âm mưu của Mĩ đều tan thành mây
khói. Bằng chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava,
giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Pháp; đã làm xoay chuyển cục diện
chiến tranh; tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao. Ngày 8-5-1954,
phái đoàn của Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng
làm trưởng đoàn đến Hội nghị Pa ri với tư cách là một dân tộc chiến thắng. Ngày
21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ chính thức được kí kết, theo đó, Pháp buộc phải
chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội về nước. Mĩ đã thất bại trong âm


mưu kéo dài và mở rộng và quốc tế hóa cuộc chiến, song đây là thắng lợi chưa
trọn vẹn, Việt Nam vẫn bị chia cắt làm hai miền, cuộc đấu tranh cách mạng nhằm
thống nhất đất nước vẫn cần phải tiếp tục.
b. Thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước
Từ năm 1967, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng

lần thứ 13, khóa III đã khẳng định: “Đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là
nhân tố chủ yếu quyết định giành thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng
lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị
những cái mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại
giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong
tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh
ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” (12).
Hội nghị còn chỉ ra mục đích, nhiệm vụ của cuộc tấn công ngoại giao lúc
này là nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mĩ; vạch trần những thủ đoạn hòa bình giả
hiệu với cái gọi là “đàm phán không điều kiện” của Mĩ… Để giành thắng lợi trên
mặt trận này, ta phải phát huy thế mạnh, thế chủ động chiến lược trên chiến
trường, giành thắng lợi từng bước…
Cũng trong năm 1967, trả lời thư của tổng Mĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chính phủ Mĩ gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường
đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mĩ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược. Chính
phủ Mĩ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành
động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…, phải để cho
nhân dân Việt Nam tự quyết công việc nội bộ của mình…” (13).
Năm 1968, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của quân
dân Việt Nam, tổng thống Mĩ Giôn xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom phá
hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và bắt đầu nói đến đàm phán ở Việt Nam.
Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán chính thức diễn ra tại Pari giữa Chính phủ Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với đại diện Chính phủ Hoa Kì; từ ngày 25-1-1969 là
giữa bốn bên: Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam cộng hòa.
Cuộc đấu tranh trên trên bàn đàm phán diễn ra diễn ra hết sức gay gắt,
quyết liệt, nhiều lúc dẫn đến gián đoạn; lập trường của Việt Nam đòi quân Mĩ và
lực lượng đồng Minh phải rút hết khỏi miền Nam và tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình, kết

thúc chiến tranh ở Đông Dương đã từng công nhận, phải để nhân dân miền Nam tự
quyết lấy vận mệnh của họ. Lập trường của Mĩ thì ngược lại, nhất là vấn đề rút
quân, Mĩ đòi quân đội miền Bắc cũng phải rút quân khỏi miền Nam; đồng thời tìm
mọi cách để không phải kí vào “dự thảo Hiệp định về vấn đề chấm dứt chiến tranh
lập lại hòa bình ở Việt Nam và Dự thảo thỏa thuận về quyền tự quyết của nhân
dân miền Nam Việt Nam” đã được hai bên thỏa thuận (10-1972). Giữa Việt Nam,
Hòa Kì đang còn thiếu một tiếng nói chung, vấn đề là nó sẽ được quyết định ở
đâu, trên chiến trường hay trên bàn đàm phán.


Đúng lúc đó (18-12-1972), đế quốc Mĩ tiến hành cuộc tập kích chiến lược
bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng... Với bản chất ngoan cố, xảo quyệt,
luôn tìm cách giành thắng lợi trên lĩnh vực quân sự, giới cầm quyền Mĩ hy vọng
“con át chủ bài” sẽ buộc Việt Nam phải kí vào dự thảo Hiệp định do Mĩ đưa ra.
Rõ ràng, Mĩ đã thực hiện một hành động quân sự mạnh, tàn bạo có ý nghĩa quyết
định để răn đe Việt Nam như những việc mà Mĩ từng làm đối với nước Nhật trong
thế chiến thứ hai (việc ném bom nguyên tử xuống hai thành phố là Hi- rô- si- ma
và Na- ga- sa - ki), đối với Triều Tiên năm 1953 (ném bom hủy diệt thủ đô Bình
Nhưỡng khi Hiệp định đình chiến đã được thỏa thuận). Điều kì diệu, là quân dân
Việt Nam đã chiến thắng oanh liệt và hết sức thuyết phục trước cuộc tập kích
chiến lược, “huyền thoại” về sức mạnh của không lực Hoa Kì, của B52 đã bị đập
tan. Sau trận này, Mĩ buộc phải kí vào Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam đúng như bản Dự thảo từ tháng 10- 1972.
Hiệp định Pari là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị,
ngoại giao ở Việt Nam; tạo thời cơ thuận lợi nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước; là đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo kết thúc
thúc chiến của Đảng, Chính phủ ở thế kỷ XX.
Kết luận
Sau hơn 20 năm nhìn lại, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi vì sao một dân
tộc nhỏ bé, đất không rộng, người không đông những kết cục vẫn chiến thắng từng

đế quốc lớn xâm lược. Điều đó chỉ có thể khẳng định, đúng như lời Đại tướng Văn
Tiến Dũng khi trả lời các nhà báo và các học giả phương Tây: “Một lần nữa tôi
muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một
dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại
ngày nay và Ban lãnh đạo chúng tôi biết khai thác, biết phát huy tất cả những sức
mạnh đó để chiến thắng” (14). Chiến thắng này còn là một minh chứng về nghệ
thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng, Chính phủ trong suốt 30 năm tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược.
Chú thích
(1). Nguyễn Đình Biên (2002), Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 122.
(2), (3), (4), (5), (6). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo
chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, tr. 151-152; tr.155.
(7). Đỗ Thiện- Đinh Kim Khánh (1984), Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, tr.61.
(8). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113.
(9), (10). Giáo sư Hoàng Minh Thảo (2004), Điện Biên Phủ trận thắng thế kỷ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 120, tr. 110
(11). Chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng ngày 1-5-1954.


(12). Nguyễn Đình Biên (2002), Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 217.
(13). Nguyễn Đình Biên (2002), Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 219.
(14).Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch (1996), Vì
sao Mĩ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội,
tr.48.




×