Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng công trình các tuyến đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.2 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần 4 tháng theo học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước với 3
học phần: Nhà nước và Pháp luật; Hành chính Nhà nước và Kỹ năng Hành chính;
Quản lý Nhà nước đối với nghành, lĩnh vực. Do bản thân trước đây làm chuyên
viên kỹ thuật trong ngành xây lắp điện, trước khi chuyển về Ban Quản lý Đường
sắt đô thị nên kiến thức về quản lý nhà nước gần như không có gì. Khi bắt tay vào
công việc mới với vai trò của cơ quan quản lý dự án, bản thân tôi tự nhận thấy
những kiến thức trên thực sự cần thiết phải học để có thể vận dụng vào thực tế
nhiệm vụ được giao nên đã chủ động đăng ký với cơ quan và được bố trí theo học.
Nhận thức của bản thân sau khi học qua chương trình xin được tóm lược như
sau: Về Nhà nước và Pháp luật: Nhận thức được thế nào là chính trị và quyền lực
chính trị; Bản chất nhà nước và nội dung tính giai cấp, xã hội thể hiện qua các kiểu
nhà nước trong lịch sử, mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội, dấu hiệu đặc
trưng của Nhà nước, vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội, bản chất của Nhà
nước CHXHCNVN là nhà nước kiểu mới được xây dựng trên cơ sở nền tảng của
học thuyết Mác-Lênin và tư tuởng Hồ Chí Minh, thể hiện là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân; Nhận thức sơ bộ về Pháp luật, pháp chế, sự cần thiết để xây dựng
một Nhà nước pháp quyền, biết được các ngành luật trong hệ thống Pháp luật Việt
Nam; thấy được tầm quan trọng của việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan. Nhận thức được Nhà nước ta trong những năm qua
đã ban hành nhiều pháp luật về thể chế hoá đường lối của Đảng, tạo khuôn khổ
pháp lý cho công cuộc đổi mới. Thực hiện dân chủ hoá xã hội, hợp lý hoá bộ máy
Nhà nước, xã hội hoá các hoạt động Nhà nước, dân doanh hoá nền kinh tế và pháp
chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, nhằm xây dựng một xã hội văn minh là
sống và làm việc theo pháp luật.
Về hành chính Nhà nước và Kỹ năng hành chính: Sơ bộ hiểu về khoa học
quản lý, quản lý hành chính Nhà nước, khuôn khổ về thể chế tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính Nhà nước về công vụ, công chức được chú trọng đổi mới
để đảm bảo thích ứng với yêu cầu quản lý Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi,
các quyết định hành chính và cưỡng chế hành chính, trong đó nội dung cải cách
hành chính là có nhiều nhận thức nhất. Cải cách nền hành chính nhà nước là nhiệm


vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân, của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo
dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho các thành phần kinh tế, cho người dân làm
ăn sinh sống, thủ tục hành chính trên các lĩnh vực được rà soát, sửa đổi theo hướng
đơn giản hoá, xây dựng và hoàn thiện thể chế về bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, điều chỉnh từng bước hệ thống hành chính Nhà nước cho phù
hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước trong kinh tế thị trường, cơ cấu tổ chức bộ máy
hành chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh
gọn, hợp lý hơn, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
Nhà nước được nâng lên, phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ nghành
trung ương và Ủy ban nhân dân các cấp có bước đổi mới. Tuy nhiên cũng còn
1


những hạn chế, yếu kém của nền hành chính Nhà nước ta hiện nay là hệ thống thể
chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, thủ tục hành chính vẫn chưa
được cải cách đơn giản hoá triệt để, tính công khai minh bạch còn thấp, chậm xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước vĩ mô của các cơ quan
trong hệ thống hành chính Nhà nước, nhất là ở cấp Chính phủ và các bộ, tổ chức
bộ máy hành chính Nhà nước vẫn còn cồng kênh, nhiều tầng nấc với 26 bộ, cơ
quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc chính phủ, chế độ công vụ mới chậm hình
thành đầy đủ, chất lượng cán bộ công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội, phương thức, lề lối làm việc còn thủ công, lạc hậu chưa đáp
ứng yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại, cần xác định nguyên nhân và đưa ra biện
pháp khắc phục triệt để. Học được cách soạn thảo văn bản, đây là kỹ năng mà bản
thân còn nhiều yếu kém. Học được cách giao tiếp và vận dụng ngay vào hoạt động
công đoàn mà bản thân phụ trách các cuộc thi ‘Văn minh công sở”.
Về Quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực: Nội dung quan trọng nhất ở
học phần này là quản lý nhà nước về kinh tế, trong đó phân tích những ưu thế và
khuyết tật của nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh

tế nước ta vì nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
và định hướng XHCN hạn chế của những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.Tận
dụng những thời cơ và vượt qua những thách thức trong thời hậu WTO. Các lĩnh
vực quản lý nhà nước về đô thị, trong đó lĩnh vực quản lý về quy hoạch và xây
dựng là khó khăn và phức tạp nhất. Vai trò và tác dụng của các hoạt động hành
chính tư pháp trong công tác xét xử, giử gìn và bảo vệ pháp luật.
Lý do để chọn đề tài Quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng công trình các
tuyến đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh vì hiện đang công tác tại Ban Quản
lý Đường sắt đô thị – Phòng Kỹ thuật - Chất lượng - Tiến độ. Do đó nội dung chỉ
giới hạn trong việc Quản lý nhà nước về kỹ thuật và chất lượng là chủ yếu khi thực
hiện lập dự án đầu tư xây dựng công trình một tuyến đường sắt đô thị, công việc
mà bản thân tham gia quản lý.
Trong quá trình thực hiện tiểu luận, mặc dù có cố gắng nhưng với điều kiện
công tác và nhiệm vụ được giao tại cơ quan nên không tránh được những hạn chế
và thiếu sót, rất mong sự góp ý của Quý thầy cô.
Cũng thông qua tiểu luận này, xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, phòng
đào tạo Trường Cán bộ Thành phố cùng Quý thầy cô giảng dạy và cô chủ nhiệm
lớp Bồi dưỡng kiến thức Quản lý nhà nước K16, cũng như các bạn học viên đã tạo
điều kiện và truyền đạt kiến thức để bản thân có thể khắc phục những hạn chế,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

2


PHẦN NỘI DUNG
Nhằm xây dựng một thành phố hiện đại, phát triển ổn định và bền vững, trở
thành đô thị trung tâm về kinh tế, văn hoá, thương mại, dịch vụ và du lịch của Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á. Với tốc độ tăng trưởng về kinh tế, mức tăng dân số
cao nhất trong nước, giao thông đô thị đã và đang là một vấn đề hết sức quan trọng
với TP.HCM.

Quy hoạch phát triển GTVT TPHCM đến năm 2020 và tầm nhìn sau 2020
đã được xây dựng và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt theo Quyết định số
101/QĐ-TTg ngày 22/01/2007. Theo quyết định này, ngoài các quy hoạch về giao
thông đường bộ, thủy, hàng không,…hệ thống đường sắt đô thị của TPHCM sẽ xây
dựng các tuyến xuyên tâm và vành khuyên nối các trung tâm chính của thành phố
với tổng chiều dài 110 Km, gồm 6 tuyến metro và 3 tuyến xe điện. Các tuyến này
khi được xây dựng sẽ tạo nên mạng đường sắt đô thị cơ bản của thành phố, giải
quyết được một phần nhu cầu giao thông công cộng và tình trạng kẹt xe nghiêm
trọng của đô thị đang phát triển mạnh.

3


Chương 1: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG CÁC TUYẾN ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I. Khái quát về Ban Quản lý Đường sắt đô thị:
Ban Quản lý Đường sắt đô thị trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố được
thành lập ngày 13/9/2007, được chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố, đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ có liên quan
của các Bộ - Ngành Trung ương và của các Sở - ngành thành phố. Ban Quản lý
Đường sắt đô thị là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động, có tư
cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước thành
phố HCM theo quy định. Trụ sở của Ban Quản lý Đường sắt đô thị đặt tại số 23 25 đường Hàm Nghi, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ quản lý của Ban Quản lý Đường sắt đô thị: Tham mưu cho Ủy
ban nhân dân thành phố về kế hoạch tổng thể cho việc xây dựng, vận hành và khai
thác các tuyến đường sắt đô thị của thành phố, phát triển mạng lưới đường sắt đô
thị theo quy hoạch giao thông vận tải đến năm 2020. Làm chủ đầu tư và quản lý
vận hành, khai thác các tuyến đường sắt đô thị của thành phố. Thực hiện vai trò và
chức năng đối tác trực tiếp với các đối tác nước ngoài trong các quan hệ giao dịch
liên quan đến dự án. Chuẩn bị văn kiện, tài liệu, nội dung đàm phán và cùng các cơ

quan liên quan giúp Ủy ban nhân dân thành phố tham gia đàm phán các điều ước
và các văn bản thỏa thuận khác với nhà tài trợ liên quan đến các dự án xây dựng
các tuyến đường sắt đô thị của thành phố. Xây dựng chương trình, kế hoạch chi tiết
và tiến độ thực hiện các dự án thành phần; tổ chức quản lý điều hành, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của dự án và xử lý các phát sinh khi thực hiện các dự án. Đảm
bảo đầy đủ cơ sở các dữ liệu thông tin theo yêu cầu đã thỏa thuận với đối tác nước
ngoài để đi vào giai đoạn quản lý, điều hành dự án theo chương trình, kế hoạch
được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Chấp hành đầy đủ các quy định pháp luật
của Nhà nước trong quá trình quản lý điều hành dự án đầu tư và những vấn đề có
liên quan theo thông lệ quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Chấp hành
nghiêm chỉnh chế độ báo cáo tài chính, các chế độ về kế toán, thống kê, kiểm toán,
quyết toán theo quy định hiện hành và theo yêu cầu của đối tác nước ngoài phù
hợp với những nội dung đã được ký kết. Đảm bảo chế độ quan hệ phối hợp với các
cơ quan chức năng, các dự án có liên quan khác của thành phố để triển khai có hiệu
quả trên nhiều lĩnh vực của dự án. Thực hiện công tác xuất nhập khẩu vật tư, thiết
bị phục vụ cho công tác xây dựng và vận hành khai thác của các dự án được duyệt.
Hàng năm, Ban Quản lý Đường sắt đô thị lập kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch giải
ngân (vốn trong nước và nguồn vốn vay nước ngoài) theo yêu cầu tiến độ thực
hiện các dự án phù hợp với cơ chế tài chính trong nước và qui định của đối tác
nước ngoài để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án. Đảm bảo tập hợp và thực hiện đầy
đủ các nội dung, quy trình thuộc lĩnh vực công tác đến vận hành, điều độ chạy tàu,
quản lý khai thác, sử dụng sau khi giai đoạn xây dựng hoàn thiện. Ban Quản lý
Đường sắt đô thị được phép thành lập các Ban Quản lý dự án và các đơn vị trực
thuộc để quản lý dự án và vận hành khai thác sau khi giai đoạn xây dựng hoàn
4


thành đưa vào sử dụng hoặc thuê các tổ chức có đủ năng lực về kinh nghiệm và tài
chính để quản lý, vận hành, khai thác các tuyến đường sắt đô thị khi hoàn tất giai
đoạn xây dựng. Liên kết hoặc liên doanh với các tổ chức trong nước hoặc nước

ngoài hoặc thuê các chuyên gia có kinh nghiệm nhằm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ trong lĩnh vực chuyên ngành về quản lý điều hành dự án, tổ chức vận hành khai
thác sử dụng. Phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức cá nhân có liên
quan để giải quyết các vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định
cư. Đảm bảo thực hiện chế độ thông tin lưu trữ, bảo mật và báo cáo theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ủy quyền
hoặc phân công bằng văn bản.
Tổ chức của Ban Quản lý Đường sắt đô thị có Trưởng Ban quản lý điều
hành theo chế độ thủ trưởng, có 3 Phó Trưởng ban. Trưởng ban, Phó Trưởng ban,
Kế toán trưởng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố quyết định bổ nhiệm hoặc
miễn nhiệm. Trưởng Ban Quản lý Đường sắt đô thị có trách nhiệm sắp xếp tổ chức
bộ máy nhân sự của Ban đảm bảo tinh gọn, hoạt động có hiệu quả; xây dựng Quy
chế Tổ chức và hoạt động của Ban trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố phê
duyệt.
Nhiệm vụ quản lý của Phòng Kỹ thuật - Chất lượng - Tiến độ: Chủ trì, phối
hợp với các phòng ban có liên quan tham mưu cho lãnh đạo Ban thực hiện các nội
dung hoàn tất thủ tục về thẩm định thiết kế cơ sở, xây dựng khung tiêu chuẩn kỹ
thuật của các dự án; Tham gia công tác hoàn chỉnh hồ sơ mời thầu; Thẩm định
đánh giá nội dung thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công của nhà thầu trúng
thầu trước khi trình Trưởng Ban phê duyệt kết quả của các gói thầu chính; Tham
gia công tácquản lý chất lượng của chủ đầu tư, kiểm tra điều kiện nghiệm thu gói
thầu Xây dựng tường rào bảo vệ và san lấp mặt bằng các depot; Xử lý các vấn đề
kỹ thuật, công nghệ phát sinh có liên quan theo sự phân công của Lãnh đạo Ban;
Thẩm định phương án kỹ thuật khảo sát xây dựng bước chuẩn bị đầu tư; Thực hiện
công tác quản lý chất lượng của Chủ đầu tư đối với công tác khảo sát xây dựng
phục vụ cho việc lập dự án đầu tư như khảo sát địa hình, địa chất công trình, thủy
văn công trình; Hoàn chỉnh thủ tục về thẩm định thiết kế cơ sở, tham mưu xây
dựng, trình thẩm định và phê duyệt khung tiêu chuẩn kỹ thuật của từng dự án;
Nghiên cứu, tham mưu với Lãnh đạo Ban về nội dung kỹ thuật, áp dụng công nghệ
của từng dự án và về vấn đề kết nối hệ thống metro thành phố; Chủ trì và phối hợp

với các phòng, ban tham mưu cho Lãnh đạo Ban thực hiện chức năng quản lý về
chất lượng, tiến độ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT
đối với Nhà đầu tư; Tham gia xây dựng quy chuẩn đường sắt Việt Nam và tiêu
chuẩn đường sắt đô thị; xây dựng và hoàn thiện tủ sách, tài liệu khoa học kỹ thuật
của Ban.
II/ Quản lý nhà nước về thực hiện đầu tư và chuẩn bị đầu tư các dự án:
Thực hiện Quyết định số 101/QĐ-TTg, hiện nay tuyến metro số 1 (Bến
Thành – Suối Tiên) đã khởi động xây dựng từ tháng 2/2008, các tuyến metro và xe
5


điện khác bắt đầu được nghiên cứu lập dự án đầu tư theo Thông báo số 03/TBHĐTV ngày 21/11/2008 của Hội đồng tư vấn Đường sắt đô thị TPHCM.
1/ Quản lý nhà nước về thực hiện đầu tư dự án tuyến metro số 1 (Bến Thành –
Suối Tiên):
Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký hiệp định vay
vốn ODA số VNXIV-III với Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản ngày
31/3/2007. Trên cơ sở nội dung công hàm trao đổi giữa Chính phủ Nhật Bản và
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tháng 3/2007 liên quan đến
các khoản vay Nhật Bản sẽ cung cấp nhằm thúc đẩy những nỗ lực phát triển và ổn
định kinh tế của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bên vay sẽ sử dụng
khoản vay để mua sắm hàng hoá và các dịch vụ thích hợp cần thiết để thực hiện dự
án từ các nhà cung ứng, nhà thầu hoặc tư vấn, phù hợp với sự phấn bố giá trị khoản
vay.
Ban Quản lý Đường sắt Đô thị đã ký hợp đồng tư vấn chung để thực hiện
các bước tiếp theo của dự án. Hợp đồng được ký kết vào ngày 24 tháng 12 năm
2007, giữa một Bên là Ban Quản lý Đường sắt Đô thị trực thuộc Ủy Ban Nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi là “Chủ đầu tư”) và, Bên kia là Liên danh của
Nippon Koei Co., Ltd., Japan Railway Technical ervices, PB Japan Co., Ltd., JR
East Japan Consultants Company, Japan Transportation onsultants, Inc, Tonichi
Engineering Consultants, Inc, Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận

tải phía Nam, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Giao thông Vận tải và
Công ty Tư vấn Nippon Koei, Công ty Dịch vụ Kỹ thuật đường sắt Nhật bản, Công
ty Tư vấn PB Nhật Bản, Công ty Tư vấn Đường sắt Đông Nhật Bản, Công ty Tư
vấn Giao thông Vận tải Nhật Bản, Công ty Tư vấn Kỹ thuật Tonichi và Công ty Tư
vấn Thiết kế Giao thông Vận tải phía Nam, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và
Xây dựng Giao thông Vận tải (sau đây gọi là “Nhà thầu Tư vấn”).Ban Quản lý
Đường sắt Đô thị trực thuộc Ủy Ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là
“Chủ đầu tư”). Chủ đầu tư đã yêu cầu các Nhà thầu Tư vấn cung cấp các dịch vụ
Tư vấn nhất định theo nội dung của các Điều khoản chung của Hợp đồng kèm theo
hợp đồng này; Nhà thầu Tư vấn, đã giới thiệu với Chủ đầu tư là họ có các kỹ năng
chuyên môn, nguồn lực nhân sự và kỹ thuật theo yêu cầu, và đồng ý cung cấp dịch
vụ theo các điều khoản và điều kiện trong Hợp đồng này; Một phần lớn của chi phí
dịch vụ Tư vấn sẽ được tài trợ bằng khoản vay từ dự án vay vốn ODA của Ngân
hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản và nhà thầu Tư vấn sử dụng cho dự án này được
tuyển chọn tuân theo đúng Hướng dẫn tuyển chọn và sử dụng Nhà thầu Tư vấn
theo điều kiện của khoản vay vốn ODA. Nhà thầu Tư vấn phải thực hiện dịch vụ
và các nghĩa vụ của mình dưới đây với tính cẩn trọng, hiệu quả và tiết kiệm, phù
hợp với các nguyên tắc và công nghệ chuyên môn được thừa nhận, và phải tuân
thủ với các nguyên tắc quản lý hợp lý, và ứng dụng các công nghệ tiên tiến phù
hợp, sử dụng các thiết bị máy móc, vật liệu và phương pháp hiệu quả và an toàn.
Liên quan đến các vấn đề về hợp đồng hoặc dịch vụ cung cấp, nhà thầu Tư vấn
phải luôn hành xử với tư cách là người cố vấn trung thực cho Chủ đầu tư, và phải
hỗ trợ và bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Chủ đầu tư mọi lúc trong bất kỳ các giao
6


dịch nào với các Tư vấn phụ hoặc với Bên thứ ba. Nhà thầu Tư vấn phải thực hiện
cung cấp dịch vụ phù hợp theo Luật được áp dụng và phải thực hiện tất cả các
bước khả thi nhằm đảm bảo tất cả các Tư vấn phụ, cũng như nhân sự của nhà thầu
Tư vấn và bất kỳ Tư vấn phụ nào, đều tuân thủ “Luật được áp dụng”. Chủ đầu tư

sẽ thông báo cho nhà thầu Tư vấn bằng văn bản về các phong tục địa phương liên
quan, và sau khi nhận thông báo này, nhà thầu Tư vấn phải tôn trọng những phong
tục đó. Nhà thầu Tư vấn có trách nhiệm cố vấn Chủ đầu tư về đấu thầu mua sắm
hàng hóa, công việc và dịch vụ do nguồn vốn vay ODA của ngân hàng JBIC tài trợ
như là một phần công việc của Dịch vụ cung cấp, nhà thầu Tư vấn phải tuân thủ
theo Hướng dẫn Thầu mua sắm dành cho các dự án vay vốn ODA của ngân hàng
JBIC và phải luôn thực hiện các trách nhiệm này vì lợi ích tốt nhất của Chủ đầu tư.
Bất kỳ khoản giảm giá hoặc hoa hồng nào mà nhà thầu Tư vấn có được trong việc
thực thi trách nhiệm thầu mua sắm đều sẽ thuộc về Chủ đầu tư. Trong thời hạn
thực hiện hợp đồng và sau khi chấm dứt Hợp đồng, nhà thầu Tư vấn đồng ý rằng
nhà thầu Tư vấn và bất kỳ đơn vị nào trực thuộc nhà thầu Tư vấn, cũng như bất kỳ
Tư vấn phụ và bất kỳ đơn vị nào trực thuộc Tư vấn phụ, không được phép làm việc
với bất kỳ tư cách nào khác cho cùng dự án (bao gồm tham gia dự đấu thầu liên
quan đến hàng hóa hoặc dịch vụ của bất kỳ phần nào của dự án) ngoài Dịch vụ và
phần công việc tiếp tục được thực hiện của dự án này. Trong thời gian thực hiện
hợp đồng hoặc trong vòng hai (2) năm sau ngày chấm dứt Hợp đồng, nhà thầu Tư
vấn, Tư vấn phụ, và nhân sự của họ không được phép tiết lộ bất kỳ thông tin về
quyền sở hữu hoặc thông tin bảo mật nào liên quan đến Dịch vụ cung cấp, hợp
đồng này hoặc công việc hay hoạt động kinh doanh của Chủ đầu tư mà không có
sự chấp thuận cho trước bằng văn bản của Chủ đầu tư.
Ban Quản lý Đường sắt Đô thị thực hiện vai trò của chủ đầu tư, quản lý nhà
nước toàn bộ các nội dung thực hiện của nhà thầu tư vấn chung gồm hồ sơ thiết kế
cơ sở, khung tiêu chuẩn, hồ sơ mời thầu và hoàn tất công tác đấu thầu cho các gói
thầu, quản lý thực hiện hợp đồng các gói thầu EPC thiết kế, thi công, vận hành,
chuyển giao công nghệ. Hỗ trợ, đôn đốc các địa phương, các đơn vị có liên quan
hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, di dời công trình hạ tầng.
2/ Quản lý về chuẩn bị đầu tư dự án các tuyến metro còn lại:
Ban Quản lý Đường sắt đô thị triển khai lập hồ sơ nhiệm vụ và dự toán
công việc khảo sát xây dựng và lập dự án đầu tư xây dựng công trình, do phòng Kế
hoạch và Đầu tư thực hiện, phòng Kỹ thuật - Chất lượng - Tiến độ thẩm định.

Trong công tác khảo sát xây dựng bao gồm khảo sát địa hình, khảo sát địa chất,
khảo sát thủy văn công trình, khảo sát hạ tầng kỹ thuật, khảo sát giao thông, cắm
ranh mốc xác định diện tích chiếm dụng đất của các dự án. Trong công tác lập dự
án đầu tư xây dựng công trình bao gồm các nội dung lập khung tiêu chuẩn, thiết kế
sơ bộ, tính tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn và kế hoạch tài chính. Trưởng Ban
Quản lý Đường sắt đô thị ra quyết định phê duyệt hồ sơ nhiệm vụ và dự toán khảo
sát xây dựng và lập dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị.
7


Ban Quản lý Đường sắt đô thị triển khai lập và phát hành hồ sơ yêu cầu do
phòng Đấu thầu thực hiện, mời thầu các đơn vị tư vấn tham gia nộp hồ sơ đề xuất
gói thầu tư vấn khảo sát xây dựng và lập dự án đầu tư các dự án. Các đơn vị tư vấn
nộp hồ sơ đề xuất kỹ thuật và tài chính của các gói thầu. Hồ sơ đề xuất do nhà thầu
nộp sẽ được lưu theo chế độ bảo mật đến khi được mở công khai tại buổi lể mở
thầu theo thời gian và địa điểm quy định. Tổ chấm thầu sẽ được thành lập theo
quyết định của Trưởng ban, hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được xem xét, nếu đơn vị
tư vấn nào đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, thiết bị, kinh nghiệm, tài chính, nhân
sự đáp ứng yêu cầu thực hiện gói thầu sẽ được xem xét tiếp hồ sơ đề xuất về tài
chính. Hồ sơ đề xuất về tài chính đạt yêu cầu về khối lượng phù hợp với hồ sơ
nhiệm vụ và đơn giá theo đúng các quy định hiện hành thì sẽ được chấm và mời
đơn vị đó đến để đàm phán tài chính, để có thể chiết giảm một số nội dung công
việc hoặc những giá trị không cần thiết và tiết kiệm cho nhà nước. Nếu thống nhất
giữa Ban và các tư vấn sẽ ký vào kết quả đàm phán.
Sau đó tập hợp đầy đủ hồ sơ các bước gởi sở Kế hoạch và Đầu tư thẩm định.
Nếu hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa rõ ràng sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ đề nghị giải
trình hoặc bổ sung, làm rõ một số vấn đề. Khi hồ sơ đã được hoàn chỉnh sở Kế
hoạch và Đầu tư sẽ ra báo cáo thẩm định kết quả thầu tư vấn cho gói thầu khảo sát
xây dựng và lập dự án đầu tư trình Ủy ban nhân dân Thành phố. Ủy ban nhân dân
Thành phố sẽ xem xét nếu thấy đạt yêu cầu thì ra quyết định phê duyệt kết quả

giao thầu cho nhà thầu đạt yêu cầu.
Ban Quản lý Đường sắt đô thị sẽ mời nhà thầu tư vấn đến thương thảo hợp
đồng, các nội dung và điều khoản trong hợp đồng được thống nhất và định ngày
làm lễ ký hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ tư vấn gói thầu sẽ được ký kết giữa Ban
Quản lý Đường sắt đô thị và nhà thầu tư vấn thực hiện gói thầu.
Quản lý thực hiện hợp đồng bao gồm các nội dung quản lý về tiến độ, quản
lý về chất lượng hồ sơ giao nộp, quản lý tình hình thanh, quyết toán, thanh lý kinh
phí thực hiện hợp đồng, quản lý theo dõi và đôn đốc việc đền bù giải phóng mặt
bằng. Có ý kiến về nội dung các báo cáo đầu kỳ, giữa kỳ và cuối kỳ của nhà thầu
tư vấn. Chủ trì việc phối hợp với sở, ban nghành, địa phương tạo điều kiện cho tư
vấn thực hiện tốt hợp đồng.
Kết quả chủ yếu khi thực hiện xong hợp đồng là xây dựng được khung tiêu
chuẩn cho dự án, thiết kế sơ bộ, xác định được ranh chiếm dụng đất cho các dự án
để bàn giao cho các quận, huyện quản lý, giữ quỹ đất, xác định được tổng mức đầu
tư của các dự án để Ủy ban nhân dân Thành phố và Chính phủ làm cơ sở kêu gọi
đầu tư nước ngoài, chuẩn bị nội dung, thủ tục đàm phán với các nhà tài trợ tiến tới
ký hiệp định vay vốn, thường theo hình thức vốn ODA.
III/ Quản lý vốn ODA:
1. Khái niệm về dự án ODA:

8


Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt được
một hoặc một số mục tiêu xác định, được thực hiện trên địa bàn cụ thể, trong
khoảng thời gian xác định, dựa trên những nguồn lực xác định. Sản phẩm chuyển
giao do dự án tạo ra là hạng mục cuối cùng của dự án. Dự án có thể được chia ra
thành những nhiệm vụ nhỏ hơn, được phối hợp với nhau nhằm đạt được mục tiêu
của dự án.
Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án hỗ trợ kỹ thuật. Dự án đầu tư là dự án

tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự
tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm
hoặc dịch vụ được thực hiện trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
Dự án hỗ trợ kỹ thuật là dự án có mục tiêu hỗ trợ phát triển năng lực và thể chế
hoặc cung cấp các yếu tố đầu vào kỹ thuật để chuẩn bị, thực hiện các chương trình,
dự án thông qua các hoạt động cung cấp chuyên gia, đào tạo, hỗ trợ trang thiết bị,
tư liệu và tài liệu, tham quan khảo sát, hội thảo.
Các dự án Hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây gọi tắt là dự án ODA) được
hiểu là các dự án thuộc khuôn khổ hoạt động hợp tác phát triển giữa Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhà tài trợ.
Nguồn vốn: Toàn bộ hoặc một phần nguồn vốn thực hiện dự án ODA là do
các tổ chức/chính phủ nước ngoài, các tổ chức song phương tài trợ. Cơ chế tài
chính trong nước đối với việc sử dụng ODA là cấp phát, cho vay (toàn bộ/một
phần) từ ngân sách Nhà nước. Các dự án ODA thường có vốn đối ứng là khoản
đóng góp của phía Việt Nam bằng hiện vật và giá trị để chuẩn bị và thực hiện các
chương trình, dự án (có thể dưới dạng tiền đuợc cấp từ ngân sách hoặc nhân lực, cơ
sở vật chất). Nguồn vốn là điểm khác biệt lớn nhất giữa dự án ODA với với các dự
án khác; kèm theo nó là các yêu cầu, quy định, cơ sở pháp lý về quản lý và thực
hiệncủa nhà đầu tư và nhà tài trợ.
Tính tạm thời: Tính tạm thời có nghĩa là các dự án ODA có khởi điểm và
kết thúc xác định. Dự án không phải là loại công việc hàng ngày,thường tiếp diễn,
lặp đi lặp lại theo quy trình có sẵn. Dự án có thể thực hiện trong một thời gian ngắn
hoặc có thể kéo dài trong nhiều năm. Về mặt nhân sự, dự án không có nhân công
cố định, họ chỉ gắn bó với dự án trong một khoảng thời gian nhất định (một phần
hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án). Khi dự án kết thúc, các cán bộ dự án có
thể phải chuyển sang/tìm kiếm một công việc/hợp đồng mới.
Duy nhất: mặc dù có thể có những mục đích tương tự, nhưng mỗi dự án
ODA phải đối mặt với những vấn đề về nguồn lực, môi trường và khó khăn khác
nhau. Hơn thế nữa, ở mức độ nhất định, mỗi dự án đem lại các sản phẩm, dịch vụ
duy nhất”, không giống hoàn toàn với bất kỳ dự án nào khác. Khi sử dụng kinh

nghiệm của trong việc lập kế hoạch các dự án tương tự nhau, cần phải hiểu rõ các
đặc trưng riêng của mỗi dự án. Hơn thế nữa, cần phải phân tích thật kỹ lưỡng cũng
như có kế hoạch chi tiết trước khi bắt đầu thực hiện.
“Phát triển và chi tiết hoá” liên tục: Đặc tính này đi kèm với tính tạm thời
và duy nhất của một dự án ODA. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, ở mỗi bước
9


thực hiện cần có sự phát triển và liên tục được cụ thể hoá với mức độ cao hơn, kỹ
lưỡng, công phu hơn.
Giới hạn: Mỗi dự án ODA được thực hiện trong một khoảng
thời gian, nguồn lực và kinh phí nhất định. Các nhà quản lý cần
phải liên tục cân bằng về nhu cầu, tài chính, nguồn lực và lịch
trình để hoàn thành dự án, đảm bảo yêu cầu của nhà đầu tư và
nhà tài trợ.
2. Vòng đời của dự án:
Dự án được coi như là một chuỗi các hoạt động hay quy trình có mục đích.
Khi sắp xếp một cách liên tục theo các giai đoạn xác định, chúng được biết đến
như vòng đời (chu trình) của một dự án. Mỗi giai đoạn của dự án được đánh dấu
bằng sự kết thúc của một hoặc vài kết quả công việc. Trong thực hành, có nhiều
cách thức xác định các giai đoạn trong vòng đời dự án, phụ thuộc vào quy chế
quản lý và sử dụng ODA của mỗi quốc gia/tổ chức.
Vòng đời dự án cung cấp khung và “ngôn ngữ” chung cho việc thực hiện dự
án, làm cho công việc dự án rõ ràng và dễ dự đoán hơn, cũng như thời điểm đưa ra
các quyết định, mốc rõ ràng hơn. Hoạt động của cán bộ liên quan tới quản lý dự án
luôn gắn liền với vòng đời dự án. Những kết quả công việc của giai đoạn trước
thường được thông qua trước khi công việc của giai đoạn tiếp theo bắt đầu. Giai
đoạn sau đôi khi được bắt đầu cùng lúc với lúc thông qua kết quả của giai đoạn
trước khi các rủi ro đã được xác định và chấp nhận, sự nối tiếp của các giai đoạn.
3. Nhận thức về vốn ODA:

Các nước đang phát triển đều phải huy động nhiều nguồn lực khác nhau,
trong đó có ODA. Thực chất ODA vừa là khoản vay, vừa là một công cụ chính trị
của nước đi nhận viện trợ. Vì vậy cách đàm phán, tiếp nhận và tiêu tiền thế nào cần
liên tục được đổi mới, cập nhật để đạt hiệu quả cao nhất.
Viện trợ có hai mặt, bất kỳ khoản viện trợ nào cũng vậy. Khi một nước đem
tiền thuế của dân đi cho hoặc cho nước khác vay với lãi suất rất ưu đãi thì nó phải
hàm chứa mục tiêu chính trị, có thể trần trụi, kiểu “cây gậy và củ cà rốt” trước đây
hoặc nhẹ nhàng hơn tùy vào tình hình thế giới và tiềm lực của nước nhận viện trợ.
Bản chất của viện trợ là khoản tiền thuế của người dân nước đi viện trợ, nên
tiền viện trợ phải đem lại lợi ích trước mắt hay lâu dài cho nước đi viện trợ. Như
họ tài trợ các dự án đường sá, hạ tầng, hành lang pháp lý... mục đích để các công ty
của họ vào đầu tư đạt hiệu quả cao nhất. Chưa hết, ODA đến, nước nhận viện trợ
cũng phải có vốn đối ứng để cùng thực thi dự án. Vì vậy, trong dự án ODA ở VN
bao giờ cũng có tiền thuế của người dân VN. Nên nó hoàn toàn không phải “bình
sữa ngọt” từ bên ngoài đưa vào.
Các nước viện trợ thường đưa ra những nguyên tắc, ràng buộc. Ví dụ với
khoản vay thế này, ưu đãi như vậy thì phải thuê dịch vụ tư vấn của họ, phải mua
thiết bị của họ dù giá thiết bị đó đắt hơn rất nhiều thiết bị trong nước. Bên cạnh đó,
10


giải ngân ODA ở VN đôi khi rất chậm, có công trình phải mất năm năm, thậm chí
mười năm mới xong. Tính hiệu quả kinh tế lúc đó có thể đã không còn.
ODA là cần thiết trong từng hoàn cảnh chứ không phải tất cả. Nhiều dự án
nếu dùng vốn trong nước sẽ rẻ hơn. Cần tránh tâm lý khát vốn, tìm mọi cách xin
ODA, có dự án, còn hiệu quả kinh tế không quan tâm hoặc tính sau. Chính phủ đã
ban hành danh mục ưu tiên ODA. Nên thực hiện nghiêm từ trên xuống, trong đó
các bộ ngành phải làm gương.
Không nước nào tài trợ nhiều cho một quốc gia chính sách kém, đi ngược lại
nguyện vọng người dân. Nên vốn cam kết lớn phần nào thể hiện sự tin tưởng vào

chính sách hiện tại. Nhưng cam kết chỉ là trên giấy, vấn đề là vốn thực hiện. ODA
vào VN những năm qua trên 40 tỉ USD nhưng đến nay mới tiêu được một nửa,
nghĩa là vốn thực hiện khoảng 50%.
Không nên quá lạc quan vào con số cam kết vì thành tích thực phải là những
công trình cụ thể, hiệu quả ra sao. Nếu ODA vào nhiều mà dùng không hiệu quả,
để xảy ra tham nhũng, cắt xén thì ODA sẽ tạo ra một gánh nặng nợ nần cho thế hệ
sau.
Quan trọng nhất là phải có sự giám sát, cơ chế công khai minh bạch và xử lý
nghiêm. Nghị định 131 về quy chế quản lý và sử dụng ODA đã quy định rõ: nếu để
xảy ra tiêu cực ở ban quản lý, chủ đầu tư dự án ODA thì cơ quan chủ quản phải
chịu trách nhiệm chứ không thể vô can. Nhưng có thể nói nếu nhìn những văn bản
pháp quy của VN hiện nay về ODA thì cơ chế đã khá chặt chẽ, sự công khai minh
bạch cũng đã rõ ràng. Nhưng thực tế các thông tin về ODA vẫn không đầy đủ cho
những người cần biết nó. Phía Canada đã thử nghiệm ở VN hình thức cho người
dân trực tiếp giám sát công trình ODA. Đó là dự án cơ sở hạ tầng nông thôn tại Trà
Vinh, người dân được quyền ra tận công trình giám sát nên không mất một ký
ximăng nào, đã triển khai năm năm đến nay vẫn hiệu quả. Đây là cách làm rất tốt
mà chúng ta có thể tham khảo.
Nhiều cơ quan hiện coi ODA như vốn Chính phủ cho, nguồn vốn lại là từ
viện trợ ưu đãi nên rất thoải mái, có thì cứ làm chứ không quan niệm làm một công
trình phải phục vụ một lợi ích thiết thực. Nên vấn đề quan trọng là phải giao tiền
đúng chỗ, tìm được người chủ đích thực cho ODA. Người chủ đích thực là người
thật sự đang bức bối, cần những đồng vốn ODA. Khi nhận được ODA, đồng tiền
đó phải gắn bó chặt chẽ với cả quá trình làm việc sau này của họ. Nếu hiệu quả của
dự án sẽ ảnh hưởng đến lương, thu nhập cả quá trình sau của anh ta thì anh ta sẽ có
trách nhiệm. Hiện nhiều dự án không được giao đúng chỗ. Công ty cấp nước
không được quản lý dự án ODA về cấp nước, công ty quản lý, duy tu đường cũng
không được quản lý các dự án ODA về cầu đường mà lại lập ra cho một ban quản
lý dự án - một cơ quan hành chính làm. Làm xong họ chuyển giao, có khúc mắc gì
họ kệ vì phải làm việc khác. Một người viết dự án, người thực hiện khác, người

vận hành khác, một người duy tu bảo dưỡng lại khác thì rất khó thành công trong
những dự án như vậy. Để thực hiện phải làm rõ lại với nhà tài trợ. Họ nghĩ giao
cho các bộ, UBND làm thì khi có khó khăn gì sẽ được giải quyết nhanh. Nhưng
11


vấn đề không phải như vậy. Nếu chú trọng hiệu quả, nên giao ODA cho những
người sẽ phải tổ chức thực hiện, sẽ phải vận hành và duy tu bảo dưỡng chính sản
phẩm của nguồn vốn ODA đó làm.
Hiện nay Ban Quản lý dự án Đường sắt đô thị đang chuẩn bị mọi mặt về
nhân lực, tổ chức, đào tạo… cho việc thành lập công ty Khai thác và vận hành (O
& M). Để chuẩn bị khai thác và vận hành các tuyến đường sắt đô thị sau khi được
đầu tư xây dựng xong.
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC Ở BAN QUẢN LÝ ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ.
I/ Cơ sở lý luận:
Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước CHXHCN Việt Nam xác định
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch, văn hoá, khoa học kỹ thuật, trung
tâm kinh tế thương mại, đầu mối giao thông, cảng biển và hàng không lớn nhất
Việt Nam, và được tôn xưng là “Hòn ngọc viễn đông”. Cùng với sự mở rộng
không ngừng của thành phố, sự tăng dân số nên hệ thống giao thông hiện hữu khó
có thể theo kịp nhu cầu phát triển. Xây dựng hệ thống giao thông mới với giao
thông đường sắt là chủ lực rõ ràng vô cùng bức thiết và tất yếu đối với sự phát
triển không ngừng về kinh tế, không gian, năng lượng, môi trường và an ninh quốc
phòng của thành phố Hồ Chí Minh.
Quy hoạch phát triển GTVT TPHCM đến năm 2020 và tầm nhìn sau 2020
đã được xây dựng và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt theo Quyết định số
101/QĐ-TTg ngày 22/01/2007. Hệ thống đường sắt đô thị của TPHCM sẽ xây
dựng các tuyến xuyên tâm và vành khuyên nối các trung tâm chính của thành phố
với tổng chiều dài 110 Km, gồm 6 tuyến metro và 3 tuyến xe điện.

Ban Quản lý Đường sắt đô thị được thành lập ngày 13/9/2007, từ tiền thân là
Ban chuẩn bị Đường sắt nội đô thuộc Sở Giao thông Công chánh nay là Sở Giao
thông Vận tải, ban đầu chỉ có khoảng 30 cán bộ viên chức đến nay phát triển lên
gần 120 cán bộ viên chức với các phòng, ban trực thuộc hoàn chỉnh. Để thực hiện
nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, UBND Thành phố giao cho làm chủ đầu
tư thực hiện nhiệm vụ Xây dựng các tuyến đường sắt đô thị, vận tải hành khách
công cộng khối lượng lớn, xứng tầm là một trong những đô thị hiện đại nhất của cả
nước và trong khu vực.
II/ Cơ sở pháp lý:
1/ Văn bản luật được áp dụng trong quản lý nhà nước của Ban Quản lý đường
sắt đô thị:
- Luật Xây dựng số 16/2003/QH121 ngày 26/11/2003;
12


- Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
- Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003;
- Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
- Luật đường sắt số 35/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005;
- Luật điện lực số 28/2004/QH11 năm 2004;
- Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí số 48/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
- Bộ Luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội.
2/ Các văn bản dưới luật có liên quan được áp dụng trong quản lý nhà nước của
Ban Quản lý đường sắt đô thị:
- Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án
đầu tư xây dựng công trình;
- Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 19/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình;
- Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình

xây dựng; Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/04/2008 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 ;
- Nghị định số 41/2007/NĐ-CP ngày 22/3/2007 của Chính phủ về xây dựng ngầm
đô thị;
- Quyết định số 48/2008/QĐ-TTg ngày 03/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc Ban hành hướng dẫn chung lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án sử dụng vốn
hỗ trợ chính thức của nhóm năm ngân hàng (Ngân hàng Phát triển Châu Á, Cơ
quan phát triển Pháp, Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng tái thiết
Đức, Ngân hàng Thế Giới);
- Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/06/2007 của Chính phủ về quản lý chi phí
đầu tư xây dựng công trình;
- Thông tư số 05/2007/TT-BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây Dựng về việc hướng
dẫn thành lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình;
- Nghị quyết số 59/2007/NQ-CP ngày 30/11/2007 của Chính phủ về một số giải
pháp xử lý những vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng và cải cách một số
thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp;
- Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ
Ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA);
- Quyết định số 126/2007/QĐ-UB ngày 20 tháng 10 năm 2007 của Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy định về quản lý thực hiện các dự án đầu tư sử
dụng vốn ngân sách nhà nước của thành phố Hồ Chí Minh;
13


II. Các văn bản quy phạm pháp luật nghành:
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 Về việc quy định chi tiết về hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;
- Thông tư 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 của Bộ Tài Nguyên và Môi
trường về hướng dẫn về đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá tác

động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi
nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng;
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất;
- Quyết định 101/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2007 của Thủ Tướng Chính Phủ
về Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020;
- Quyết định số 1551/QĐ-UBND ngày 10/04/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố HCM về việc phê duyệt Dự án Hỗ trợ kỹ thuật "Chuẩn bị dự án metro
thành phố Hồ Chí Minh";
- Quyết định số 126/2007/QĐ-UBND ngày 20/10/2007 của Ủy ban Nhân dân
Thành phố về việc ban hành Quy định về quản lý thực hiện các dự án đầu tư;
- Quyết định số 103/2006/QĐ-UBNATP ngày 14/7/2006 của Ủy ban Nhân dân
Thành phố về việc ban hành “Bộ đơn giá khảo sát xây dựng khu vực TPHCM”;
- Thông tư số 07/2006/TT-BXD ngày 10/11/2006 của Bộ Xây dựng về việc “Hướng
dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng”;
- Thông tư số 03/2008/TT-BXD ngày 25/01/2008 của Bộ Xây dựng về việc “Hướng
dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng”;
- Quyết định số 38/2008/QĐ-UBND ngày 10/5/2008 của Ủy ban Nhân dân Thành
phố ban hành quy định về điều chỉnh dự toán xây dựng công trình áp dụng theo
Thông tư số 03/2008/TT-BXD ngày 25/01/2008 của Bộ Xây dựng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh;
- Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về việc
quy định mức lương tối thiểu chung ;

- Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2007 của Chính phủ về việc
chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang ;

14


- Theo thông tư số 29/2007/TT-BLĐTBXH ngày 05 tháng 12 năm 2007 về việc
hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng đối với
công ty nhà nước, công ty TNHH một thành viên do nhà nước sở hữu 100% vốn
điều lệ ;
- Văn bản 1751/BXD-VP ngày 14 tháng 8 năm 2007 của Bộ Xây dựng về việc
công bố Định mức chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư XDCT ;
- Quyết định số 10/2005/QĐ - BXD ngày 15-4-2005 về việc ban hành định mức
lập dự án và thiết kế công trình xây dựng.
- Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về
việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức;
- Nghị định số 41/2007/NĐ-CP ngày 22 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ về xây
dựng ngầm đô thị;
- Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về quản
lý chi phí đầu tư xây dựng công trình;
- Nghị quyết số 59/2007/NQ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2007 của Chính phủ về
một số giải pháp xử lý những vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng và cải
cách một số thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp;
- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ môi trường;
- Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2008 sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Chính
phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng;

- Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây
dựng;
- Thông báo số 55/TB-VPCP ngày 05 tháng 3 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ
thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng tại cuộc
họp bàn về đường sắt đô thị.
- Quyết định số 48/2008/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành hướng dẫn chung lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nhóm 5 ngân hàng (Ngân hàng Phát triển Châu
Á, Cơ quan Phát triển Pháp, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Tái
thiết Đức, Ngân hàng Thế giới);
- Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và cam kết bảo vệ môi trường;

15


- Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03 tháng 4 năm 2007 của Bộ Tài chính về
việc hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất
đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước;
- Thông tư số 06/2007/TT-BXD ngày 25 tháng 7 năm 2007 của Bộ Xây dựng về
việc hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng;
- Thông tư số 130/2007/TT-BTC ngày 02 tháng 11 năm 2007 của Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03 tháng 4 năm
2007;
- Quyết định số 126/2007/QĐ-UBND ngày 20 tháng 10 năm 2007 của Ủy ban
nhân dân thành phố về việc ban hành quy định về quản lý thực hiện các dự án đầu
tư;
- Các quyết định đầu tư, giao thầu của Ủy Ban nhân dân Thành phố.


16


Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CẤP TRÊN
Ban Quản lý Đường sắt đô thị là đơn vị mới được thành lập, nhân sự được
tuyển dụng và bổ nhiệm từ các Ủy ban nhân dân các quận, huyện; Các Sở, ban,
nghành của thành phố (chủ yếu là Sở Giao thông Công chánh nay là Sở Giao thông
Vận tải); Từ các Công ty Nhà nước hoặc tư nhân, cũng như các kỹ sư, cử nhân vừa
mới tốt nghiệp ra trường. Kết hợp hài hòa giữa các nhân tố có kinh nghiệm quản lý
chuyên môn ở các cơ quan quản lý Nhà nước, ngành giao thông, các doanh nghiệp
xây dựng ngành giao thông, công nghiệp với các nhân viên trẻ có kiến thức chuyên
môn phù hợp. Tuy nhiên, gặp không ít khó khăn để bộ máy hoạt động đồng bộ và
có hiệu quả ngay từ ban đầu. Cần xây dựng quy trình tác nghiệp nội bộ cho phù
hợp với công tác hiện nay của các phòng, ban trong đơn vị; giữa Lãnh đạo Ban với
các phòng, ban chức năng và trong nội bộ các phòng, ban.
Quản lý dự án Xây dựng các tuyến Đường sắt đô thị là một lĩnh vực hết sức
mới mẽ và chưa có tiền lệ nên một số vấn đề quan trọng về kỹ thuật, công nghệ cần
có sự góp sức từ các nhà khoa học, các tổ chức, các cơ quan nghiên cứu và đặc biệt
là các Bộ, Sở, nghành liên quan. Cũng như sự quyết tâm thực hiện và quan tâm chỉ
đạo của Chính phủ và Ủy ban nhân dân Thành phố tạo mọi điều kiện, tháo gỡ
những vướng mắc kịp thời để các dự án được thực hiện thuận lợi.
Các dự án xây dựng các tuyến Đường sắt đô thị sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống của người dân Thành phố, do đó phải tuyên truyền rộng rãi và tranh thủ
sự ủng hộ, đồng thuận của người dân, đặc biệt là những người chịu sự ảnh hưởng
trực tiếp phải giải tỏa nhà ở hay đất đai thuộc quyền sử dụng và sở hữu của mình.
Để thực hiện các dự án trên cần phải có nguồn vốn rất lớn từ việc kêu gọi
đầu tư từ các nước tiên tiến trên thế giới trong đó có vốn đối ứng trong nước là tiền
đóng thuế của dân. Do đó việc quản lý nguồn vốn này là một việc làm hết sức quan
trọng và có ý nghĩa, nếu quản lý không tốt sẽ là gánh nặng cho các thế hệ con, cháu

sau này. Phải hết sức tỉnh táo và khôn khéo trước những lời đường mật từ các đối
tác quốc tế rất có kinh nghiệm khi thực hiện đầu tư ở các nước đang phát triển với
chính sách “Bàn tay sắt bọc nhung” hay “Những viên đạn bọc đường” dễ dàng
đánh gục những cán bộ kiên trung không thể khuất phục trong cuộc chiến đấu
giành độc lập tự do, giải phóng dân tộc.
17


Cán bộ, viên chức của Ban sẽ làm việc với các đối tác là các tư vấn về giao
thông hàng đầu của Việt Nam, cũng như các đối tác tư vấn, nhà thầu quốc tế do đó
phải tự trao dồi về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý nhà nước, các văn
bản pháp luật, đặc biệt là ngoại ngữ và tin học. Không ngừng học hỏi, tiếp cận
công nghệ hiện đại với thời gian nhanh nhất và đầy đủ nhất để có thể nắm bắt và
phục vụ tốt cho công việc của mình đang phụ trách.
Do công tác quản lý dự án với nguồn vốn lớn và tầm ảnh hưởng đối với nền
kinh tế của đất nước và đặc biệt nhạy cảm, đòi hỏi từng các bộ viên chức của Ban
phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, cảnh
giác, đề phòng và tránh xa những cám dỗ vể vật chất và sự mua chuộc của các đối
tác nhằm trục lợi bất chính. Đặc biệt là đối với cán bộ, viên chức là đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam phải quyết tâm bảo vệ chính trị nội bộ, thực hiện thành
công nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó cho Ban là
Quản lý xây dựng hệ thống Đường sắt đô thị Thành phố, trong nhiệm vụ chung
xây dựng một thành phố văn minh, hiện đại.
Ban Quản lý Đường sắt đô thị khác với các Ban Quản lý khác là khi xây
dựng hoàn thành dự án sẽ không bàn giao cho các đơn vị khác khai thác, quản lý
và vận hành mà thành lập Công ty O & M chịu trách nhiệm khai thác, quản lý và
vận hành các tuyến Metro hiện đại, do đó ngay từ bây giờ phải có kế hoạch đào
tạo, chuẩn bị đội ngũ nhân lực và cơ sở hạ tầng để kịp thời nắm bắt những công
nghệ mới, tạo tiền đề cho công tác quản lý trên.
Đối với Phòng Kỹ thuật - Chất lượng - Tiến độ thuộc Ban Quản lý Đường

sắt đô thị cần tích cực, chủ động giải quyết các nhiệm vụ được giao, các công việc
theo thẩm quyền, nhiệm vụ. Phối hợp chặt chẽ với các Phòng, Ban khác trong góp
ý các vấn đề về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ cho các dự án do Ban Quản lý đường
sắt đô thị làm chủ đầu tư, nhiều ý kiến đóng góp thiết thực, có giá trị, kịp thời.
Không đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không ngại khó ngại khổ, quản ngại đường
xá xa xôi, ngày nghỉ, ngày lễ ... để đóng góp chung vào công việc của cơ quan, kể
cả nhiều đóng góp thầm lặng. Chủ động đánh giá, tham mưu cho Lãnh đạo Ban
trên lĩnh vực chuyên môn Phòng phụ trách. Khắc phục các tồn tại như công việc
còn chưa theo kịp yêu cầu về tiến độ được Lãnh đạo Ban đề ra, một số nội dung đã
đề xuất nhưng chưa toàn diện, đầy đủ về chất lượng tham mưu. Do một số lý do
khách quan là lĩnh vực Đường sắt đô thị bao hàm nhiều ngành chuyên môn với
kiến thức quá rộng, lại quá mới mẻ ở Việt Nam, anh chị em Phòng Kỹ thuật - Chất
lượng - Tiến độ phải “vừa học vừa làm” (học ở đây vừa về ngoại ngữ, về các công
nghệ mới, tiên tiến) trong khi yêu cầu về tiến độ đôi khi khá bị động. Lực lượng
nay dù có bổ sung nhưng cũng phải mất khoảng 06 tháng - 01 năm để anh chị em
có thời gian tiếp cận, nắm bắt kiến thức mới, đặc biệt các chuyên viên trẻ, mới ra
trường cũng cần có đủ thời gian để đào tạo, bồi dưỡng, trau dồi kiến thức về pháp
luật xây dựng, kỹ năng làm việc cá nhân và phối hợp nhóm, soạn thảo văn bản
quản lý hành chính ...Do đó cần xác định nhiệm vụ trọng tâm vẫn là tiến độ thực
hiện, phối hợp với các phòng, ban tham gia các cuộc họp với Tư vấn về chuyên đề
kỹ thuật, giải quyết những vấn đề có liên quan về mặt kỹ thuật, tổ chức nghiệm thu
18


và thanh toán khối lượng các gói thầu, tham gia hoàn chỉnh hồ sơ mời thầu và tổ
chức đấu thầu, chuẩn bị nội dung thẩm định bước Bản vẽ thiết kế kỹ thuật, bước
Bản vẽ thiết kế kỹ thuật thi công của nhà thầu trúng thầu thiết kế và thi công của
các gói thầu (trước khi tham mưu cho Lãnh đạo Ban) và báo cáo đầu kỳ, giữa kỳ,
cuối kỳ của tư vấn lập dự án đầu tư các tuyến, trình cấp thẩm quyền phê duyệt, trình
Bộ GTVT phê duyệt khung tiêu chuẩn cho dự án, giải quyết những vấn đề về chuẩn

bị đầu tư các tuyến đường sắt đô thị, tham gia làm việc về mặt kỹ thuật với các tư
vấn khảo sát xây dựng, lập dự án và tư vấn giám sát khảo sát các tuyến, phối hợp
với các Phòng ban giải quyết những vấn đề kỹ thuật có liên quan khi có yêu cầu,
tham gia các cuộc họp, hội thảo theo lịch công tác của Ban và các công việc khác
do Lãnh đạo Ban giao. Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên cần phải kiện
toàn nhân sự của Phòng, động viên anh chị em tập trung nghiên cứu để học hỏi
nâng cao trình độ ngoại ngữ; kiến thức chuyên môn và pháp luật đầu tư xây dựng;
nghiệp vụ công tác. Đề xuất nhân sự năm 2009, đòi hỏi sự quan tâm, tạo điều kiện
của Trưởng Ban và Phòng Tổ chức - Đào tạo để hoàn thành phần còn lại của kế
hoạch nhân sự năm 2009 như đã đề ra, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức,
tạo điều kiện cho anh chị em được thường xuyên tham gia các lớp tập huấn các
chuyên đề kỹ thuật, pháp luật đầu tư và xây dựng, các hội thảo chuyên ngành để
nhanh chóng nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến thức pháp luật, đáp ứng tốt yêu
cầu nhiệm vụ công tác, sớm ban hành Quy chế phối hợp công tác nội bộ của Ban
nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị trực thuộc co cơ sở pháp lý để phối hợp công
tác theo đúng tiến độ thực hiện.

19


KẾT LUẬN
Bác Hồ có nói:
“Không có việc gì khó;
Chỉ sợ lòng không bền;
Đào núi và lấp biển;
Quyết chí ắt làm nên.”
Nhiệm vụ Quản lý Xây dựng các tuyến Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí
Minh, được xác định là hết sức khó khăn, gian khổ, với điều kiện đất nước còn
đang trên đà phát triển, nguồn vốn ngân sách quốc gia còn hạn chế và phải đầu tư
giàn trải trên nhiều lĩnh vực, do đó phải kêu gọi đầu tư nước ngoài nên việc lệ

thuộc vào nhà đầu tư và nhiều vấn đề không thể tự chủ được, vì vậy phải hết sức
khôn khéo và kiên định để tránh gây thiệt hại cho đất nước.
Để các chuyến tàu Metro hiện đại không còn là trong mơ, các nhà ga đẹp
như cung điện với hành khách tấp nập tồn tại trong lòng Thành phố, để cho tình
trạng kẹt xe không còn diễn ra mỗi ngày gây nhức nhối cho mọi người dân, để cho
các dự án không chỉ là trên giấy. Tất cả cán bộ, viên chức của Ban sẽ làm việc hết
công suất, khả năng vốn có của mình và sự hỗ trợ của các cấp, các nghành liên
quan, cũng như sự chỉ đạo sâu sát của Ủy Ban nhân dân Thành phố và Chính phủ
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

20


MỤC LỤC
1/ Mở đầu: Trang 2 – trang 3.
2/ Nội dung: trang 4
2.1/ Chương 1: thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng các tuyến đường
sắt đô thị thành phố hồ chí minh: Trang 5 – trang 12.
2.2/ Chương 2: cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước ở
Ban QuẢn lý Đường sắt đô thị: Trang 13 – trang 17.
2.3/ Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị đối với cấp trên: Trang 18 – trang
20.
3/ Kết luận: Trang 21.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trình học Quản lý Nhà nước;
2/ Hồ sơ nhiệm vụ, dự toán, hồ sơ yêu cầu, đề xuất kỹ thuật, tài chính, hợp đồng

tư vấn Khảo sát xây dựng, lập dự án đầu tư;
3/ Giáo trình giảng dạy về Quản lý vốn ODA;
4/ Báo cáo tình hình công tác năm 2009;
5/ Thư viện Pháp luật.

22



×