Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đặc điểm, nội dung bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát kinh tế trong công tác quản lý môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.71 KB, 31 trang )

Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA MÔI TRƯỜNG


BÀI TẬP
Đặc điểm, nội dung bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát,
kinh tế trong công tác quản lý môi trường; nhận xét điểm mạnh, điểm
yếu của mỗi hình thức công cụ và đề xuất những biện pháp
để nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý cho các công cụ này
trong điều
kiện Việt Nam hiện nay.

GV HƯỚNG DẪN : TS. LÊ THỊ KIM OANH
HV THỰC HIỆN

: PHẠM VĂN THỌ

LỚP

: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG K23

Đà Nẵng,
tháng
7 năm
2012
HVTH: Phạm Văn Thọ - Công
nghệ môi
trường


K23

1


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

MỤC LỤC
GV HƯỚNG DẪN : TS. LÊ THỊ KIM OANH.......................................................................................................1
HV THỰC HIỆN

: PHẠM VĂN THỌ..................................................................................................................1

LỚP

: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG K23....................................................................................1

MỤC LỤC......................................................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................................3
CHƯƠNG I....................................................................................................................................................................4
KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG.........................................................................................................4
1. KHÁI NIỆM KINH TẾ MÔI TRƯỜNG....................................................................................................................4
2. QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG..................................................................4
QUY ĐỊNH LÀ NHỮNG VĂN BẢN DƯỚI LUẬT NHẰM CỤ THỂ HÓA HOẶC HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG
CỦA LUẬT. QUY ĐỊNH CÓ THỂ DO CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG HAY ĐỊA PHƯƠNG, DO CƠ QUAN HÀNH PHÁP HAY
LẬP PHÁP BAN HÀNH.............................................................................................................................................9
QUY CHẾ LÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỂ LỆ TỔ CHỨC QUẢN LÝ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, CHẲNG HẠN NHƯ QUY ĐỊNH
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA CÁC CƠ QUAN, BỘ, SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, SỞ TÀI NGUYÊN MÔI
TRƯỜNG.................................................................................................................................................................9
TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG LÀ CÁC CHUẨN MỰC GIỚI HẠN CHO PHÉP ĐƯỢC QUY ĐỊNH LÀM CĂN CỨ ĐỂ QUẢN

LÝ MÔI TRƯỜNG. TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG CÓ QUAN HỆ MẬT THIẾT VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA MỖI
QUỐC GIA. VIỆC XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG MỘT MẶT DỰA TRÊN CÁC QUY ĐỊNH ĐÃ ĐƯỢC KIỂM
NGHIỆM THỰC TẾ, MẶT KHÁC PHẢI CÓ NHIỀU CĂN CỨ KHOA HỌC, NHẰM ĐẢM BẢO CHO TIÊU CHUẨN MÔI
TRƯỜNG PHÙ HỢP VỚI NHU CẦU BẢO VỆ SINH THÁI, ĐỒNG THỜI KHẢ THI VỀ MẶT KINH TẾ, XÃ HỘI. HỆ THỐNG
TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG PHẢN ẢNH TRÌNH ĐỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ, TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ TIỀM LỰC
KINH TẾ XÃ HỘI CÓ TÍNH ĐẾN DỰ BÁO PHÁT TRIỂN. CÁC DẠNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG:...............................9
CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP MANG TÍNH CHIẾN LƯỢC, CÓ THỜI
HẠN NHẰM GIẢI QUYẾT NHIỆM VỤ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỤ THỂ NÀO ĐÓ TRONG MỘT GIAI ĐOẠN NHẤT ĐỊNH.
CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG NHẤT VỀ QUAN ĐIỂM QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG, VỀ CÁC MỤC TIÊU MÔI TRƯỜNG CƠ BẢN CẦN GIẢI QUYẾT TRONG MỘT GIAI ĐOẠN DÀI 10 - 15 NĂM
VÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG LỚN THỰC HIỆN MỤC TIÊU, CHÚ TRỌNG VIỆC HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC CÂN ĐỐI VỚI MỤC
TIÊU VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG...............................................................................................................................9
CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG ĐỒNG THỜI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI. CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG LÀ TẠO ĐIỀU KIỆN GẮN KẾT CÁC
MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀO HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỦA TỪNG NGÀNH, TỪNG VÙNG TẠO LIÊN KẾT
GIỮA CÁC NGÀNH VÀ CÁC CẤP TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG...................................9
CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỤ THỂ HÓA CHÍNH SÁCH Ở MỘT MỨC ĐỘ NHẤT ĐỊNH. CHIẾN LƯỢC XEM
XÉT CHI TIẾT HƠN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC MỤC TIÊU DO CHÍNH SÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ THỰC
HIỆN CHÚNG; TRÊN CƠ SỞ LỰA CHỌN CÁC MỤC TIÊU KHẢ THI, XÁC ĐỊNH PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP THỰC
HIỆN MỤC TIÊU......................................................................................................................................................9
CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ PHÒNG
NGỪA VÀ GIẢM THIỂU NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC, PHÁT HUY CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ ĐỒNG THỜI HỖ
TRỢ CHO VIỆC SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN QUA ĐÓ LÀM TĂNG TỐI ĐA LỢI ÍCH CỦA CÁC DỰ ÁN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GÓP PHẦN VÀO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA QUỐC GIA........................................9

CHƯƠNG II................................................................................................................................................................22
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG & BIỆN PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG........................................................................................................................22
1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG.........................................................................22
2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG CỤ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY..........................................................23

PHẦN 3........................................................................................................................................................................26
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ, HIỆU LỰC
QUẢN LÝ CHO CÔNG CỤ
MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT VÀ
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG......................................................................................................................................................................26
3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ............................................................................26
KẾT LUẬN..................................................................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................................31

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

2


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế ngày càng phát triển, gia tăng tổng sản phẩm quốc nội đồng
nghĩa với việc khai thác và tiêu thụ nhiều nguyên nhiên liệu hơn và hoạt động sản
xuất ngày càng thải chất ô nhiễm ra môi trường nhiều hơn. Nếu không có biện pháp
xử lý thích hợp, chất thải từ hoạt động của con người sẽ làm ô nhiễm môi trường và
phá vỡ cân bằng sinh thái. Vì vậy, để phát triển bền vững cần có những chính sách
phù hợp nhằm đảm bảo và duy trì chất lượng môi trường.
Trên thực tế, những năm gần đây đã có nhiều công ty, nhà máy xả thải chất
thải chưa qua xử lý ra môi trường làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi
trường, hủy hoại tài sản và đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con
người. Một trong những nguyên nhân xảy ra tình trạng trên là chúng ta chưa có
chính sách quản lý hợp lý, vì vậy môi trường liên tục phải chịu những hậu quả nặng
nền do chính con người gây ra. Khi xảy ra ô nhiễm, suy thoái môi trường, chúng ta

cần phải tốn rất nhiều công sức, tiền bạc và phải mất rất nhiều năm để cải thiện và
phục hồi chất lượng môi trường.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã qua tâm và ban hành nhiều văn
bản pháp lý nhằm quản lý môi trường như Luật bảo vệ môi trường, Luật tài nguyên
nước, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia,.... các văn bản pháp luật này đã góp
phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tuy nhiên hệ thống pháp luật về môi trường
của nước ta còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ từ trên xuống dưới, chưa đáp ứng
được tình hình thực tế của địa phương cho nên hiện nay vẫn có nhiều công ty tuy
biết luật bảo vệ môi trường nhưng vẫn nhập chất thải từ nước ngoài về Việt Nam
nhằm kinh doanh bất chấp những tác hại của những chất thải đó mang lại, hoặc có
những công ty vẫn xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường làm thiệt hại hàng tỷ
đồng của người dân nuôi trồng thủy sản, đó là chưa nói đến ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nước cung cấp cho con người.
Để đảm bảo chất lượng môi trường, Đảng và chính quyền đã áp dụng công
cụ kinh tế quản lý môi trường như thuế, phí môi trường, ký quỹ môi trường, ... tuy
mới được áp dụng tại Việt Nam trong vài năm trở lại đây nhưng biện pháp này đã
có nhiều đóng góp trong việc cải thiện chất lượng môi trường. Tuy nhiên, để hạn
chế tối đa nguy cơ ô nhiễm môi trường, cần có những giải pháp quản lý thích hợp
hơn nữa đặc biệt là công cụ kinh tế nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của
các doanh nghiệp và người dân, ngăn chặn ngay từ đầu việc xả thải ô nhiễm, đảm
bảo chất lượng môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền
vững.
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

3


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

CHƯƠNG I

KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG

1.

Khái niệm kinh tế môi trường

Kinh tế môi trường là một khoa học kinh tế, ứng dụng các lý thuyết và
những kỹ thuật phân tích kinh tế để lý giải và giải quyết những vấn đề môi trường
theo chiều hướng đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội trong các hệ ràng buộc của môi
trường, hoặc hẹp hơn, trong khả năng của các hệ sinh thái.
2.

Quản lý môi trường và các công cụ quản lý môi trường
2.1. Quản lý môi trường:

Quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý xã hội, nhằm bảo vệ môi trường
và các thành phần môi trường, phục vụ sự nghiệp phát triển bình vững và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên và xã hội. Để quản lý môi trường cần công cụ quản lý
môi trường. Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp hoạt động về
luật pháp, chính sách, kinh tế - kỹ thuật và xã hội hướng tới việc bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Quản lý môi trường gồm quản lý nhà nước về môi trường và quản lý của các
doanh nghiệp, khu vực dân cư về môi trường, trong đó ý nghĩa thứ hai có mục tiêu
chủ yếu là tăng cường hiệu quả của sản xuất (hệ thống quản lý môi trường theo ISO
14.000) và bảo vệ sức khoẻ của người lao động, dân cư sống trong khu vực có các
hoạt động sản xuất, hay ” quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý xã hội, nhằm
bảo vệ môi trường và các thành phần của môi trường, phục vụ sự nghiệp phát triển
bền vững và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và xã hội
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật pháp,
chính sách, kinh tế, kỷ thuật, công nghệ, xã hội, văn hoá, giáo dục, .v.v.. Các biện

pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích hợp với nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của
vấn đề đặt ra.
Việc quản lý môi trường được thực hiện ở mọi qui mô: toàn cầu, khu vực,
quốc gia, tỉnh, huyện, cơ sở sản xuất, hộ gia đình, .v.v..
Ở Việt Nam ta công tác nghiên cứu và quản lý môi trường được hình thành
từ nhiều cách như: Bộ chính trị đảng CSVN và Quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam là cơ quan cao nhất của đất nước thực hiện trách nhiệm hoạch
định chính sách. Quốc hội có một Ủy ban: “Ủy ban khoa học, công nghệ và môi
trường tư vấn về vấn đề môi trường”. Thủ tướng chính phủ - Văn phòng chính phủ
và Vụ khoa học giáo dục văn hóa xã hội có cố vấn cao cấp về các vấn đề môi
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

4


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

trường. Hai bộ liên nghành - Bộ kế hoạch đầu tư (MPI ) có trách nhiệm lập kế
hoạch phát triển quốc gia và phân bổ ngân sách cho các nghành. Trong bộ có Vụ
khoa học công nghệ và môi trường chịu trách nhiệm về các vấn đề môi trường. Bộ
Công nghệ và Môi trường (MOSTE) và Cục Môi trường của bộ chịu trách nhiệm
quản lý nhà nước về môi trường. Chức năng của cục môi trường được qui định
trong Luật Bảo vệ môi trường 1993. Điều 4 khoản 2 Nghị định 175/CP ngày
18/10/1994 đã ghi: “Cục môi trường có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong phạm vi cả nước.” Tổ chức và hoạt động của Cục Môi trường được
xác định trong quyết định số 545 QĐ/TCCB ngày 7/10/1993 của Bộ trưởng Bộ
MOSTE. Các Bộ đều có vụ Khoa học công nghệ và môi trường chịu trách nhiệm
nội dung bảo vệ môi trường các địa phương (cấp tỉnh) có phòng quản lý môi
trường. Nhiều tỉnh có trung tâm môi trường hoặc chi cục môi trường. Riêng thành

phố Hồ Chí Minh có Uỷ ban môi trường do chủ tịch thành phố là chủ tịch Uỷ ban
Sở Khoa học công nghệ và môi trường là Ủy viên thường trực. Mối quan hệ giữa
Bộ khoa học công nghệ và môi trường với các cơ quan chức năng khác trong các
Bộ, các ngành nước ta hiện nay được trình bày trong các sơ đồ. Như vậy, hình thức
tổ chức cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia ở mỗi nước khác nhau tùy vào điều
kiện tự nhiên, mức độ phát triển kinh tế.
Trong công tác quản lý môi trường có 3 nội dung quan trọng nhất bao gồm:
Xây dựng cơ sở khoa học, kinh tế, luật pháp cho việc thi hành công tác quản lý môi
trường, thiết lập các công cụ quản lý môi trường, tổ chức các công tác bảo vệ và
quản lý môi trường.
2.2. Công cụ quản lý môi trường:
Công cụ quản lý môi trường là vũ khí hoạt động của Nhà nước, của các tổ
chức nghiên cứu khoa học và sản xuất thực hiện công tác quản lý môi trường quốc
gia và địa phương.
Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng; không có một công cụ nào có giá trị
tuyệt đối trong quản lý môi trường. Mỗi công cụ có chức năng và phạm vi tác động
nhất định, chúng tạo ra một tập hợp các biện pháp hỗ trợ nhau.
Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp hoạt động về luật
pháp, chính sách, kinh tế - kỹ thuật và xã hội hướng tới việc bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Công cụ quản lý môi trường là vũ khí hoạt động của Nhà nước, của các tổ
chức nghiên cứu khoa học và sản xuất thực hiện công tác quản lý môi trường quốc
gia và địa phương.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

5


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh


Theo bản chất có thể chia công cụ quản lý môi trường thành các loại cơ bản
như sau:
 Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát.
 Công cụ kinh tế.
 Công cụ giáo dục nâng cao nhận thức.
Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng; không có một công cụ nào có giá trị
tuyệt đối trong quản lý môi trường. Mỗi công cụ có chức năng và phạm vi tác động
nhất định, chúng tạo ra một tập hợp các biện pháp hỗ trợ nhau.
Theo bản chất có thể chia công cụ quản lý môi trường thành các loại cơ bản
như sau:
 Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát.
 Công cụ kinh tế.
 Công cụ giáo dục nâng cao nhận thức.
2.2.1. Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
2.2.1.1. Đặc điểm nội dung bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm
soát
Công cụ mệnh lệnh - kiểm soát hay còn gọi là công cụ pháp lý. Đây là công
cụ quản lý trực tiếp và được sử dụng phổ biến từ lâu ở nhiều quốc gia trên thế giới
và là công cụ được nhiều nhà quản lý hành chính ủng hộ.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát gồm 2 khía cạnh: Khía cạnh chỉ huy và kiểm
soát, theo nguyên tắc là một bên đưa ra yêu cầu mệnh lệnh hay chỉ huy đồng thời
họ cũng có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành hay tuân thủ các yêu
cầu đã được đặt ra.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật (pháp lệnh, nghị định, qui định, các tiêu chuẩn
môi trường, giấy phép môi trường...), các kế hoạch, chiến lược và chính sách môi
trường quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương.
Công cụ mệnh lệnh kiểm soát bao gồm:
- Luật quốc tế về môi trường: tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm cơ bản và

đặc thù của luật quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trong phòng ngừa,
giảm bớt và xoá bỏ, khắc phục những thiệt hại các loại, do các nguồn gây ra đối với
môi trường tự nhiên của các nước và môi trường ngoài phạm vi quyền tài phán
quốc gia. Khái niệm “môi trường” bao gồm những yếu tố gắn với điều kiện tồn tại
của con người trong đó có những yếu tố vật chất của thiên nhiên (những khách thể
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

6


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

tự nhiên) và những yếu tố do con người tạo ra trong quá trình tác động qua lại với
thiên nhiên. Ở cấp độ pháp luật quốc tế, các yếu tố của môi trường (vd. bầu khí
quyển, môi trường biển, nguồn nước ngọt ...) lần đầu tiên được nêu ra trong Tuyên
ngôn của Liên hợp quốc tế các vấn đề môi trường 1972. Sự bảo vệ môi trường bằng
luật quốc tế được tiến hành ở cấp toàn cầu, khu vực và hợp tác hai bên. Năm 1989,
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết "Về trách nhiệm lịch sử của
các quốc gia về bảo vệ thiên nhiên Trái Đất cho các thế hệ hiện nay và mai sau".
Năm 1982, Khoá họp 37 - Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông báo qua "Chiến
lược toàn cầu về bảo vệ thiên nhiên",... Cho đến nay đã có hàng nghìn văn bản luật
quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản trong số đó.
Pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường do nhiều nước ký kết hoặc tham gia không
có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên lãnh thổ nào
đó, các qui phạm của Luật quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải được chuyển hóa
thành quy phạm pháp luật quốc gia, nghĩa là Nhà nước phải phê chuẩn các văn bản
này.
- Luật môi trường quốc gia: là tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật,
các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi

trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một
cách có hiệu quả môi trường sống của con người. Hệ thống luật bảo vệ môi trường
của một quốc gia thường gồm luật chung và luật sử dụng hợp lý các thành phần
môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương, một ngành.
* Các văn bản Luật quốc tế về môi trường Việt Nam đã ký kết :
- Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như
là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR).
- Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên .
- Công ước về buôn bán các giống loài động thực vật có nguy cơ diệt chủng
(CITES).
- Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển (MARPOL).
- Công ước của Liên Hiệp Quốc về sự biến đổi môi trường.
- Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển.
- Công ước Viên về bảo vệ tầng Ôzon.
- Công ước về sự thông báo sớm sự cố hạt nhân.
- Công ước về sự trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu
phóng xạ .
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

7


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

- Nghị định thư Montrean về các chất làm suy giảm tầng Ôzon.
- Công ước Balơ về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc
hại và loại bỏ chúng .
- Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu.
- Công ước về đa dạng sinh học.
Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27

tháng 12 năm 1993 đã đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi
trường ở nước ta. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản về môi trường, bảo vệ môi
trường được định nghĩa một cách chuẩn tắc, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường
của các tổ chức, cá nhân được quy định cụ thể và rõ ràng.
Qua hơn 10 năm thực hiện Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã có
những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây
dựng và hoàn thiện. Ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội được nâng lên. Mức độ
gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế. Công
tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đạt được nhiều tiến bộ. Tuy
nhiên, trước những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, sự diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa
đổi. luật bảo vệ môi trường 2005 là luật bảo vệ môi trường mới nhất được quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2005,
ban hành theo Quyết định số 52/2005/QH11.
Ngoài ra, nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường cũng được đề cập trong các văn
bản pháp luật khác gọi là luật về các thành phần môi trường:
- Luật khoáng sản.
- Luật phát triển và bảo vệ rừng.
- Luật dầu khí.
- Luật hàng hải.
- Luật lao động.
- Luật đất đai.
- Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân.
- Luật tài nguyên nước.
- Pháp lệnh đê điều.
- Pháp lệnh về bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23


8


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

- Pháp lệnh về bảo vệ các công trình giao thông…
 Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn
thực hiện các nội dung của luật. Quy định có thể do Chính phủ trung ương hay địa
phương, do cơ quan hành pháp hay lập pháp ban hành.
 Quy chế là các quy định về thể lệ tổ chức quản lý bảo vệ môi trường,
chẳng hạn như quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, Bộ, Sở
khoa học công nghệ, Sở tài nguyên môi trường.
 Tiêu chuẩn môi trường là các chuẩn mực giới hạn cho phép được quy
định làm căn cứ để quản lý môi trường. Tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật
thiết với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc xây dựng tiêu chuẩn môi
trường một mặt dựa trên các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế, mặt khác phải
có nhiều căn cứ khoa học, nhằm đảm bảo cho tiêu chuẩn môi trường phù hợp với
nhu cầu bảo vệ sinh thái, đồng thời khả thi về mặt kinh tế, xã hội. Hệ thống tiêu
chuẩn môi trường phản ảnh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm
lực kinh tế xã hội có tính đến dự báo phát triển. Các dạng tiêu chuẩn môi trường:
 Chính sách bảo vệ môi trường là những chủ trương, biện pháp mang
tính chiến lược, có thời hạn nhằm giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể
nào đó trong một giai đoạn nhất định. Chính sách bảo vệ môi trường giải quyết
những vấn đề chung nhất về quan điểm quản lý môi trường, về các mục tiêu môi
trường cơ bản cần giải quyết trong một giai đoạn dài 10 - 15 năm và các định
hướng lớn thực hiện mục tiêu, chú trọng việc huy động nguồn lực cân đối với mục
tiêu về bảo vệ môi trường.
Chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng đồng thời với
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng quan trọng nhất của
chính sách môi trường là tạo điều kiện gắn kết các mục tiêu phát triển bền

vững vào hoạt động phát triển của từng ngành, từng vùng tạo liên kết giữa
các ngành và các cấp trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường.
 Chiến lược bảo vệ môi trường cụ thể hóa chính sách ở một mức độ
nhất định. Chiến lược xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa các mục tiêu do chính
sách xác định và các nguồn lực để thực hiện chúng; trên cơ sở lựa chọn các mục
tiêu khả thi, xác định phương hướng, biện pháp thực hiện mục tiêu.
 Công cụ đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường
được sử dụng để phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy các
tác động tích cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên qua đó làm tăng tối đa lợi ích của các dự án phát triển kinh tế - xã hội góp
phần vào phát triển bền vững của quốc gia.
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

9


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

2.2.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
a. Ưu điểm:
- Công cụ mệnh lệnh kiểm soát hay công cụ pháp lý là công cụ do nhà nước
ban hành, được phổ biến, kiểm soát và giám sát thông qua nhiều cơ quan, tổ chức,
do đó, nó có tính chất bắt buộc cao, yêu cầu mọi cá nhân, doanh nghiệp đều phải
thực hiện đúng. Nếu thực hiện sai sẽ bị xử phạt. Do đó, hạn chế và kiểm soát được
các hoạt động liên quan đến môi trường.
- Trước pháp luật, mỗi cá nhân đều bình đẳng, công cụ tạo ra được sự công
bằng và liêm minh đối với tất cả mọi cá nhân, doanh nghiệp.
- Công cụ mang tính thống nhất và rõ ràng nên có thể hướng dẫn các doanh
nghiệp thực hiện đúng yêu cầu đối với môi trường cũng như con người xung quanh.
- Các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào các bộ luật, tiêu chuẩn để có thể

kiểm tra lại việc làm của các tổ chức môi trường, xem họ đã thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình hay chưa.
b. Nhược điểm:
- Nước ta có bộ máy chính trị cồng kềnh, nhiều cấp, nhiều cơ sở, do đó việc
thực thi quản lý phần nào gặp phải khó khăn. Việc sửa đổi chính sách phải mất
nhiều thời gian do qua nhiều cấp.
- Năng lực của đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu, năng lực của các cơ quan
quản lý nhà nước tại địa phương chưa đáp ứng được tình hình xã hội.
- Có thể nảy sinh các vấn đề tiêu cực trong công tác, quản lý giám sát. Bởi
một số doanh nghiệp có thế lực sẽ liên kết với các cơ quan giám sát để thực hiện
những hành vi mang tính cá nhân.
- Chế tài áp dụng đối với các doanh nghiệp vi phạm chưa thích hợp.
- Công cụ thiếu tính năng động và thiếu khuyến khích về mặt kinh tế.
- Để có thể thực hiện công cụ này một cách hiệu quả, đòi hỏi phải có một
nguồn kinh phí rất lớn trong công tác quản lý, thiết lập các cơ sở cũng như đội ngũ
nguồn nhân lực.
Phải xây dựng một hệ thống luật môi trường thống nhất, đầy đủ là một điều
không phải dễ dàng thực hiện.
Xét trên phương diện chi phí, công cụ này thường bị chỉ trích là thiếu hiệu
quả.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

10


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

2.2.2. Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế được coi là một công cụ bổ sung cho công cụ pháp lý và

hiện nay mới được sử dụng rộng rãi. Công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có
tác dụng làm thay đổi chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên
tác động tới môi trường, nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc
gây ra sự hủy hoại môi trường. Công cụ kinh tế có thể tác động trực tiếp đến các
nhà sản xuất dưới dạng thuế môi trường, lệ phí xả thải hoặc trực tiếp vào người tiêu
thụ dưới dạng phí sử dụng. Trong tất cả các trường hợp đó, công cụ kinh tế đều có
mục đích chung là hạn chế số lượng chất thải phát sinh, giảm ảnh hưởng của việc
tiêu thụ tài nguyên và năng lượng.
Công cụ kinh tế rất đa dạng gồm thuế môi trường, phí và lệ phí môi trường,
quỹ môi trường, cota môi trường, ký quỹ môi trường, trợ cấp tài chính, nhãn sinh
thái... Mỗi công cụ kinh tế có những ưu điểm trong từng nội dung quản lý cụ thể.
2.2.2.1. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với các
doanh nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản
xuất. Mục đích của thuế tài nguyên là:
- Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên;
- Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng;
- Tạo nguồn thu cho ngân sách và điều hòa quyền lợi của tầng lớp dân cư về
việc sử dụng tài nguyên.
Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất,
thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên
khoáng sản...
Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công
nghệ của doanh nghiệp, phương thức quản lý của nhà nước và điều kiện địa chất kỹ
thuật của khu vực khai thác tài nguyên để đảm bảo có sự phân biệt đối với các
doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy thoái môi
trường ở các mức độ khác nhau; nguyên tắc chung là hoạt động càng gây nhiều tổn
thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì càng phải chịu thuế cao hơn. Việc xác
định đúng đắn phương pháp tính thuế tài nguyên là rất quan trọng sẽ góp phần thúc
đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, kỹ thuật năng lực quản lý nhằm làm giảm

tổn thất tài nguyên, đặc biệt các tài nguyên không tái tạo.
Trong thực tế khi áp dụng thuế tài nguyên người ta thường phân biệt tài
nguyên thành 2 loại theo mức độ xác định trữ lượng:
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

11


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

- Loại tài nguyên đã xác định trữ lượng: thuế được tính sẽ dựa trên trữ lượng
địa chất (hoặc trữ lượng công nghiệp) của loại tài nguyên mà doanh nghiệp được
phép khai thác;
- Loại tài nguyên chưa xác định trữ lượng hoặc xác định chưa chính xác trữ
lượng: Có thể sử dụng sản lượng khai thác làm cơ sở tính thuế trong khi chờ các
thăm dò địa chất về trữ lượng bổ sung.
Ngoài ra, thuế tài nguyên cũng phải được áp dụng từ từ từng bước để tránh
làm mất cân bằng kinh tế nên công bố thời hạn áp dụng.
2.2.2.2. Thuế và phí môi trường
Ý tưởng đầu tiên về thuế ô nhiễm do Pigou một kinh tế gia người Anh đưa ra
vào năm 1920. Hiện nay, thuế và phí môi trường được sử dụng phổ biến tại các
nước công nghiệp phát triển (OECD) từ hơn hai thập kỉ qua và đã bước đầu được
áp dụng có kết quả tại các nước Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc,
Singapore, Philippin...
Thuế môi trường: là khoản thu vào ngân sách nhà nước, nhằm điều tiết các
hoạt động môi trường Quốc gia, bù đắp các chi phí mà xã hội bỏ ra để giải quyết
các vấn đề như: chi phí y tế, chi phí phục hồi môi trường, chi phí xử lý ngăn ngừa ô
nhiễm.
-


Nguyên tắc tính thuế môi trường: Người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Phân loại thuế môi trường:
+ Thuế gián thu: Đánh vào giá trị sản phẩm hàng hóa gây ô nhiễm môi
trường trong quá trình sản xuất.
+ Thuế trực thu: Đánh vào lượng chất thải độc hại đối với môi trường do cơ
sở sản xuất gây ra,
Ví dụ: Thuế CO2, thuế môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản.

Luật thuế bảo vệ môi trường của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
15/11/2010, sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2012. Luật điều chỉnh một số nhóm hàng
hóa, trong đó đối tượng chịu thuế gồm 8 nhóm sau: Xăng, dầu, mỡ, nhờn; Than đá;
Dung dịch HCFC; Túi ni lông; Thuốc diệt cỏ (loại hạn chế sử dụng); Thuốc trừ mối
(hạn chế sử dụng); Thuốc bảo quản lâm sản (hạn chế sử dụng); Thuốc khử trùng
kho (hạn chế sử dụng).
Quan điểm mới của Luật thuế môi trường Việt Nam là xây dựng một sắc
thuế môi trường độc lập, nhằm tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, giảm thiểu việc
sử dụng, sản xuất và thải các chất gây hại đến môi trường, đồng thời nhằm bù đắp
và xử lý các vấn đề gây ô nhiễm môi trường, nâng cao ý thức của cộng đồng đối
với môi trường. Mục đích của thuế môi trường là tạo hành lang pháp lý để điều
chỉnh trực tiếp hành vi của các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp gây ô
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

12


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

nhiễm môi trường và nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, chống chuyển dịch công
nghệ bẩn vào Việt Nam, đồng thời tạo lập và sử dụng nguồn kinh phí trực tiếp đó
để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện môi trường, chi phí cho việc bảo vệ môi

trường, tuyên truyền tác động đến ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường.
Đối tượng chịu thuế: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh
doanh, khai thác, chế biến sản phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ có chất thải, rác
thải, nước thải, tiếng ồn hoặc nhập khẩu các loại sản phẩm gây tác động xấu lâu dài
đến môi trường và sức khỏe con người.
Đối tượng đánh thuế: Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, khai thác,
chế biến sản phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ có chất thải, rác thải, nước thải,
tiếng ồn hoặc nhập khẩu các loại sản phẩm gây tác độn xấu lâu dài đến môi trường
và sức khỏe con người. Cụ thể là các nhóm: nhóm sản phẩm hàng hóa sản xuất cho
sử dụng trực tiếp ( sản phẩm cung cấp không thân thiện với môi trường hoặc gây
hại cho sức khỏe con người) như túi nilon, xe ô tô, xa máy, thuốc lá, thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ, phân bón, máy phát điện,…; nhóm sản phẩm thải vào môi trường
như khí thải như CO2, NO2, SO2, Pb, O3,…, nước thải có các chất như
cacbonhydrat, protein, chất béo, Pb, Hg, Mn, dầu mỡ,…
Thuế đánh vào nguồn ô nhiễm được xác định trên cơ sở khối lượng và
hàm lượng (nồng độ) các chất gây ô nhiễm.
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế: Các chủ thể sản xuất kinh
doanh những sản phẩm có tác động tích cực đến môi trường như sản xuất năng
lượng, năng lượng tái tạo,..
Đối tượng miễn, giảm: Cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng các biện
pháp công nghệ để cải thiện môi trường; hoạt động tái chế, xử lý, chôn lấp chất
thải, máy móc, thiết bị, phương tiện, dụng cụ nhập khẩu được sử dụng trực tiếp
trong việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải; quan trắc và phân
tích môi trường,..
2.2.2.3. Phí và lệ phí môi trường:
Phí: là khoản thu của nhà nước nhằm bù đắp một phần chi phí thường
xuyên và không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lý hành chính
của nhà nước đối với hoạt động của người nộp thuế.
Phí do cơ quan hành chính ban hành.
Mức thu căn cứ trên tổng chi phí cần thiết, mức độ trợ cấp của nhà nước và

khả năng đóng góp của các đối tượng trong diện phải nộp thuế. Các khoản thu từ
phí này được dùng để góp phần thiết lập hệ thống kiểm soát, xử lý ô nhiễm công

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

13


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

cộng, bù đắp chi phí đảm bảo cho hoạt động của hệ thống đó. Đối tượng thu là các
tổ chức cá nhân trực tiếp sử dụng các hệ thống dịch vụ môi trường công cộng.
Phí không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm nếu vì
lí do nào đó, người ta không thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô
nhiễm. Loại phí này có thể đánh vào sản phẩm là nguyên liệu đầu vào, sản phẩm
trung gian hay thành phẩm, tùy theo từng trường hợp.
Tại Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 2712-1993 và có hiệu lực từ ngày 10-1-1994 trong đó quy định chính thức phí bảo vệ
môi trường.
Đối tượng phải nộp thuế môi trường: Theo điều 7 - Luật bảo vệ môi trường
và điều 34- Nghị định 175/CP. Quy định: “Tất cả các ngành công nghiệp, cơ sở sản
xuất thuộc mọi loại hình có sử dụng môi trường vào mục đích sản xuất đều phải
nộp phí môi trường: khai thác dầu mỏ, khí đốt, các khoáng sản khác; sân bay, bến
cảng, nhà xe, nhà ga; các phương tiện giao thông cơ giới; các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh khác gây ô nhiễm môi trường.
Ngày 13/1/2003 Chính phủ ra Nghị định 67/2003/NĐ-CP về thu phí nước
thải.Giống như các loại thuế hay phí môi trường khác, phí nước thải dựa trên
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, qua đó tạo động lực để các doanh
nghiệp giảm ô nhiễm, đồng thời tạo ra nguồn thu để chi trả cho các hoạt động bảo
vệ môi trường

2.2.2.4. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (cota ô nhiễm)
- Khái niệm 1: Cota ô nhiễm là hạn ngạch sử dụng môi trường hoặc giới hạn
trần cho mức ô nhiễm
- Khái niệm 2: Cota ô nhiễm là “Quyền gây ô nhiễm” của các doanh nghiệp
sẽ được ghi nhận bằng “giấy phép xả thải” hay còn gọi là Cota ô nhiễm.
Trên thế giới dùng cota ô nhiễm là biện pháp can thiệp của nhà nước nhằm
điều chỉnh mức độ ô nhiễm. Ai muốn có quyền thải phải mua cota ô nhiễm và
người đó có quyền bán lại cota ô nhiễm này cho người khác. Từ đây hình thành thị
trường cota ô nhiễm.
Nguyên lý cơ bản của thị trường cota ô nhiễm là việc đặt ta giới hạn tối đa
về lượng chất thải nào đó ở mức thống nhất với chỉ tiêu môi trường ở một vùng
hoặc khu vực cụ thể. Khi tổng lượng chất thải cho phép thấp hơn lượng chất thải
mà các đơn vị trong vùng muốn thải thì sẽ tạo nên sự khan hiếm về quyền được thải
và làm cho cota có giá trên thị trường.
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

14


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

Với quy định số lượng cota, giá cota được thải, nhà sản xuất sẽ lựa chọn một
trong hai giải pháp:
- Mua cota ô nhiễm để được thải với mức thải quy định.
- Tăng chi phí làm giảm ô nhiễm theo yêu cầu của kiểm soát ô nhiễm.
Công cụ này được áp dụng ở một số nước, ví dụ giấy phép (quota) khai thác
cá ngừ và sử dụng nước ở Australia, giấy phép ô nhiễm không khí ở Mỹ, Anh và
một số thành viên của OECD như Canada, Đức, Thụy Điển.
Ưu điểm đáng kể nhất của loại công cụ này là sự kết hợp giữa tín hiệu giá cả
và hạn mức ô nhiễm. So với các loại thuế môi trường hay phí ô nhiễm thị trường

giấy phép mang tính chắc chắn, đảm bảo hơn về kết quả đạt mục tiêu môi trường vì
dù giao dịch mua bán như thế nào thì tổng lượng giấy phép vẫn nằm trong phạm vi
kiểm soát ở số phát hành ban đầu. Mặt khác, công cụ giấy phép linh hoạt ở chỗ nó
cho phép các doanh nghiệp ....
Các khó khăn chính cho việc thực hiện côta ô nhiễm là:
+ Để xác định chính xác giá trị côta ô nhiễm và cấp côta cho một khu vực,
một lưu vực hay một vùng cần phải có các nghiên cứu về khả năng tự làm sạch của
môi trường. Điều này thường đòi hỏi nhiều kinh phí và kinh nghiệm chuyên môn
cao;
+ Hoạt động phát triển kinh tế và chất lượng môi trường khu vực liên tục
thay đổi theo thời gian, do vậy các giá trị của côta ô nhiễm cũng rất dễ thay đổi
trước sức ép nói trên. Hiện tại chúng ta xác định các mức côta ô nhiễm là không
nguy hiểm đối với môi trường, nhưng trong tương lai điều đó không thể chấp nhận
được. Vì vậy, cần nhiều công sức để điều chỉnh côta dẫn đến chỗ các giải pháp mua
hoặc bán côta rất khó thực hiện hoặc hiệu quả thực tế nhỏ;
+ Hoạt động mua và bán côta chỉ có thể diễn ra một cách bình thường trong
nền kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường, với một hệ thống pháp lý hoàn
thiện về quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng quản lý môi trường tốt. Trong
trường hợp khác đi, việc trao đổi mua bán chỉ còn là hình thức hoặc kém hiệu lực,
do đó có gian lận trong việc xác định côta và kiểm soát ô nhiễm.
2.2.2.5. Hệ thống đặt cọc hoàn trả
Đặt cọc – hoàn trả được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng
cách quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi
trường phải trả một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam kết sau
khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho
các đơn vị thu gom phế thải hoặc tới những địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử
dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn đối với môi trường. Nếu thực hiện đúng
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

15



Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

người tiêu dùng sẽ nhận lại khoản đặt cọc do các tổ chức thu gom hoàn trả lại. Mục
đích của hệ thống đặt cọc – hoàn trả là thu gom những thứ mà người tiêu thụ đã
dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng một cách an toàn đối với môi
trường.
Đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những ứng cử viên sáng giá cho các
chính sách nhằm giúp nền kinh tế thoát khỏi chu trình sản xuất tuyến tính (khai
khoáng
→ nguyên liệu thô →sản phẩm→phế thải) và hướng tới chu trình tuần
hoàn trong đó các tài nguyên được tái chế, tái sử dụng tới mức tối đa có thể được.
Phạm vi sử dụng của hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm:
- Các sản phẩm mà khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng
có thể tái chế hoặc tái sử dụng;
- Các sản phẩm làm tăng lượng chất thải, cần các bãi thải có quy mô lớn
hoặc tốn nhiều chi phí tiêu hủy;
- Các sản phẩm chứa chất độc, gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý; nếu tiêu
hủy không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và
sức khỏe con người.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả tỏ ra đặc biệt thích hợp với việc quản lý chất thải
rắn. Các quốc gia thuộc tổ chức OECD đã áp dụng khá thành công hệ thống đặt cọc
– hoàn trả đối với các sản phẩm đồ uống, bia, rượu (đựng trong vỏ chai nhựa hoặc
thủy tinh) mang lại hiệu quả cao cho việc thu gom các phế thải. Hiện nay các nước
này đã và đang mở rộng việc áp dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả sang các lĩnh vực
khác như vỏ tàu, ô tô cũ, dầu nhớt, ắc quy có chứa chì, thủy ngân, Cd, vỏ chai đựng
thuốc trừ sâu, các đồ điện gia dụng như máy thu hình, tủ lạnh, điều hòa không khí...
Nhiều nước trong khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan cũng đã có
thành công nhất định trong việc áo dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả đối với vỏ lon,

vỏ chai nhựa, thủy tinh, nhôm, sắt, thép, phế liệu, ắc quy, xăm lốp, dầu nhớt, giấy
loại...
Theo kinh nghiệm của các nước, mức đặt cọc là một trong những yếu tố
quan trọng tác động đến hiệu quả của hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Các mức đặt cọc
thấp sẽ không tạo ra động lực kinh tế đủ mạnh cho việc thu gom và tái chế phế thải.
Ngoài ra các yếu tố như nhận thức và ý thức của người sản xuất và tiêu dùng đối
với vấn đề thu gom phế thải, khả năng tổ chức và quản lý hệ thống thu gom cũng
như vấn đề công nghệ tái chế đều có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoạt động và
thành công của hệ thống.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

16


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

2.2.2.6. Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có
tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nguyên lý hoạt động của hệ thống
ký quỹ môi trường cũng tương tự như hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Nội dung chính
của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp các cơ sở sản xuất kinh doanh
trước khi tiến hành hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền (hoặc kim loại
quý, đá quý, hoặc các giấy tờ có giá trị như tiền) tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng
nhằm bảo đảm sự cam kết về thực hiện các biện pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái
môi trường.
Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm,
suy thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ từ đó tìm ra các biện
pháp thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp/cơ sở có

các biện pháp chủ động ngăn chặn khắc phục không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy
thoái môi trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì họ sẽ
được nhận lại số tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực hiện
đúng cam kết hoặc phá sản thì số tiền đã ký quỹ sẽ được rút ra từ tài khoản ngân
hàng/tổ chức tín dụng để chi cho công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi trường.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí
khắc phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các
doanh nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sẽ có
lợi ích do lấy lại được vốn khi không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền phải ký quỹ
phải lớn hơn hoặc xấp xỉ kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh
nghiệp gây ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với chi
phí bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ nhận lại số tiền ký
quỹ đó và không thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình.
Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại
dương.
2.2.2.7. Trợ cấp môi trường
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt các nước thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường có thể
dưới các dạng sau:
-

Trợ cấp không hoàn lại: ưu đãi cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng
để nâng cao khả năng quản lý môi trường

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

17



Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

-

Các khoản cho vay ưu đãi

-

Cho phép khấu hao nhanh

-

Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế)

Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công – nông
nghiệp các ngành khác khắc phục ô nhiễm trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm
môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu
đựng được đối với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng còn nhằm khuyến khích các cơ
quan nghiên cứu và triển khai các công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường hoặc
các công nghệ xử lý ô nhiễm.
Tuy nhiên, trợ cấp có thể gây ra sự không hiệu quả. Các nhà sản xuất có
thể đầu tư quá mức vào kiểm soát và xử lý ô nhiễm (làm giảm ô nhiễm nhiều hơn
so với mức tối ưu cũng là không hiệu quả).
Trường hợp ngược lại, trợ cấp không được hoạch toán toàn bộ vào chi phí
giảm ô nhiễm mà một phần được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân, làm tăng lợi
nhuận.
Trợ cấp môi trường chỉ ra biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích
hợp hoặc kéo dài sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược lại với nguyên tắc
“người gây ô nhiễm phải trả tiền”, nó tạo ra sự thay đổi số công ty (vào – ra tự do

đối với ngành công nghiệp), thay đổi mức hoạt động của ngành công nghiệp mà
mục đích giảm ô nhiễm lại không đạt được.
Vì vậy, trợ cấp môi trường chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố
định với một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên.
2.2.2.8. Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là danh hiệu của các tổ chức môi trường dành cho các sản
phẩm có sử dụng những công nghệ hoặc giải pháp thân thiện với môi trường, nhằm
cung cấp thông tin khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa vì mục tiêu bảo
vệ môi trường.
Nhãn sinh thái do một cơ quan môi trường quốc gia hoặc một hiệp hội các
nhà sản xuất loại sản phẩm (nhãn sinh thái ngành dệt của Đức), quản lý (cấp và thu
hồi nhãn) thông thường là một cơ quan quản lý môi trường.
Nhãn sinh thái đánh vào nhà sản xuất thông qua người tiêu thụ và hệ thống
tiêu thụ, bằng giá của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Mục đích:
Mục đích của nhãn sinh thái là đẩy mạnh việc tiêu dùng và sản xuất nhiều
sản phẩm về mặt môi trường hơn, bằng việc cung cấp cho người tiêu dùng những
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

18


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

thông tin về ảnh hưởng môi trường của sản phẩm. Trong các quan hệ thương mại
quốc tế, nhãn sinh thái tác động đến vấn đề cạnh tranh xuất khẩu, vượt qua các trở
ngại thương mại.
+ Đối với Chính phủ: Giúp Chính phủ quản lý tốt hơn về vấn đề môi trường
quốc gia, lưu thông hành hóa dịch vụ.
+ Đối với doanh nghiệp: Tạo dựng uy tín và hình ảnh tốt trước bạn hành và

người tiêu dùng; giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro trong thương mại quốc
tế như rửi ro về môi trường, chi phí bảo hiểm.
+ Đối với người tiêu dùng: Có được những hướng dẫn khi mua sắm, ý thức
được giá trị môi trường của sản phẩm.
Nhà nước xác nhận các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khẳng định uy
tín sản phẩm và của nhà sản xuất.
Những sản phẩm được dán nhãn:
+ Sản phẩm tái chế từ phế thải
+ Sản phẩm thay thế cho các sản phẩm xấu tới môi trường
+ Sản phẩm có tác động tích cực đối với môi trường trong sản xuất và tiêu
dùng.
2.2.2.9. Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài
trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá
trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Nguồn thu cho quỹ môi trường có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau như:
- Phí và lệ phí môi trường
- Đóng góp tự nguyện của các cá nhân và doanh nghiệp
- Tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức trong nước, chính quyền địa
phương và chính phủ trung ương
- Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế
- Tiền lãi và các khoản lợi khác nhau thu được từ hoạt động của quỹ
- Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường
- Tiền thu từ các hoạt động như văn hóa, thể thao, từ thiện, xổ số, phát hành
trái phiếu...
Nhiều nước trên thế giới đã thành lập quỹ môi trường áp dụng rất thành
công và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23


19


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

Tại Việt Nam ngày 26/6/2002, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Quỹ bảo
vệ môi trường Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2003 với mục
đích và nhiệm vụ chính là hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
Đây là một tổ chức đầu tiên ở cấp độ quốc gia thực hiện chức năng như một tổ chức
tài chính hỗ trợ vốn cho các dự án môi trường trên toàn quốc.
Hình thức áp dụng quỹ môi trương: Quỹ môi trường cung cấp thường dưới
hình thức hỗ trợ tài chính với các điều khoản ưu đãi chẳng hạn như các khoản trợ
cấp không hoàn lại, các khoản vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện
hành trên thị trường để khuyến khích các dự án đầu tư bảo vệ môi trường, hỗ trợ
các dự án nghiên cứu triển khai, đào tạo truyền thông môi trường , các dự án kiểm
soát và xử lý ô nhiễm của các doanh nghiệp. Quỹ môi trường thậm chí còn hỗ trợ
tiền cho việc điều trị của các nạn nhân ô nhiễm.
2.2.3. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ kinh tế
a. Ưu điểm:
Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là biện pháp các nhà
kinh tế cho là hiệu quả cao xét từ góc độ chi phí thực hiện. Đồng thời do đặc tính
linh hoạt của bản thân công cụ, vận hành trên cơ sở sử dụng sức mạnh của thị
trường và nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, công cụ kinh tế có khả năng khắc
phục những thất bại của thị trường, có hiệu quả trong việc thay đổi hành vi gây ô
nhiễm, khuyến khích sự năng động và tự giác của người gây ô nhiễm. Thực tế việc
sử dụng công cụ kinh tế ở các nước trên thế giới cho thấy những tác động tích cực
như các hành vi môi trường được điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí xã hội
cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu
triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi trường, gia tăng nguồn thu
phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt các

giá trị môi trường của quốc gia.
b. Hạn chế:
Các yếu tố môi trường là các tài sản khó xác định về chất lượng, giá trị tồn
tại (yếu tố phi thị trường). Việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
là vấn đề không đơn giản ngay cả ở những nước phát triển, nơi mà lý thuyết về
lượng giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố môi trường đã được định
hình và củng cố.
Lĩnh vực môi trường có tính chất liên ngành, đa lĩnh vực và đa quốc gia nên
rất khó khăn trong việc xác lập quyển sở hữu và xây dựng cơ chế chính sách quản
lý.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

20


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

Sự bền vững về mặt môi trường phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động kinh
tế, xã hội và sự phát triển của cơ chế thị trường luôn phát triên, vận động không
ngừng…

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

21


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

CHƯƠNG II

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG & BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG

1. Tình hình sử dụng các công cụ quản lý môi trường
1.1. Công cụ mệnh lệnh kiểm soát
- Nhà nước đã xây dựng nhiều hệ thống luật nhằm đảo bảo hướng dẫn doanh
nghiệp thực hiện xây dựng và hoạt động theo những tiêu chuẩn thống nhất tiến tới
bảo vệ môi trường cũng như dễ dàng thực hiện trong việc kiểm soát.
- Tiến hành điều tra và xử phạt những hành vi vi phạm, gian lận, cố tính hùy
hoại môi trường: chặt phá rừng tư lợi, xả rác, nước thải chưa qua xử lý vào môi
trường. Như vụ việc của công ty Vedan Việt Nam, xả nước thải chưa qua xử lí vào
sông Thị Vải, điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người dân sống
quanh đây gây nên bệnh tật.
- Ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực
hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn là
vấn đề rất đáng lo ngại. Như vụ việc công ty Vedan, Sonadezi, mặt dù phát hiện và
xử lý, tuy nhiên, biện pháp xử phạt chưa thích đáng, chênh lệch giữa mức phạt và
ảnh hưởng mà nó gây ra vẫn lớn. Người dân chịu thiệt hại nhưng họ vẫn không
được đền bù xứng đáng. Điều này đã gây bức xúc lớn trong dư luận.
- Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp
lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường
nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước
thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công
nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý
chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Trong khi đó với đội
ngũ hiện nay cũng như các cơ quan số lượng chưa nhiều, thì việc kiểm soát vẫn còn
rất hạn chế, có nhiều vụ việc vẫn chưa phát hiện và chưa có những hành động xử lý
thỏa đáng.
1.2. Công cụ kinh tế
Áp dụng công cụ kinh tế (CCKT) trong quản lý môi trường cũng là một

cách tiếp cận đúng đắn nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái môi trường tại Việt
Nam. Việc áp dụng CCKT trong quản lý môi trường đã được Chính phủ quan tâm.
Một số CCKT đã được triển khai áp dụng ở các quy mô khác nhau. Bước đầu, các
công cụ kinh tế đã có tác dụng tích cực giúp hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

22


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

trường. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ về các CCKT trước khi ban hành
nên quá trình triển khai các công cụ này còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thực
thi chưa cao.
Ngoài ra, năng lực nghiên cứu và thực thi các CCKT còn hạn chế. Còn nhiều
CCKT chưa được áp dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực như bảo tồn đa dạng sinh học.
Một điểm cần lưu ý là để CCKT phát huy tác dụng thì cần thực hiện tốt công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như tuyên tuyền giáo dục nhằm tạo động
lực tuân thủ các qui định về môi trường, trong đó có các quy định về CCKT.
2. Đánh giá hiệu quả của công cụ kinh tế môi trường hiện nay
2.1. Về cơ cấu tổ chức quản lý môi trường
Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống quản lý môi trường ở các cấp vẫn
còn nhiều bất cập:
- Ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu trong
xây dựng quy hoạch, kế hoạch BVMT; xây dựng báo cáo môi trường hàng năm cho
đến việc thực thi các hoạt động (kiểm soát ô nhiễm, thanh tra môi trường, giải
quyết các sự cố...).
- Đội ngũ quản lý nhà nước về môi trường quá mỏng, cán bộ phần lớn chưa
được bố trí đúng chuyên môn, nghiệp vụ; thiếu đầu tư, trang cấp đầy đủ về phương
tiện, thiết bị. Vì vậy, luôn gặp khó khăn khi giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ

quản lý môi trường tại địa phương.
- Đội ngũ cán bộ tại vừa thiếu số lượng vừa yếu về trình độ.
- Vẫn còn nhiều các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa bố trí các cán bộ chuyên
trách về môi trường.
- Chưa thiết lập cơ chế hữu hiệu để phối hợp liên ngành trong công tác
BVMT, việc lồng ghép hài hòa các quy định về BVMT vào mục tiêu, chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh chưa đồng bộ.
2.2. Về mặt thể chế, chính sách
Ngoài những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế và tồn tại trong việc
chấp hành các chính sách và pháp luật về BVMT trên địa bàn tỉnh. Thông qua kết
quả thanh tra, kiểm tra cho thấy còn nhiều trường hợp các cơ sở sản xuất kinh
doanh trên địa bàn vi phạm pháp luật về BVMT. Nhiều dự án đã triển khai nhưng
không chấp hành nghiêm các quy định pháp luật về BVMT. Việc xử lý của các cơ
quan chức năng về các vi phạm về BVMT còn thiếu kiên quyết do thiếu biện pháp
và chế tài để cưỡng chế. Bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường đã dần được kiện
toàn, song vẫn còn thiếu những cán bộ có nghiệp vụ về môi trường. Bên cạnh đó
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

23


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

công tác tuyên truyền, vận động triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường hiệu
quả chưa cao, hình thức tuyên truyền chưa đa dạng nên nhận thức của nhân dân và
các cấp, các ngành về vấn đề BVMT và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
môi trường còn hạn chế. Chưa xây dựng được cơ chế thúc đẩy xã hội hóa hoạt động
BVMT.
2.3. Về mặt tài chính, đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường
Chưa có đủ kinh phí để xử lý dứt điểm các điểm nóng về môi trường, đặc biệt

là các bãi rác tập trung, các khu công nghiệp và làng nghề. Nguồn kinh phí cho
nhiệm vụ điều tra đánh giá nguyên nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường cũng
như việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa, khắc phục ảnh hưởng do thiên tai gây
ra chưa được phân bổ hợp lý.
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và các địa phương trong
việc xây dựng kế hoạch và phân bổ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp môi trường
hàng năm. Vì vậy, vấn đề ưu tiên, lựa chọn đúng việc, đúng nguồn nhằm thực hiện
các nhiệm vụ môi trường tại địa phương vẫn còn hạn chế.
Việc bố trí kinh phí, đầu tư xử lý môi trường, đặc biệt là hỗ trợ xử lý tại các
cơ sở công ích, các khu công nghiệp còn quá ít. Các doanh nghiệp chưa chú trọng
đầu tư kinh phí cho công tác BVMT. Số dự án nước ngoài viện trợ cho địa phương
còn ít.
2.4. Về các hoạt động giám sát, quan trắc, cảnh báo ô nhiễm môi trường
Hệ thống quan trắc môi trường hoạt động chưa được thường xuyên, chủ yếu
phục vụ công tác thanh tra môi trường, chưa thật sự là hệ thống theo dõi thường
xuyên diễn biến chất lượng môi trường trên địa bàn tỉnh. Công tác quan trắc môi
trường chủ yếu tập trung vào môi trường nước (nước mặt, nước ngầm, nước biển
ven bờ, không khí) còn các hợp phần môi trường khác như: môi trường đất, nước
thải … còn hạn chế.
Công tác thanh kiểm tra còn hạn chế và chưa được sâu sát đến từng doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hoạt động giám sát, hậu thẩm định đánh giá tác động môi
trường còn yếu, do thiếu nguồn lực.
- Lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra, kể cả Chi cục Bảo vệ môi
trường, Thanh tra môi trường và Cảnh sát môi trường còn quá mỏng. Sự phối hợp
giữa các lực lượng thanh tra môi trường, cảnh sát môi trường, Chi cục Bảo vệ môi
trường và các sở, ban, ngành liên quan khác chưa được thường xuyên, còn mang
tính chất vụ việc.
- Trang thiết bị phục vụ công tác giám sát môi trường còn hạn chế, mức độ
hiện đại chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23


24


Bài tập môn học: Kinh tế môi trường – GVGD: TS. Lê Thị Kim Oanh

- Sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức xã hội còn ít trong công tác theo
dõi, giám sát và tố giác các cơ sở gây ô nhiễm môi trường.
2.5. Về nguồn lực, sự tham gia của cộng đồng
Việc thông tin, tuyên truyền về Luật bảo vệ môi trường chưa được thường
xuyên và sâu rộng, chưa đến được từng doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân do
kinh phí phân bổ thực hiện nhiệm vụ này còn rất thấp.
Trong công tác truyền thông về bảo vệ môi trường, chưa động viên được tối
đa nguồn lực ở địa phương và thu hút được sự tham gia tích cực của cộng đồng; lực
lượng tuyên truyền viên còn mỏng; chương trình môi trường vẫn chưa lồng ghép
được vào chương trình hoạt động hàng năm của các đơn vị có trách nhiệm; kiến
thức hiểu biết về môi trường của các tuyên truyền viên còn hạn chế, đặc biệt là các
kiến thức về giá trị và mối đe dọa đối với tài nguyên và môi trường. Việc tổ chức
các hoạt động truyền thông vẫn còn theo kỳ, thiếu tính liên tục, chưa đề ra được
một chỉ tiêu phấn đấu cụ thể và không kiểm tra, hướng dẫn thường xuyên. Kinh phí
đầu tư cho các hoạt động này còn hạn hẹp, chưa có nguồn tài chính bền vững,
thường xuyên.
2.6. Các hoạt động khác
- Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vẫn xảy ra cục bộ ở nhiều nơi
nhưng việc đầu tư hệ thống xử lý môi trường còn mang tính chắp vá, không đồng
bộ nên hiệu quả xử lý thấp, thậm chí một số đơn vị đầu tư hệ thống xử lý chỉ mang
tính đối phó, vì vậy không giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường trong
quá trình hoạt động. Còn nhiều cơ sở chưa đăng ký chủ nguồn chất thải nguy hại để
cấp sổ theo đúng quy định của pháp luật.
- Tình trạng các chất thải nguy hại chưa được quản lý, xử lý một cách chặt

chẽ; nhiều cơ sở sản xuất chưa có hệ thống kiểm soát ô nhiễm môi trường hoặc có
nhưng kém hiệu quả, thậm chí có khu công nghiệp diện tích lấp đầy trên 90%
nhưng chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, nên có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường và tác động đến sức khỏe cộng đồng.
- Thiếu quy hoạch tổng thể về bảo vệ môi trường, gắn các nhiệm vụ bảo vệ
môi trường với định hướng phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho các vùng, các
khu vực của địa phương, đặc biệt là các vùng nhạy cảm ven biển, các khu vực đô
thị, đông dân cư.

HVTH: Phạm Văn Thọ - Lớp Cao học môi trường K23

25


×