Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận kinh tế môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.7 KB, 38 trang )

Tiểu luận môn Kinh tế môi trường

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG CỤ TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG ............................................................................................................4
1.1. Công cụ quản lý môi trường .......................................................................4
1.2. Công cụ luật pháp chính sách (mệnh lệnh – kiểm soát)............................4
1.3. Công cụ kinh tế.............................................................................................7
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG CỤ MỆNH LỆNH KIỂM
SOÁT TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG (QLMT) Ở VIỆT NAM VÀ ĐỀ
XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP ..........................................................................17
2.1. Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường..............................................17
2.1.1. Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường cấp trung ương................17
2.1.2. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp địa phương....17
2.2. Hệ thống chính sách - pháp luật về bảo vệ môi trường..........................19
CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ
TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG (QLMT) Ở VIỆT NAM.....................19
3.1. Một số công cụ kinh tế đang được áp dụng trong QLMT ở Việt Nam 19
3.2. Thuế tài nguyên..........................................................................................20
3.3. Thuế và phí môi trường ............................................................................20
3.4. Ký quỹ môi trường.....................................................................................22
3.5. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (Quota ô nhiễm)..........23
3.6. Quỹ Môi trường .........................................................................................24
3.7. Nhãn sinh thái.............................................................................................26
CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VIỆC TRONG QLMT Ở VIỆT
NAM...................................................................................................................28
4.1. Thuận lợi và khó khăn trong QLMT ở Việt Nam ..................................28
4.1.2. Những thuận lợi ......................................................................................28
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường


Trang 1


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường

4.1.2. Những khó khăn......................................................................................29
4.2. Đề xuất các giải pháp và kiến nghị ..........................................................31
4.2.1. Các giải pháp về chính sách – pháp luật...............................................31
4.2.2. Các giải pháp về tăng cường năng lực quản lý.....................................31
4.2.3. Các giải pháp về nâng cao nhận thức cộng đồng .................................31
4.2.4. Một số kiến nghị liên quan đến việc áp dụng các công cụ kinh tế trong
QLMT ở Việt Nam ...........................................................................................32
KẾT LUẬN........................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................37

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 2


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vài ba thập kỷ gần đây, do sức ép về dân số và phát triển kinh tế, hiện
tượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường bị suy thoái
nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng bị phá huỷ hoàn toàn. Những vấn đề môi trường
toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzôn, đa dạng sinh học giảm sút, suy
giảm tài nguyên đất và nước ngọt ... đang là thách thức đối với sự tồn tại của loài
người. Do vậy, để duy trì chất lượng môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững
đang là yêu cầu đặt ra đối với toàn thế giới cũng như mỗi một quốc gia.
Để phát triển bền vững đòi hỏi phải có cơ chế quản lý Nhà nước đồng bộ và

linh hoạt trên cả ba bộ phận cấu thành là: kinh tế, xã hội và môi trường. Hệ thống quản
lý Nhà nước về môi trường ở nước ta đã được thành lập và Bộ Tài nguyên và Môi
trường là cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ này. Sự ra đời của Luật BVMT đã định
hướng hoạt động quản lý BVMT theo các nguyên tắc cơ bản là phòng ngừa, ngăn ngừa
và khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường và khẳng định “phòng ngừa là
nguyên tắc cơ bản”.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững vẫn thiên về mệnh lệnh, kiểm soát
theo cách tiếp cận áp đặt các biện pháp hành chính nên ít có hiệu quả về kinh tế và
không khuyến khích được các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tích cực thực hiện bảo
vệ môi trường. Do vậy, cần có các giải pháp quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở
nhiều góc độ khác nhau. Quản lý môi trường xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống
và cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp đa dạng và thích
hợp.
Trong số những công cụ đó, các công cụ kinh tế đang được tiếp cận và ứng
dụng ngày càng phổ biến hơn ở nước ta. Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí
đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một cách tiếp
cận phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo chất lượng môi trường
và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 3


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG CỤ TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG
1.1. Công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là các phương thức hay biện pháp hành động nhằm

thực hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất
[2]. Các biện pháp và công cụ quản lý môi trường rất đa dạng: luật pháp, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, khoa học, kinh tế, công nghệ, v.v… Mỗi loại biện
pháp và công cụ trên có phạm vi và hiệu quả khác nhau trong từng trường hợp cụ thể.
Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại các công cụ quản lý môi trường. Theo
chức năng, công cụ quản lý môi trường có thể chia thành:
 Công cụ vĩ mô là luật pháp và chính sách;
 Công cụ hỗ trợ là các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi
trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi trường;
 Công cụ hành động là các công cụ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt v.v....
Theo bản chất, có thể chia thành:
 Công cụ luật pháp chính sách hay còn gọi là công cụ mệnh lệnh – kiểm soát,
bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật,
các kế hoạch và chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa
phương;
 Công cụ kinh tế bao gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của
hoạt động sản xuất kinh doanh;
1.2. Công cụ luật pháp chính sách (mệnh lệnh – kiểm soát)
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát (Command-and-control approach (CAC)) là
công cụ ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điểu chỉnh hành vi xử sự của
con người và sử dụng các quy định trong khung pháp lý để xử phạt những cá nhân (tổ
chức) vi phạm [1]. Như vậy, rõ ràng công cụ mệnh lệnh kiểm soát chủ yếu dựa vào các
tiêu chuẩn, quy định. Công cụ này được sử dụng khá phổ biến tại các quốc gia trên thế
giới, kể cả các nước phát triển và đang phát triển.
Như tên gọi của mình, công cụ này gồm “mệnh lệnh” – là hệ thống các tiêu
chuẩn, quy chuẩn quy định các ngưỡng xả thải tối đa cho phép và “kiểm soát” – là
công tác giám sát, bắt buộc các cá nhân, doanh nghiệp tuân theo những quy định trên
[3]. Nhìn chung, có hai loại tiêu chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung
(ambient standards) và tiêu chuẩn xả thải (emissions standards). Tiêu chuẩn chất
lượng môi trường xung quanh quy định mức tối thiểu của chất lượng nước hay không

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 4


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
khí; hoặc mức tối đa của các chất ô nhiễm. Tiêu chuẩn xả thải quy định mức tối đã xả
thải cho phép của các ngành cụ thể.
Bảng 1. Phân tích ưu nhược điểm của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
Ưu điểm



Các tiêu chuẩn giúp đơn giản
hóa chính sách môi trường;



Các tiêu chuẩn là cách tiếp cận
thực tế khi chưa xác định chắc
chắn các tác động của ô nhiễm
đến môi trường;



Rủi ro về chính trị hoặc phí tổn
về mặt chính trị (political cost)
của các tiêu chuẩn thấp hơn so
với các công cụ quản lý dựa
vào nền kinh tế thị trường;




Đòi hỏi ít thông tin để ban hành
luật lệ;



Dựa vào đó để đạt được mục
tiêu chính sách;

Nhược điểm


Rất khó xác định giá trị “tối ưu” của các
tiêu chuẩn, đặc biệt là đối với các loại
hàng hóa không trao đổi được trên thị
trường (non-marketable) như nước hoặc
không khí;



Với cách tiếp cận của công cụ mệnh
lệnh – kiểm soát, các doanh nghiệp
không có động lực để giảm ô nhiễm
xuống dưới mức tiêu chuẩn;



Các hình thức xử phạt còn thấp và các

biện pháp cưỡng chế còn yếu;



Để có hiệu quả, các tiêu chuẩn phải
thường xuyên được điều chỉnh, nhưng
trong thực tế, pháp chế thường không
bắt kịp thay đổi;



Chi phí xây dựng các tiêu chuẩn cao;



Có thể xảy ra phí tổn chính trị nếu các
tiêu chuẩn quá nghiêm ngặt và các
doanh nghiệp chịu nhiều bất lợi;



Được hỗ trợ về hành chính và
chính trị;



Trao tối đa quyền cho người
quy định để kiểm soát các
nguồn TNTN;




Không kiểm soát hết được do hạn chế
về kỹ thuật và nguồn lực;



Chi phí hành chính cao;

Việc ban hành luật lệ, quy định
khá nhanh chóng do có sẵn bộ
máy hành chính.



Đòi hỏi người điều tiết sử dụng tài
nguyên thu thập thông tin mà người gây
ô nhiễm đã có;



Có thể phát sinh tình trạng tiêu cực như
tham nhũng, quan lieu…



[Nguồn: UNESCAP, 2003]

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường


Trang 5


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát được sử dụng khá phổ biến trong giai đoạn xây
dựng chính sách bảo vệ môi trường tại Hoa Kỳ những thập niên 70. Chiến lược bảo
tồn và khôi phục tài nguyên (RCRA) là một trong những ví dụ điển hành của việc thi
hành công cụ này. Tuy cách tiếp cận này giúp giảm đáng kể các nguồn điểm (point
sources) gây ô nhiễm nhưng các nguồn không phải nguồn điểm (non-point sources) lại
trở nên khó kiểm soát. Tương tự đối với kiểm soát chất thải rắn, công cụ này chỉ thành
công trong việc kiểm soát chất thải nguy hại chứ không thể áp dụng đối với chất thải
rắn khác [4].
* Một số công cụ mệnh lệnh – kiểm soát trong QLMT
Chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường:
Chính sách bảo vệ môi trường: Chính sách bảo vệ môi trường phải được thực
hiện đồng thời với chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng quan trọng của
chính sách môi trường là tạo điều kiện gắn kết các mục tiêu phát triển bền vững vào
hoạt động phát triển của từng ngành, từng vùng; tạo liên kết giữa các ngành và các cấp
trong thực hiện các mục tiêu phát triển và bảo vệ môi trường. Chính sách môi trường
giải quyết các vấn đề chung nhất về quan điểm quản lý môi trường, các vấn đề môi
trường chung nhất cần phải giải quyết trong một thời gian dài 10 đến 15 năm và các
định hướng lớn để đạt mục tiêu.
Chiến lược bảo vệ môi trường: Chiến lược bảo vệ môi trường cụ thể hoá chính
sách ở một mức độ nhất định. Chiến lược xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa các
mục tiêu và xác định các nguồn lực sử dụng để thực hiện chúng. Từ đó, lựa chọn các
mục tiêu khả thi, xác định các phương pháp để thực hiện mục tiêu.
Luật pháp quy định và tiêu chuẩn về môi trường:
Hệ thống luật bảo vệ môi trường: Hệ thống luật bảo vệ môi trường của một
quốc gia bao gồm luật chung (như Luật bảo vệ môi trường) và các luật cụ thể về sử
dụng hợp lý các thành phần môi trường hay luật về bảo vệ môi trường cụ thể tại một

địa phương (như: luật biển, luật rừng, luật tài nguyên khoáng sản…). Luật môi trường
được xây dựng dựa trên những quy định và tiêu chuẩn về môi trường. Quy trình này
được cụ thể hoá như sau:
Quy định về môi trường: là những điều được xác định có tính chủ quan và dựa
trên cơ sở lý thuyết hiện có. Các quy định này sau đó sẽ được điều chỉnh từng bước
dựa vào các ảnh hưởng của chúng đối với các chủ thể trong thực tế.
Tiêu chuẩn: là những quy luật, nguyên tắc hoặc các số đo được thiết lập bởi các
nhà chuyên môn hoặc được sự ủng hộ của các cơ quan chức năng. Việc xây dựng các
tiêu chuẩn môi trường một mặt dựa trên các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế,

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 6


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
một mặt dựa vào các căn cứ khoa học sao cho các quy định này phù hợp với mục tiêu
bảo vệ sinh thái đồng thời khả thi về mặt kinh tế.
1.3. Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm tác động tới môi trường,
tăng cường ý thức trách nhiệm đồng thời tác động đến hành vi cá nhân theo chiều
hướng có lợi cho môi trường [5]. Công cụ kinh tế được coi là một công cụ bổ sung cho
công cụ pháp lý và hiện nay được sử dụng rộng rãi. Trên thực tế công cụ kinh tế quản
lý môi trường chỉ thực sự có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Từ những ứng dụng
trong thực tiễn cho thấy vai trò của công cụ kinh tế trong việc quản lý môi trường và
tài nguyên, có những ưu điểm hơn các công cụ điều hành và kiểm soát [6], [7] , [8] :
- Tăng hiệu quả chi phí: từ thực tiễn của việc áp dụng các công cụ kinh tế cho
quản lý môi trường, người ta đã rút ra kết luận rằng nếu cùng một mục tiêu môi trường
cần đạt được như nhau khi sử dụng công cụ kinh tế so với công cụ điều hành và kiểm
soát thì công cụ kinh tế chi phí thấp hơn. Sử dụng công cụ kinh tế là liên quan tới giá

cả, vì vậy việc sử dụng giá cả và cung cấp tính linh hoạt trong việc ứng phó với những
tín hiệu giá cả, cho phép các cá nhân doanh nghiệp tìm kiếm đến chi phí có tính hiệu
quả hơn trong khả năng lựa chọn của họ.
- Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới: công cụ kinh tế không ra lệnh cho
chiến lược kiểm soát mà những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên
nó tác động đến hoạt động kinh tế một cách tích cực để phát triển và lựa chọn chi phí
kiểm soát hiệu quả mà không theo quy ước nào [14].
- Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn: như đã nêu trên, công cụ kinh
tế cơ bản dựa vào thị trường, bản thân chúng sẽ phát hiện ra chiến lược hiệu quả chi
phí, cho phép gặp gỡ các mục tiêu môi trường cần đạt thông qua việc chi phí hiệu quả
nhất. Công cụ kinh tế hướng tới sức mạnh thị trường để xác định việc lựa chọn công
nghệ có chi phí thấp nhất, với tính chất vượt trội này cho thấy khi chúng ta sử dụng
công cụ điều hành và kiểm soát khó có thể thực hiện được.
- Tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường: do chi phí
thấp khi sử dụng chúng, mặt khác chúng tác động đến quyền lợi kinh tế của các cac
snhaan hay doanh nghiệp, do vậy người ta phải tính đến việc sử dụng nguồn tài
nguyên như thế nào là tiết kiệm và hiệu quả nhất mà không ảnh hưởng tới doanh thu
và lợi nhuận.
- Hành động nhanh chóng và mềm dẻo hơn: Công cụ kinh tế cho phép thực hiện
một cách nhanh chóng, và linh hoạt và mềm dẻo so với việc sử dụng công cụ điều
hành và kiểm soát, bởi lẽ nó có thể được điều chỉnh kịp thời thông qua cơ chế gía cả
thi trường, sử dụng tín hiệu thị trường thường cho phép nhận được những thông tin
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 7


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
phản hồi nhanh hơn và nắm bắt được tính hiệu quả của việc thực hiện quản lý sử dụng
công cụ này.

Như vậy, có thể thấy công cụ kinh tế giúp giải quyết những hạn chế của cách
quản lý môi trường truyền thống kiểu mệnh lệnh - kiểm soát.
Tại Việt Nam, quan điểm về áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
đã được đề cập trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị
quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 và gần đây nhất là nghị quyết
số 27/BCSĐBTNMT ngày 2/12/2009 của Ban cán sự Đảng Bộ TN&MT về việc tăng
cường chủ trương kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường.
Bảng 2. Phân tích ưu nhược điểm của công cụ kinh tế
Ưu điểm


Ít rủi ro về tài chính;



Thúc đẩy doanh nghiệp giảm
thải;



Khuyến khích doanh nghiệp
nghiên cứu triển khai công nghệ
mới;



Kiểm chế việc sử dụng tài
nguyên quá mức, khuyến khích
sử dụng hợp lý các nguồn tài

nguyên;



Đánh thuế trên chất thải hiện
hành do đó giảm được phát sinh
các chất thải phụ;



Mang lại nguồn thu đáng kế hỗ
trợ cho việc cải thiện chất
lượng môi trường và các
chương trình xã hội;



Thay đổi thói quen và nâng cao
nhận thức của doanh nghiệp
cũng như người tiêu dùng về
bảo vệ môi trường.

Nhược điểm


Khó áp dụng trong một quốc gia: do
chênh lệch trình độ sản xuất, điều kiện
KT – XH…Hàng hóa sẽ dễ rơi vào thế
bất lợi khi cạnh tranh với hàng ngoại
hoặc hàng hóa giữa các địa phương;




Khó thống nhất mức thuế trên phạm vi
toàn cầu;



Tính công bằng (của thuế, phí) phụ
thuộc vào hệ số co dãn của cung cầu;



Đòi hỏi đội ngũ nhân viên trong các
doanh nghiệp phải có trình độ để thúc
đẩy phát triển sản xuất sạch hơn, nghiên
cứu và ứng dụng các công nghệ mới
thân thiện với môi trường;



Đòi hỏi đội ngũ quản lý phải có trình độ
để triển khai công tác đánh giá, thẩm
định;



Khó đạt được thỏa thuận giữa các bên
trong một số trường hợp;




Trên thực tế, chính sách trợ cấp của
chính phủ thường không mang lại hiệu
quả như mong muốn nhất là khi lợi ích

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 8


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
cá nhân mâu thuẫn với lợi ích xã hội.
[Nguồn: Tổng hợp từ các tài liệu tham khảo]
* Các nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các công cụ kinh tế trong QLMT
Công cụ kinh tế nhìn chung dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa
nhận đó là: Người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polluter Pays Principle –PPP) và Người
được hưởng lợi ích phải trả tiền (Beneficiary Pays Principle – BPP). 1.3.Một số công
cụ kinh tế được áp dụng trong QLMT.
“Người gây ô nhiễm phải trả tiền” là một trong những đặc thù của pháp luật
môi trường. Đây là nguyên tắc thể hiện rõ nét nhất biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi
trường, dùng lợi ích kinh tế tác động vào chính hành vi của các chủ thể theo hướng có
lợi cho môi trường. Pháp luật môi trường của nhiều nước sử dụng nguyên tắc này như
một trong những cách thức chính nhằm cụ thể hóa sự “trả giá” của những chủ thể gây
ra ô nhiễm môi trường. Trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng Luật Thuế môi
trường, nguyên tắc này cũng cần được xem xét trong việc cụ thể hóa các quy định
mang tính chất cụ thể.
Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” lần đầu tiên được ghi nhận trong
văn kiện của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Nguyên tắc xuất phát từ quan điểm
cho rằng môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt (vì nó mang tính cộng đồng, ai cũng

đều sử dụng). Khi khai thác, sử dụng môi trường thì phải trả tiền (tiền bỏ ra để mua
quyền khai thác, sử dụng, quyền tác động đến môi trường). Nhà nước đứng ra để bán
quyền tác động đó. Người được hưởng lợi từ việc trả giá này là toàn thể cộng đồng và
nhà nước là người đại diện đứng ra thu tiền và sử dụng tiền để tiếp tục đảm bảo việc
bảo vệ môi trường.
Nguyên tắc này trước hết nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng trong việc khai
thác, sử dụng và bảo vệ môi trường vì môi trường là của chung, nếu như môi trường
xấu đi thì tất cả các thành viên trong phạm vi ảnh hưởng đều phải gánh chịu trong khi
sự đóng góp vào việc làm xấu đi của môi trường là không giống nhau. Nguyên tắc này
còn tác động vào lợi ích kinh tế của chủ thể thông qua đó tác động đến hành vi xử sự
của các chủ thể với môi trường theo hướng có lợi cho môi trường.
Nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền” (BPP- Benefit Pays Pricnciple)
tương tự như nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền (UPP- User Pays Principle) được
hiểu là những người sử dụng hay được hưởng lợi từ việc sử dụng hàng hóa dịch vụ
đều phải chịu chi phí chi việc cung cấp chúng [9]. Cụ thể là, tất cả những ai hưởng lợi
do có được môi trường trong lành, không bị ô nhiễm đều phải nộp phí. Ví dụ, người
chủ sở hữu khu đất bảo tồn những vùng đất ngập nước tự nhiên nhằm mục đích môi
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 9


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
trường thì chi phí được chia sẻ cho tất cả những ai được hưởng lợi từ hệ sinh thái đất
ngập nước đó.
Nguyên tắc này chủ trương việc phòng ngừa và cải thiện môi trường cần được
hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho
các chất thải gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện nguyên tắc BPP nhằm hướng tới mục
tiêu bảo vệ môi trường hay phục hồi môi trường thông qua các khoản thu từ cộng
đồng. Trên thực tế, việc kết hợp các nguyên tắc này gặp phải khó khăn. Khó khăn chủ

yếu đó là việc xác định đối tượng chính hưởng lợi. Ví dụ: Việc duy trì đa dạng sinh
hoặc và giảm thiểu biến đổi khí hậu sẽ mang lại lợi ích cho mọi người dân Úc và tất cả
mọi người trên thế giới, tuy nhiên nhiều biện pháp bảo tồn như thiết kế mô hình giảm
thiểu những tác động của độ mặn thì chủ yếu mang lại lợi ích cho một khu vực cụ thể
hoặc một bang. Do đó, việc áp dụng nguyên tắc BPP không đảm bảo được tính công
bằng trong thực tế, bởi lẽ nó không đòi hỏi tất cả mọi người phải trả đầy đủ chi phí cho
các hàng hóa và dịch vụ mà họ sử dụng.
* Một số công cụ kinh tế trong QLMT
Hiện nay, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới áp dụng các công cụ kinh
tế trong quản lý môi trường khá đa dạng, nhìn chung, có thể chia thành 4 nhóm chính:
Thuế và phí môi trường là công cụ kinh tế được sử dụng để tạo nguồn thu trực
tiếp cho NSNN. Công cụ này nhằm 2 mục tiêu chủ yếu là khuyến khích người gây ô
nhiễm giảm lượng chất thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho NSNN thông qua
việc đưa chi phí môi trường vào trong giá thành sản phẩm theo nguyên tắc “người gây
ô nhiễm phải trả tiền”.
Thuế môi trường
Thuế môi trường (Environmental Tax) là một công cụ kinh tế để giải quyết các
vấn đề môi trường. Đây là khoản thu cho NSNN từ những đối tượng gây ô nhiễm, làm
thiệt hại cho môi trường. Nó góp phần hạn chế, giảm thiểu các tác nhân gây ô nhiễm,
suy thoái môi trường, khuyến khích các hoạt động BVMT. Thuế môi trường được
thiết kế để nội hóa chi phí môi trường và tạo ra động lực kinh tế cho cá nhân, tổ chức
thúc đẩy các hoạt động sinh thái bền vững [10].
Thuế môi trường thông thường đánh chủ yếu vào các chất gây ô nhiễm môi
trường hay các sản phẩm hàng hóa mà việc sản xuất, sử dụng chúng có tác động tiêu
cực đến môi trường, gây ô nhiễm môi trường như: thuế đánh vào nguồn gây ô nhiễm
(thuế Sunfua, thuế CFCs, thuế CO2…) và thuế đánh vào các sản phẩm gây ô nhiễm
môi trường (thuế xăng, dầu, than, thuốc bảo vệ thực vật…).
Phí môi trường
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường


Trang 10


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
Phí môi trường là khoản thu của NSNN dành cho hoạt động bảo vệ môi trường
như để thu gom và xử lý phế thải, nước thải, khắc phục ô nhiễm môi trường...[11].
Mục đích chính của việc thu phí môi trường là hạn chế các tác nhân gây ô nhiễm môi
trường, ngăn ngừa việc xả các chất thải ra môi trường, mà các chất thải này có khả
năng xử lý được. Phí môi trường buộc những người gây ô nhiễm môi trường phải xử
lý các chất thải trước khi thải ra môi trường hay hạn chế sử dụng các nguồn nguyên
liệu có nguy cơ gây ra ô nhiễm, vì vậy công cụ này khuyến khích các cơ sở sản xuất
kinh doanh, những người gây ô nhiễm phải xử lý các chất ô nhiễm trong nguồn thải
trước khi thải ra môi trường. Phí môi trường được tính toán dựa trên lượng phát thải
của chất ô nhiễm và chi phí xử lý ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm...
Một số loại thuế/phí ô nhiễm môi trường phổ biến bao gồm: phí nước thải, phí
gây ô nhiễm không khí, thuế cacbon, thuế sulphur, phí gây suy thoái tầng ôzôn, thuế
chôn lấp rác, thuế xăng dầu, thuế sử dụng khí gas, thuế môi trường, gần đây là việc áp
dụng mới các loại thuế liên quan đến chất thải rắn (CTR), và tăng thuế suất đối với
thuế CTR. Đối với thuế đánh vào nguồn gây ô nhiễm: có 2 loại thuế chủ yếu được áp
dụng ở các nước trên thế giới đó là thuế sulphur và thuế CO2.
* Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây ra
ô nhiễm môi trường. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh
nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân hàng một khoản tiền nào đó đủ lớn để
đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ môi trường. Số
tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu
doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu cơ sở có các biện pháp chủ
động khắc phục, không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái ra môi trường đúng như cam
kết, thì số tiền ký quỹ sẽ được hoàn trả lại cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không

thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản, số tiền trên sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng
chi cho công tác khắc phục sự cố ô nhiễm đồng thời với việc đóng cửa doanh nghiệp.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích, đối với nhà nước không phải đầu tư kinh phí
khắc phục môi trường từ ngân sách, khuyến khích xí nghiệp hoạt động bảo vệ môi
trường. Xí nghiệp sẽ có lợi ích do lấy lại vốn khi không xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái
môi trường.
* Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (Quota ô nhiễm)
Hạn ngạch (quota) khai thác tài nguyên có thể mua bán: Mục đích của quota là
kiểm soát sản lượng khai thác và nỗ lực khai thác, đặc tính của quota có thể mua bán
được là có thể phân chia, mua bán được và thị trường hoạt động hoàn hảo. Cơ quan
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 11


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
quản lý môi trường xác định mức sản lượng thu hoạch tối ưu đối với tài nguyên sau đó
hình thành tổng số hạn nghạch thích ứng với sản lượng thu hoạch bền vững. Phân bổ
quota được bằng cách bán đấu giá. Thường được áp dụng đối với tài nguyên thủy hải
sản.
Giấy phép phát/ xả thải có thể mua, bán giữa các cơ sở gây ô nhiễm: Mục đích
của giấy phép là nhằm kiểm soát lượng ô nhiễm phù hợp với sức chịu tải của môi
trường. Cơ quan quản lý môi trường xác định mức độ tối ưu phát thải tổng số ô nhiễm
hoặc hạn nghạch thích ứng với khả năng tiêu hiểu chất thải của môi trường. Phân phối
hạn nghạch bằng cách đấu thầu, phát không hoặc vừa phát không vừa đấu thầu.
* Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái (ecolabel) là khái niệm được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về những khái niệm liên quan đến tính thân thiện với môi
trường sinh thái của hàng hóa và dịch vụ, khái niệm nhãn sinh thái có những cách hiểu
tương đối phổ biến như sau:

Theo Mạng lưới nhãn sinh thái toàn cầu (GEN) thì khái niệm nhãn sinh thái
được hiểu như sau: “Nhãn sinh thái là nhãn chỉ ra tính ưu việt về mặt môi trường của
một sản phẩm, dịch vụ so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên đánh giá vòng
đời sản phẩm”.
Theo quan điểm của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Ngân hàng Thế
giới (WB), nhãn sinh thái được hiểu là “một công cụ chính sách do các tổ chức phát
hành ra để truyền thông và quảng bá tính ưu việt tương đối về tác động tới môi trường
của một sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại”.
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) lại đưa ra khái niệm: “Nhãn sinh thái là sự
khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ có thể dưới
dạng một bản công bố, biểu tượng hoặc biểu đồ trên sản phẩm hoặc nhãn bao gói,
trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo hoặc các hình thức khác”.
Dù được hiểu theo cách nào, nhãn sinh thái đều cho thấy mức độ giảm thiểu tác
động xấu của sản phẩm đến môi trường trong tất cả các giai đoạn hoặc trong một giai
đoạn vòng đời sản phẩm, từ lúc khai thác nguyên, nhiên liệu để làm đầu vào cho quá
trình sản xuất đến quá trình sản xuất, đóng gói, sử dụng và loại bỏ sản phẩm đó. Nhãn
sinh thái chỉ được cấp cho những sản phẩm ít tác động xấu đến môi trường nhất so với
các sản phẩm khác có cùng chức năng. Về bản chất, nhãn sinh thái là một thông điệp
truyền tải tính ưu việt đối với môi trường của sản phẩm.

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 12


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường

Hình 1.Một số công cụ kinh tế
* Kinh nghiệm quốc tế về sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Các công cụ kinh tế đã phát huy vai trò quan trọng trong việc thực hiện quá

trình kinh tế hóa lĩnh vực môi trường và đang trở thành nhóm chính sách được áp dụng
ngày càng rộng rãi trong những thập kỷ vừa qua trong bảo vệ môi trường. Ngay từ
đầu những năm 1970, các quốc gia trên thế giới đã bắt đầu sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường. Đến nay, các loại công cụ này đã được sử dụng rộng rãi ở
các cấp độ khác nhau từ quốc gia đến địa phương nhằm kiểm soát ô nhiễm và sử
dụng bền vững các nguồn tài nguyên [15].
Thuế/ phí môi trường ở các quốc gia trên thế giới được sử dụng nhằm tái đầu tư
cho công tác bảo vệ môi trường, và góp phần hỗ trợ cho an sinh xã hội. Tại Phần Lan,
thuế môi trường bắt đầu được áp dụng từ năm 1997, bao gồm thuế sinh thái, thuế
năng lượng nhằm hỗ trợ cho những người có thu nhập thấp. Tại Đức, thuế môi trường
được áp dụng đối với nhiên liệu và đã làm giảm mức tiêu thụ nhiên liệu xuống 0,8%
tương đương với việc tiết kiệm được khoảng 9 tỷ DM (số liệu năm 1999), đóng góp
vào Quĩ trợ cấp Quốc gia. Tại Hà Lan, một phần lớn nguồn thu từ các loại thuế năng
lượng đã góp phần giảm các khoản đóng góp an sinh xã hội (số liệu năm 1999). Tại
Thụy Sĩ, nguồn thu từ thuế sinh thái đối với các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) và
nhiên liệu sưởi ấm (trừ năng lượng mặt trời) sẽ được sử dụng để phân phối lại cho các
hộ gia đình dưới hình thức là các khoản hỗ trợ bảo hiểm y tế (1999). Tại Anh, nguồn
thu 450.000.000 £/ năm từ thuế bãi rác (số liệu năm 1996) được sử dụng để giải quyết
các vấn đề an sinh xã hội [12].
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 13


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
Năm 1980, Chính phủ Indonesia đã bắt đầu đánh thuế phí tái trồng rừng
(reforestation fee) với mức thuế là 4 USD/1m3 đối với các hoạt động đốn gỗ. Đến năm
1989, mức phí này tăng lên 7 USD/ 1m 3 và 22 USD/1 m3 vào năm 1997. Với tiền phí
thu được, quỹ sử dụng để tái trồng rừng và thúc đẩy các hoạt động bảo vệ rừng. Từ
năm 1970, các dự án trồng rừng, bảo tồn các hệ sinh thái và đa dạng sinh học đã nhận

được kinh phí triển khai nhờ hình thức chi trả dịch vụ sinh thái (PES). PES góp phần
nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của dịch vụ hệ sinh thái đó, cải thiện sinh
kế bền vững cho những người cung cấp dịch vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
toàn xã hội. Ngoài ra, cơ chế PES còn góp phần hình thành thị trường giá cả cho các
dịch vụ sinh thái thông qua việc lượng giá các giá trị của hệ sinh thái, quan hệ mua bán
trao đổi giữa người hưởng lợi từ hệ sinh thái đó (người mua) và người cung cấp dịch
vụ hệ sinh thái (người bán), từ đó hình thành thị trường chi trả dịch vụ sinh thái và tạo
ra nguồn tài chính bền vững để duy trì và bảo tồn các chức năng dịch vụ của hệ sinh
thái [13].
Tại Mexico, người dân bản địa đa phần sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên
thiên nhiên, 80% diện tích đất rừng thuộc sở hữu của cộng đồng địa phương. Vì vậy,
việc quản lý tài nguyên ở Mexico áp dụng phương thức dựa trên cộng đồng bao gồm
bảo vệ đa dạng sinh học, lưu trữ cacbon, du lịch sinh thái, môi trường và sản xuất thân
thiện. Trong các bang miền nam của Chiapas, ví dụ, hơn 300 nông dân tham gia dự án
Scolelte với hình thức thanh toán trực tiếp cho người dân khi họ bảo vệ rừng giúp tăng
thu nhập cho họ. Người dân cũng được nhận nhiều ưu đãi đối với các hoạt động liên
quan đến khả năng thâm nhập thị trường gỗ và tích hợp hấp thụ cacbon vào sản xuất cà
phê hữu cơ hoặc các sáng kiến sinh thái nông nghiệp khác.
Trong những năm gần đây, việc sử dụng giấy phép phát thải có thể chuyển
nhượng như là công cụ chính sách môi trường dựa trên thị trường đã được các nhà
hoạch định chính sách ngày càng quan tâm. Chính sách này cũng đã nổi lên như một
công cụ kiểm soát ô nhiễm hiệu quả từ những năm 1970. Giấy phép phát thải có thể
chuyển nhượng đã trở thành một phương pháp tiếp cận môi trường ngày càng được
chấp nhận ở nhiều nước. Việc hình thành hạn ngạch phát thải hoặc tổng giấy phép
pháp thải phù hợp với khả năng của môi trường là cách thức hiệu quả để kiểm soát ô
nhiễm và đảm bảo được mục tiêu kinh tế. Công cụ này áp dụng phổ biến với nước thải
và khí thải tại các nước phát triển như Mỹ, Thụy điển, Ba Lan v.v...
Vào cuối thập kỷ 90, thị trường hàng hoá mở rộng, tuy nhiên ở các nước
phương tây nhu cầu bồi thường, bảo hiểm về môi trường đối với các sản phẩm ngày
càng gia tăng do nhận thức của người tiêu dùng được nâng cao. Cộng đồng quan tâm

hơn tới việc chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi trường thông qua chi trả cho các hàng hóa
ít nguy hại đến môi trường. Nhu cầu người tiêu dùng đối với các sản phẩm “xanh” dẫn
đến nhiều dịch vụ quảng cáo “xanh” và các chứng nhận sản phẩm. Có rất nhiều hình
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 14


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
thức khác nhau của các chứng nhận từ nội dung không rõ ràng như “thân thiện môi
trường” hoặc “tự nhiên” đến cụ thể, rõ ràng hơn như “tái chế” hoặc “không chứa
photphat”. Ban đầu ở hầu hết các quốc gia đều không có sự kiểm soát đối với các nhà
sản xuất hoặc nhà kinh doanh đối với các chứng nhận của họ. Sự gia tăng nhanh chóng
của các chứng nhận môi trường không có nguồn gốc rõ ràng đã khiến cho người tiêu
dùng bối rối và hoài nghi. Để cải thiện tình trạng này, các Chính phủ ở một số nước
phát triển đã đưa ra hướng dẫn nhằm quy định các chứng chỉ môi trường của nhà sản
xuất hoặc kinh doanh và đưa ra những định nghĩa cụ thể đối với những chứng nhận
này. Đức là quốc gia đầu tiên đưa ra chương trình nhãn sinh thái có tên là Chương
trình Thiên Thần Xanh (Blue Angel Programme) vào năm 1978, đây là chương trình
hành động của Chính phủ. Mười năm sau đó, Canada thành lập Chương trình Lựa
chọn Môi trường (Environmental Choice Programme). Sau đó hơn 30 chương trình đã
được thiết lập. Hầu hết các chương trình đều có dạng giống như ở Đức và Canada
(Dạng nhãn sinh thái loại 1).
Năm 1989, tại Mỹ, chương trình “Con dấu xanh” (Green Seal) do một tổ chức
phi Chính phủ thành lập, chương trình phát triển tiêu chuẩn sản phẩm bền vững dựa
trên chu trình sản phẩm, dịch vụ và các công ty và đưa ra chứng nhận của bên thứ ba
cho những sản phẩm đáp ứng các tiêu chí trong tiêu chuẩn. “Con dấu xanh” đã được
chủ động xác định và thúc đẩy tính bền vững trên thị trường, và giúp các tổ chức được
“xanh” hơn [16].
Trong bối cảnh đó, năm 1992 Nhãn sinh thái Châu Âu (European Ecolabel)

được thành lập cũng với mục tiêu khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường. Biểu tượng bông hoa đã được dán thí điểm
cho hai sản phẩm đầu tiên là giấy mỏng và chất phụ gia cho đất.

.
Hình 2. Sự phát triển về số lượng nhãn sinh thái châu Âu được cấp từ năm 1992 đến
2010 (tình đến 30/7/2010) [Nguồn: 17]
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 15


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường

HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 16


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG CỤ MỆNH LỆNH KIỂM SOÁT
TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG (QLMT) Ở VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
2.1. Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường
2.1.1. Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường cấp trung ương
Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường ở nước ta được thể hiện như hình 3.
CHÍNH PHỦ

BỘ TÀI NGUYÊN & MÔI
TRƯỜNG


TỔNG CỤC MÔI
TRƯỜNG

CƠ QUAN QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG CỦA
CÁC BỘ

SỞ TÀI NGUYÊN
& MÔI TRƯỜNG

Hình 3. Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường cấp trung ương [Nguồn: BTNMT]
Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên
khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ; quản lý tổng
hợp và thống nhất về biển và hải đảo; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Dưới Bộ là Tổng cục môi trường, các cơ quan quản lý môi trường của các bộ
khác và các sở tài nguyên & môi trường tại mỗi tỉnh/thành. Tổng cục môi trường là
đơn vị thực hiện chức năng tham mưu Bộ trưởng quản lý nhà nước về môi trường và
các dịch vụ công theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp địa phương
Cơ quan quản lý môi trường tại mỗi tỉnh/thành là các Sở tài nguyên & môi
trường. Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 17



Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
tỉnh) có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường, bao gồm: đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, địa chất, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản
đồ, quản lý tổng hợp về biển và hải đảo (đối với các tỉnh có biển, đảo); thực hiện các
dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở.
Sơ đồ hệ thống quản lý tại mỗi Sở như sau:

Hình 4. Sơ đồ hệ thống quản lý tại Sở tài nguyên & môi trường. [Nguồn: Bộ TNMT]
Như vậy, một cách tổng quan, hệ thống nhà nước về bảo vệ môi trường tại Việt
Nam bao gồm:
• Chính phủ;
• Bộ tài nguyên & môi trường;
• Tổng cục môi trường;
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 18


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
• Vụ tài nguyên & môi trường;
• UBND thành phố/tỉnh;
• Sở tài nguyên & môi trường tại mỗi tỉnh/thành;
• Phòng, ban chuyên trách môi trường tại các quận, huyện.
2.2. Hệ thống chính sách - pháp luật về bảo vệ môi trường
Cùng với các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, Nhà nước ta thời gian qua đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội gắn liền với yếu tố
môi trường. Hiện nay, hệ thống luật và quy định bảo vệ môi trường ở nước ta bao
gồm:
• Luật Bảo vệ môi trường nước CHXHCN Việt Nam (29/11/2005);

• Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020;
• Các luật liên quan: luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; luật bảo vệ và phát triển
rừng; luật tài nguyên nước; luật khoáng sản; luật dầu khí, luật đất đai…;
Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ 10/10/1994 và sửa đổi bổ sung
năm 2005 ở Việt Nam đã được tổ chức triển khai tốt, đi vào cuộc sống. Nhiều kết quả
thực hiện của Luật mang ý nghĩa chiến lược, lâu dài và rất cơ bản, nhất là khi mà hoạt
động bảo vệ môi trường đang từng bước trở thành một hoạt động kinh tế xã hội quan
trọng của nước ta. Những kết quả và sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của
mỗi con người đã tạo ra nền tảng ban đầu cho các bước phát triển tiếp theo.
Cùng với việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường đó là các Nghị định của Chính
phủ, Thông tư hướng dẫn thực hiện của các bộ, một loạt các văn bản khác về bảo vệ
môi trường cũng đã được ban hành. Hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường
thường xuyên được cập nhật, thay thế phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG (QLMT) Ở VIỆT NAM
3.1. Một số công cụ kinh tế đang được áp dụng trong QLMT ở Việt Nam
Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế thế giới. Đứng trước các vấn đề cấp
bách về môi trường, đã có một số công cụ quản lý và bảo vệ môi trường được áp
dụng, trong đó có các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
được sử dụng ở Việt Nam gồm:
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 19


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
- Thuế tài nguyên
- Thuế và phí môi trường.

- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "quota ô nhiễm".
- Ký quỹ môi trường.
- Trợ cấp môi trường.
- Nhãn sinh thái.
3.2. Thuế tài nguyên
Trước đây là loại thuế điều tiết thu nhập trong hoạt động khai thác tài nguyên.
Ngày nay, vì mục tiêu bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên phải được xác định nhằm
hướng tới sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên. Đối với các loại tài nguyên cạn
kiệt, thuế phải được xác định căn cứ vào mức độ suy giảm tài nguyên.
- Mục đích:
+ Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên.
+ Hạn chế tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng.
+ Tạo nguồn thu cho ngân sách, điều hòa quyền lợi giữa các tầng lớp dân cư về
sử dụng tài nguyên.
Các loại thuế tài nguyên: Thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế
tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác khoáng sản.
Ngày 25/11/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế tài nguyên. Trong Luật
thuế Tài nguyên, các nhóm đối tượng chịu thuế có liên quan đến ĐDSH bao gồm: các
sản phẩm của rừng tự nhiên (thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự nhiên trừ
động vật); hải sản tự nhiên (gồm các loại động vật và thực vật ở biển) và yến sào
thiên nhiên. Thống kê cho thấy, số tiền thu thuế tài nguyên theo Pháp lệnh Thuế Tài
nguyên bình quân trong giai đoạn 2005 - 2008, mỗi năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm
khoảng 15% tổng thu ngân sách nhà nước.
3.3. Thuế và phí môi trường
Hiện tại ở Việt Nam, loại thuế/phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi
trường đang được áp dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải, đối với chất
thải rắn và khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày
13/6/2003. Với việc ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ – CP về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải, Việt Nam đã bày tỏ quan điểm rõ ràng về việc sử dụng các

công cụ kinh tế như là một trong những chính sách nhằm ngăn ngừa suy thoái môi
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 20


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
trường và cải thiện chất lượng môi trường nói chung. Tính đến ngày 1/1/2004, hai đối
tượng là hộ gia đình và các ngành công nghiệp phải trả một mức phí cho việc xả nước
thải ra môi trường. Trong phạm vi ngành công nghiệp có liên quan, mức phí này
được áp dụng trực tiếp cho việc xả thải (tải lượng) các chất ô nhiễm quy định. Tuy
nhiên, sau hơn 8 năm thực hiện, phí BVMT đối với nước thải vẫn còn bộc lộ nhiều
bất cập. Các cơ quan quản lý còn lúng túng trong cách thu và tính phí. Các doanh
nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ phí, tỷ lệ thu phí chưa cao, đặc biệt chưa đạt
được mục tiêu giảm xả thải chất ô nhiễm vào nguồn nước. Kết quả là tỷ lệ thu phí
nước thải công nghiệp còn thấp.
Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại được
quy định trong nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngoài ra, phí vệ sinh
được áp dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số 71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003
của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, khoản thu từ các khoản phí này không đủ bù đắp được
chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra, các văn bản hiện tại không quy định rõ
trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ chức nên việc thu phí ở các địa phương còn
gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định số
63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí còn gặp
nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện nghĩa vụ này. Còn
tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp hơn thực tế để giảm số phí
phải nộp.
Ngoài ba loại phí thuộc nhóm thuế/phí nêu trên còn có Luật Thuế BVMT mới
được thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2012. Đây là quy định thuế đánh vào nguyên

liệu/sản phẩm, bao gồm 8 nhóm sản phẩm: xăng dầu, than, môi chất làm sạch chứa
HCFC, túi nhựa xốp (túi nilon) và nhóm hạn chế sử dụng như: thuốc bảo vệ thực vật,
thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối và thuốc khử trùng kho. Một điểm đáng lưu ý là thuế
BVMT được định nghĩa là “loại thuế giãn thu, thu vào một số sản phẩm, hàng hóa
gây tác động xấu đến môi trường”. Định nghĩa này là định nghĩa hẹp của thuế BVMT
vì mới đề cập đến loại thuế nguyên liệu/sản phẩm chứ chưa bao hàm loại thuế đánh
vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường.
* Ưu điểm của việc áp dụng thuế BVMT đối với nguyên liệu/sản phẩm là dễ
tính toán và dễ áp dụng.
* Nhược điểm: Loại thuế này chỉ khuyến khích hạn chế gây ô nhiễm mà không
khuyến khích đầu tư xử lý ô nhiễm trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy,
tác động giảm ô nhiễm của loại thuế này chỉ là tác động gián tiếp (thông qua việc sản
xuất ít đi) chứ không phải tác động trực tiếp vào quá trình phát thải ô nhiễm. Đối với
những hàng hóa thuộc loại xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng nhiều trong việc hạn
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 21


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
chế ô nhiễm (thông qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất) nhưng với hàng hóa thiết yếu thì
loại thuế này ít có tác dụng giảm ô nhiễm
3.4. Ký quỹ môi trường
Ở Việt Nam, ký quỹ môi trường chủ yếu được áp dụng trong hoạt động khai
thác khoáng sản và được quy định trong các văn bản pháp luật sau:
- Thông tư liên Bộ 126/1999/TTLT - BTC-BCN-KHCN&MT ngày 22 tháng 10
năm 2009 của Bộ Tài chính- Bộ Công nghiệp - Bộ Khoa học Công nghê và Môi
trường hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản.
- Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai khoáng.

- Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT ngày 31 tháng 12 năm 2009 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về việc phê duyệt, kiểm tra, xác nhận Dự án cải tạo,
phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai
thác khoáng sản. Thông tư này quy định chi tiết một số nội dung của Quyết định
71/2008/QĐ-Ttg ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ cải
tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản.
Ngày 25/11/2011, Tổng cục Môi trường đã tổ chức Hội thảo sơ kết 3 năm thực
hiện Quyết định 71/2008 của Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi
trường đối với các hoạt động khai thác khoáng sản tại Hà Nội. Theo báo cáo của 41
UBND các tỉnh, thành phố, các địa phương này đã thẩm định, phê duyệt trên 1.753
dự án cải tạo, phục hồi môi trường, với tổng số tiền gần 880 tỷ đồng. Bộ Tài nguyên
và Môi trường phê duyệt 54 dự án với tổng số tiền ký quỹ trên 650 tỷ đồng cho các
hoạt động khai thác khoáng sản bao gồm các loại khoáng sản than, sắt, Nikel và khai
thác đá tại các tỉnh Quảng Ninh, Bình Dương, Bình Định, Bình Thuận… Sau gần 4
năm thực hiện Quyết định 71, công tác quản lý, ký quỹ và cải tạo môi trường dần đi
vào ổn định; các tổ chức cá nhân khai thác khoáng sản đã có ý thức hơn đối với trách
nhiệm này. Ký quỹ môi trường đã đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ
trong công tác kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động khai thác khoáng sản.
Tuy nhiên, theo phản ánh của các địa phương, có tới 10 khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện Quyết định 71. Đó là việc tăng thêm thủ tục hành chính đối
với các dự án khai thác khoáng sản mới phải lập dự án cải tạo phục hồi môi trường
thành báo cáo riêng; đối tượng phải lập dự án còn bị bỏ sót; chưa có quy định về quy
hoạch phương án cải tạo, phục hồi cho cả khu vực khai thác có nhiều tổ chức cá nhân
cùng thực hiện; quy định về thời gian ký quỹ chưa phù hợp với thực tế khai thác mỏ;
cán bộ ngành môi trường trong công tác thẩm định chưa đủ năng lực, kinh nghiệm;
chưa có kinh phí cho hoạt động thẩm định; chưa hướng dẫn lập quỹ môi trường trên
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 22



Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
địa bàn; năng lực phê duyệt của cấp huyện còn yếu; nhận thức của cộng đồng về
quyền lợi của người dân tại khu vực khai thác khoáng sản còn yếu kém.
Việc áp dụng công cụ ký quỹ môi trường trên thực tế chỉ mới dừng lại các dự án
quy mô nhỏ hoặc còn ở giai đoạn thử nghiệm do công thức dự toán chi phí cải tạo,
phục hồi môi trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
3.5. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (Quota ô nhiễm)
Mức thải cho phép được xác định trên cơ sở khả năng tiếp nhận chất thải của
môi trường, được chia thành các định mức (Quota) và phân phối cho các cơ sở được
quyền phát thải trong khu vực. Các cơ sở này chỉ được quyền phát xả theo hạn ngạch,
nếu vượt quá sẽ bị xử phạt. Trong thực tế, nhu cầu xả thải của các cơ sở là khác nhau
và thay đổi theo nhịp độ sản xuất; Một số cơ sở có công nghệ xử lý chất thải sẽ không
có nhu cầu xả thải tự do. Từ đó xuất hiện các khả năng thừa hoặc thiếu quyền phát xả
theo định mức, dẫn tới hình thành thị trường mua bán quyền được xả thải, tạo ra hiệu
quả kinh tế tối ưu cho khu vực.
Mục đích:
+ Áp dụng cho các nguồn tài nguyên môi trường khó có thể quy định quyền sở
hữu.
+ Sử dụng quy luật cung cầu thị trường để quản lý ô nhiễm hiệu quả.
- Các loại giấy phép:
+ Giấy phép xả khí thải.
+ Giấy phép xả nước thải.
+ Giấy phép chứng nhận đầu tư trồng rừng: CDM.
Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng được áp dụng ở Việt Nam chủ yếu đối
với môi trường không khí theo Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8
năm 2007 của Thủ tướng chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự
án đầu tư theo cơ chế sạch.
Tại Việt Nam, dự án cơ chế phát triển sạch đầu tiên thu về ngoại tệ là hai bãi
chôn lấp rác Phước Hiệp I (Củ Chi) và Đông Thạnh (Hóc Môn) ở TP Hồ Chí Minh.

Theo tính toán, giai đoạn 2008-2012, hai bãi rác này thu được 4 triệu tấn CO2 (dạng
quy đổi tương đương), bán ra được tổng cộng 56 triệu USD. Theo Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Việt Nam có nhiều lợi thế từ việc mua bán khí thải. Dự kiến, trong 4
năm (2008-2012) sẽ thu được khoảng 250 triệu USD từ quota này. Ngoài ra, Việt
Nam còn hàng triệu héc-ta rừng nếu được quy ra quota khí thải sẽ thu được nguồn
ngoại tệ lên đến hàng tỉ USD.
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 23


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
Mô hình sản xuất sạch ở nông thôn để tiến tới bán quota giảm khí thải đang
được thực hiện tốt đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong việc sử dụng
chất thải nông nghiệp để sản xuất khí biogas và tiến tới bán quota giảm khí thải.
Hiện nay việc mua bán trao đổi Quota ô nhiễm ở Việt Nam còn nhiều hạn chế
về thủ tục hành chính, khó tiếp cận các ưu đãi và đồng thời thiếu tiêu chí phát thải
nền…Thị trường quota ở Việt Nam là hình thức kinh doanh khá mới mẻ nên giá
thành còn rất rẻ và nhiều rủi ro cao.
* Ưu điểm:
- Tiết kiệm được chi phí tuân thủ
- Bao hàm các tác dụng tăng cường kinh tế
- Làm giảm ô nhiễm trên bình diện quốc tế
- Sử dụng quy luật cung cầu thị trường để quản lý ô nhiễm hiệu quả, dựa vào lợi
nhuận kinh tế để thúc đẩy bảo vệ môi trường.
* Các khó khăn chính cho việc thực hiện quota ô nhiễm là:
- Để xác định chính xác giá trị quota ô nhiễm và cấp quota cho một khu vực,
một lưu vực hay một vùng cần phải có các nghiên cứu về khả năng tự làm sạch của
môi trường. Điều này thông thường đòi hỏi nhiều kinh phí và kinh nghiệm chuyên
môn cao.

- Hoạt động phát triển kinh tế và chất lượng môi trường khu vực liên tục thay
đổi theo thời gian, do vậy các giá trị của quota ô nhiễm cũng rất dễ thay đổi trước các
sức ép nói trên. Hiện tại chúng ta xác định các mức quota ô nhiễm là không nguy
hiểm đối với môi trường, nhưng trong tương lai điều đó không thể chấp nhận được.
Vì vậy, cần nhiều công sức để điều chỉnh quota dẫn đến chỗ các giải pháp mua hoặc
bán quota rất khó thực hiện hoặc hiệu quả thực tế nhỏ.
- Hoạt động mua và bán quota chỉ có thể diễn ra một cách bình thường trong nền
kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường, với một hệ thống pháp lý hoàn thiện về
quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng quản lý môi trường tốt. Trong trường hợp khác
đi, việc trao đổi mua bán chỉ còn là hình thức hoặc kém hiệu lực, do có các gian lận
trong việc xác định quota và kiểm soát ô nhiễm
3.6. Quỹ Môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài trợ từ
các nguồn khác nhau và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực hiện
các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường. Nguồn thu cho quỹ
môi trường có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như:
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 24


Tiểu luận môn Kinh tế môi trường
- Phí và lệ phí môi trường.
- Đóng góp tự nguyện của các cá nhân và doanh nghiệp
- Tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức trong nước, chinh quyền, địa
phương hoặc chính phủ.
- Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế.
- Tiền lãi và các hoạt động lợi khác thu được từ hoạt động của quỹ.
- Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường.
- Tiền thu được từ các hoạt động như văn hóa, thể thao, từ thiện, xổ số…

Ở Việt Nam, quỹ môi trường đã được hình thành nhằm hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp đầu tư BVMT như: Quỹ Môi trường cấp quốc gia (Quỹ BVMT Việt
Nam, Quỹ Bảo tồn Việt Nam), Quỹ BVMT các tỉnh- Thành phố, Quỹ Môi trường
ngành.
Ngày 26/6/2002, thủ tướng Chính phủ đã thành lập Quỹ Bảo vệ môi trường Việt
Nam với vốn điều lệ là 200 tỷ đồng. Quỹ chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2003
với mục đích và nhiệm vụ chính là hỗ trợ cho các hoạt động môi trường. Năm 2008,
Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 35/2008/QĐ-TT 3/3/2008 về việc tổ chức và
hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, theo đó đã bổ sung tăng thêm 300
tỷ đồng cho nguồn vốn điều lệ. Trong năm 2011, Quỹ đã thực hiện hỗ trợ với tổng số
tiền trên 2,5 tỷ đồng đối với Dự án cải thiện ô nhiễm môi trường Khu Di tích lịch sử
văn hóa đền Trần Thương – Hà Nam; tài trợ cho một số Hội thảo, lễ mít tinh đối với
Tổng cục Môi trường và Dự án Thu gom và Xử lý dầu trôi dạt vào vùng bờ biển khu
vực đảo Cồn Cỏ và một số xã ven biển huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị)…
Quỹ môi trường ở Việt Nam được ưu tiên đầu tư cho việc xử lý chất thải nguy
hại, chất thải ô nhiễm và các hoạt động truyền thông nhằm bảo vệ môi trường. Có rất
nhiều dự án được đánh giá cho vay với lãi suất ưu đãi. Các đối tượng cho vay tập
trung ở các lĩnh vực: xã hội hóa công tác BVMT, nhà máy xử lý chất thải rắn, xây
dựng các trạm xử lý nước thải…
Quỹ môi trường ở Việt Nam cung cấp thông thường dưới hình thức hỗ trọ tài
chính với các điều khoản ưu đãi, chẳng hạn như:
- Các khoản trợ cấp không hoàn lại.
- Các khoản vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị
trường để khuyến khích các dự án đầu tư BVMT.
- Hỗ trợ các dự án nghiên cứu triển khai, đào tạo và truyền thông môi trường.
- Các dự án kiểm soát và xử lý ô nhiễm của các doanh nghiệp.
HV: Kiều Thị Kính – K23 – Công nghệ môi trường

Trang 25



×