hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời gian này đã có rất nhiều bƣớc phát triển trong lĩnh vực du
lịch, du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch
sinh thái không còn chỉ tồn tại nhƣ một khái niệm hay một đề tài để suy
ngẫm. Ngƣợc lại, nó đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một vài nơi nó
xuất hiện không thƣờng xuyên và khá yếu ớt, ít đƣợc báo chí chú ý tới. Song
ở nhiều nơi khác thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất đƣợc chính phủ
quan tâm, thƣờng xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng cáo thƣơng
mại công cộng.
Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn
và phát triển bền vững. Ở Cốsta Rica và Vênêxuêla, một số chủ trang trại
chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ
rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt,
giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới
cho dân địa phƣơng. Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại
đảo Galápagó để giúp duy trì toàn bộ mạng lƣới vƣờn quốc gia. Tại Nam Phi,
du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của
ngƣời da đen ở nông thôn, những ngƣời da đen này ngày càng tham gia nhiều
vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến
khích du lịch sinh thái và gần đây đã thiết lập một số vùng Thiên nhiên-và-Du
lịch của quốc gia để tăng cƣờng công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du
lịch quốc gia. Tại Úc và Niuzeland, phần lớn các hoạt động du lịch đều có thể
xếp vào hạng du lịch sinh thái. Ðây là ngành công nghiệp đƣợc xếp hạng cao
trong nền kinh tế của cả hai nƣớc.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt
Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế và giao lƣu quốc tế cho sự phát
triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực.
1
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và
trong tƣơng lai gần hoạt động du lịch đƣợc coi nhƣ là con đƣờng hiệu quả nhất
để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nƣớc.
Việt Nam là đất nƣớc có nhiều tiềm năng về nguồn lực du lịch cả về tự
nhiên lẫn nhân văn. Khách nƣớc ngoài đến Việt Nam đều đánh giá cao vẻ đẹp
đất nƣớc ta. Hàng loạt các địa danh có thể sử dụng phục vụ khách du lịch, bên
cạnh đó nhiều điểm vẫn còn chƣa đƣợc khai thác. Thật khó mà liệt kê hết tất
cả những điểm có sức thu hút khách.
Cùng với sự phát triển của du lịch nói chung, trong những năm gần đây
du lịch sinh thái Việt Nam cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh những tiềm
năng và triển vọng, sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng đang
đứng trƣớc những thách thức to lớn.
Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Thực trạng phát triển du lịch sinh
thái ở Việt Nam”, với mong muốn đƣợc tìm hiểu thêm nhiều kiến thức cả về
kinh tế, chính trị, xã hội và môi trƣờng sinh thái. Do điều kiện có hạn, em xin
đƣợc giới hạn nội dung đề tài của mình trong hai lĩnh vực:
1. Tiềm năng, thực trạng về du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn
quốc gia.
2. Tiềm năng, thực trạng của du lịch biển.
Đồng thời cũng nêu ra những giải pháp và chiến lƣợc phát triển du lịch
sinh thái ở Việt Nam.
Em xin cảm ơn TS. Phạm thị Nhuận, cùng các thầy, cô trong khoa
QTKD Du lịch và Khách sạn Trƣờng đại học KTQD Hà nội đã giúp em
hoàn thành bài viết này. Em cũng xin chân thành cảm ơn thƣ viện trƣờng
Đại học KTQD - nơi đã cung cấp những tài liệu để em hoàn thành đề án này.
2
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát du lịch sinh thái.
Vấn đề vẫn còn tồn tại mỗi khi thảo luận về du lịch sinh thái là việc
khái niệm về du lịch sinh thái vẫn chƣa đƣợc tìm hiểu kỹ, do đó thƣờng bị
nhầm lẫn với các loại hình phát triển du lịch khác. Một số tổ chức đã rất cố
gắng làm rõ sự nhầm lẫn này bằng cách sử dụng khái niệm du lịch sinh thái
nhƣ một công cụ thực hiện bảo tồn và phát triển bền vững. Ðịnh nghĩa của
Hiệp hội Du lịch Sinh thái đã đƣợc phổ biến rộng rãi: "Du lịch sinh thái là du
lịch có trách nhiệm tại các điểm tự nhiên, kết hợp với bảo vệ môi trƣờng và
cải thiện phúc lợi của ngƣời dân địa phƣơng" (Lindberg và Hawkins, 1993).
Một định nghĩa đang thịnh hành khác đã liên kết các yếu tố văn hoá và môi
trƣờng một cách cụ thể hơn là định nghĩa do Tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế
giới (IUCN) đƣa ra. Ðịnh nghĩa này cho rằng "du lịch sinh thái là tham quan
và du lịch có trách nhiệm với môi trƣờng tại các điểm tự nhiên không bị tàn
phá để thƣởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hoá đã tồn tại trong quá
khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế
những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra, và tạo ra ích lợi cho
những ngƣời dân địa phƣơng tham gia tích cực" (Ceballos-Lascuráin, 1996).
Mặc dù khái niệm du lịch sinh thái vẫn thƣờng đƣợc sử dụng tƣơng tự
nhƣ khái niệm du lịch bền vững, song trên thực tế, du lịch sinh thái nằm trong
lĩnh vực lớn hơn cả du lịch bền vững. Vì thế kỷ mới đang tới gần nên tất cả
các hoạt động của con ngƣời cần phải trở nên bền vững - và du lịch không
phải là một ngoại lệ. Du lịch bền vững bao gồm tất cả các loại hình của du
lịch (dù là loại hình dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay tài nguyên
do con ngƣời tạo ra). Do đó, du lịch sinh thái cần đƣợc hiểu là một trong
những phạm trù của du lịch bền vững. Một bãi biển lớn, một sòng bạc tiết
kiệm năng lƣợng bằng cách không giặt khăn tắm hàng ngày cho khách hoặc
3
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
giảm thiểu tác động môi trƣờng bằng cách sử dụng loại xà phòng gây suy
thoái tài nguyên sinh vật thì không phải là điểm du lịch sinh thái. Qua đây,
chúng ta khuyến khích ngành du lịch đại chúng có ứng xử thân thiện với môi
trƣờng, hay nói cách khác, chúng ta khuyến khích ngành du lịch phát triển
bền vững hơn.
Không nên coi du lịch sinh thái là ngành du lịch "dựa vào thiên nhiên"
vì cái mác này có thể sử dụng trong tất cả các hoạt động du lịch đƣợc thực
hiện ngoài thiên nhiên (ví dụ trƣợt tuyết, đi xe đạp leo núi, và bám vách đá leo
núi). Những hoạt động du lịch này có thể có mà cũng có thể không thuộc loại
hoạt động thân thiện với môi trƣờng. Một cách gọi khác thƣờng bị nhầm với
du lịch sinh thái là du lịch thám hiểm. Loại hình này thƣờng là các hoạt động
thể thao cơ bắp (thƣờng bao gồm sự mạo hiểm cá nhân ở một mức độ nào đó)
cũng diễn ra ngoài thiên nhiên (ví dụ leo lên đỉnh hang). Những hoạt động
này có thể có hoặc có thể không thuộc loại có trách nhiệm đối với môi trƣờng
hay làm lợi cho dân địa phƣơng. Do đó, du lịch sinh thái chỉ nên đƣợc sử
dụng để mô tả những hoạt động du lịch trong môi trƣờng thiên nhiên với một
đặc điểm đi kèm: là loại hình du lịch thực sự khuyến khích bảo vệ và giúp xã
hội phát triển bền vững.
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ:
- Bảo tồn tài nguyên của môi trƣờng tự nhiên.
- Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trƣờng tự nhiên
mà họ đang chiêm ngƣỡng.
- Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng, ngƣời dân
bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực
hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v...
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa
đảm bảo sự hài lòng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối
với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch.
4
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt
động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho ngƣời dân thông qua hoạt
động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du
lịch.
Cho đến nay vẫn chƣa có sự xác định hoàn hảo về loại hình du lịch sinh
thái. Loại hình du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 19971998 Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm
chuyển mạnh sang loại hình du lịch sinh thái phù hợp với điều kiện của sự
phát triển du lịch.
Từ những năm 1985-1990, đặc biệt là sau năm 1990 khoa học sinh thái
đƣợc chấp nhận khá rộng rãi trên thế giới và cũng từ khoa học sinh thái trở
thành một lĩnh vực khoa học có giá trị hơn nhiều nên ngành kinh tế-xã hội có
ý thức vận dụng những lý thuyết cơ bản của sinh thái học. Ngành du lịch thế
giới từ sau cuộc Hội nghị về Trái đất ở Rio đe Janeiro năm 1992 đã thực sự
vận dụng sinh thái học dƣới nhiều mục tiêu sự phát triển bền vững.
Việc tổ chức và điều hành loại hình du lịch sinh thái nhƣ thế nào để có thể:
- Bảo tồn môi trƣờng tự nhiên mà du lịch đang sử dụng.
- Nâng cao ý thức của du khách để họ nhận rõ đặc điểm của môi trƣờng
tự nhiên trong khi du lịch đang hoà mình vào đó.
- Động viên trách nhiệm của dân cƣ địa phƣơng tại khu du lịch, điểm
du lịch có trách nhiệm quản lý bảo vệ và phát triển du lịch nhằm bảo đảm sự
phát triển bền vững của môi trƣờng du lịch và thiết thực tạo đƣợc lợi ích lâu
dài.
Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình
thức truyền thống sẵn có, nhƣng có sự hoà nhập vào môi trƣờng tự nhiên với
văn hoá bản địa, du khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi
trƣờng tự nhiên, về những nét đặc thù vốn có của văn hoá từng điểm, từng
vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn
5
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
thất, xâm hại đối với môi trƣờng tự nhiên và nền văn hoá sở tại. Còn về quy
mô của loại hình du lịch sinh thái thì tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện, biện
pháp tổ chức của nhà quản lý hoạt động du lịch, có thể dần dần từ quy mô
khiêm tốn để phát triển rộng rãi.
Ở nƣớc ta trên phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng đã đƣa ra nhiều
khái niệm và định nghĩa cho loại hình du lịch này : “ Du lịch sinh thái là du
lịch đến với thiên nhiên hoang sơ, thôn dã ”; “Du lịch sinh thái là du lịch đến
vối các khu bảo tồn thiên nhiên” ; “Du lịch sinh thái là du lịch thám hiểm ,
hoặc mạo hiểm trên các cái mới, cái lạ của thiên nhiên” …
Với Việt nam, một nƣớc mới phát triển về du lịch và loại hình du lịch
sinh thái hầu nhƣ còn rất mới, chƣa tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm . Vấn đề
đạt ra mang tính cấp bách là cần phải quan tâm đến cả hai phƣơng diện:
Một là: Thống nhất về bản chất và khái niệm của loại hình du lịch sinh thái.
Hai là: Tiếp cận với xu thế và nhu cầu thị trƣờng du lịch sinh thái trong
nƣớc và quốc tế, tiến hành xây dựng những định hƣớng và hoạnh định chiến
lƣợc phát triển cho loại hình du lịch sinh thái ở Việt nam.
Với đặc trƣng khác biệt về nguồn gốc của sản phẩm du lịch sinh thái và
tính chất bền vững của nó, trong những năm qua ở lĩnh vực hoạt động du lịch
sinh thái trên phạm vi toàn thế giới, ngƣời ta đã rút ra nhiều bài học rất có giá
trị đóng góp vào lý luận và hoạt động của loại hình du lịch sinh thái.
Theo đó du lịch sinh thái là loại hình du lịch đặc biệt tổng hợp các mối
quan tâm cảm giác nhiều đến môi trƣờng thiên nhiên và tìm đến những vùng
thiên nhiên nhiều tiềm năng về môi trƣờng sinh thái để cải thiện kinh tế, phúc
lợi xã hội, sức khoẻ và hƣởng thụ, khám phá những cái mới, cái lạ, cái đẹp và
sự trong lành của thế giới tự nhiên, tạo ra mối quan hệ hữu cơ, hoà đồng giữa
con ngƣời với thiên nhiên, môi trƣờng đồng thời hành động có ý thức trách
nhiệm làm cho thiên nhiên môi trƣờng bền vững, phong phú phục vụ trở lại
lợi ích của con ngƣời cả ở hiện tại và tƣơng lai.
6
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
1.2. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức đƣợc du lịch sinh thái là sự tồn tại
của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh
thái tự nhiên đƣợc hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và
động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động
vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp
(agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn
(human ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng
sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh
thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống,
mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hƣởng trực
tiếp hay gián tiếp lên sự sống nhƣ : đất, nƣớc, địa hình, khí hậu... đó là các hệ
sinh thái (eco-systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài
sinh vật (habitats) (Theo công ƣớc đa dạng sinh học đƣợc thông qua tại Hộ
nghị thƣợng đỉnh Rio de Jannero về môi trƣờng).
Nhƣ vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể
tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng
sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải
thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thƣờng chỉ phát triển ở các khu bảo
tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vƣờn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng
với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. tuy nhiên điều này
không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở
những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch
sinh thái ở 2 điểm:
7
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao đƣợc sự hiểu biết cho khách du
lịch sinh thái, ngƣời hƣớng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là
ngƣời am hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa
phƣơng. Điều này rất quan trọng và có ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu quả của
hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi
du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này
ở ngƣời hƣớng dẫn viên.Trong nhiều trƣờng hợp, cần thiết phải cộng tác với
ngƣời dân địa phƣơng để có đƣợc những hiểu biết tốt nhất, lúc đó ngƣời
hƣớng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một ngƣời phiên dịch giỏi.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có đƣợc ngƣời điều hành có
nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tƣờng chỉ quan tâm đến
lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự
nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết đƣợc những
giá trị tự nhiên và văn hoá trƣớc khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn
mất đi. Ngƣợc lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có đƣợc sự cộng
tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phƣơng
nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên
và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa
ngƣời dân địa phƣơng và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của
hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trƣờng, theo đó du lịch sinh
thái cần đƣợc tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”.
Khái niệm “ sức chứa” đƣợc hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và
xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lƣợng khách đến một địa
điểm vào cùng một thời điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây đƣợc hiểu là số lƣợng tối đa
khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu
chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng nhƣ nhu cầu sinh hoạt của
họ.
8
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lƣợng du khách mà tại
đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến
đời sống văn hoá-xã hội, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thƣờng
của cộng đồng địa phƣơng có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa đƣợc hiểu là lƣợng khách tối đa mà
khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lƣợng khách vƣợt quá giói hạn này thì
năng lực quản lý ( lực lƣợng nhân viên, trình độ và phƣơng tiện quản lý...) của
khu du lịch sẽ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của khách, làm mất khả năng
quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hƣởng đến
môi trƣờng và xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lƣợng, vì vậy khó
có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu
vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác
định một cách tƣơng đối bằng phƣơng pháp thực nghiệm.
Một điểm cần phải lƣu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan ni
ệm” về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong
những điều kiện phát triển xã hội khác nhau (ví dụ giữa các nƣớc Châu Á và
châu Âu, giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển ...). Rõ ràng để đáp ứng
yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể
để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần đƣợc tiến
hành đối với các nhóm đối tƣợng khách/thị trƣờng khác nhau, phù hợp tâm lý
và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng đƣợc các nhu cầu
của tất cả cũng nhƣ mọi loại khách.
Yêu cầu thứ tƣ là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của
khách du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về
những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thƣờng là
rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành
9
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí
quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền
vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trƣởng liên tục về du lịch.
Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo
lắng về tốc độ tăng trƣởng của du lịch .
Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên
tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
- Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trƣờng, tăng
cƣờng và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trƣờng tự nhiên.
- Không đƣợc làm tổn hại đến tài nguyên, môi trƣờng, những nguyên
tắc về môi trƣờng không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên
ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
- Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc
đẩy sự công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trƣờng và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu
do đó mỗi ngƣời khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng
nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trƣờng
cho sự thuận tiện cá nhân.
- Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phƣơng và
đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay
khoa học).
- Phải đƣa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc với môi trƣờng tự
nhiên, đó là những kinh nghiệm đƣợc hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi
tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cƣờng thể trạng cơ thể.
10
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên
đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả ngƣời hƣớng dẫn và các thành viên tham
gia .
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa
phƣơng, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch
(trƣớc, trong và sau chuyến đi).
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phƣơng, tăng cƣờng
sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất
quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đƣa ra các nguyên tắc
và các tiêu chuẩn đƣợc chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
- Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một
khuôn khổ quốc tế cho ngành.
1.3. Tính tất yếu phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam
Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tƣơng đối muộn. Hoạt động du
lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở
cửa của Đảng và Nhà nƣớc. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002
lƣợng khách quốc tế tăng 10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa
tăng 13 lần (từ 1000.000 tăng lên 13.000.000). Thu nhập xã hội cũng tăng
đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó
hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vƣờn quốc gia và du lịch
biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vƣờn quốc gia
nhƣ Cúc Phƣơng, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mã ... các khu bảo tồn thiên nhiên
nhƣ Phong Nha- Kẻ bàng, Hồ kẻ gỗ... bình quân mỗi năm tăng 50% khách nội
địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998 du lịch sinh thái
đạt tăng trƣởng 16,5%.
Vì vậy hiện nay phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du
lịch sinh thái phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu ngày một tăng của khách du
11
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
lịch, của cộng đồng. Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không
ngừng của xã hội, đảm bảo về tổng thể một tƣơng lai phát triển lâu dài của hệ
sinh thái, với tƣ cách là một ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch
sinh thái do nhu cầu khách quan, xu thế này còn không nằm ngoài xu thế
chung về phát triển xã hội của loài ngƣời khi các giá trị tài nguyên ngày càng
bị suy thoái, khai thác cạn kiệt.
Việt Nam là một đất nƣớc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến
hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo nên một nền nhiệt độ cao, độ ẩm không
khí cao, mƣa nhiều. Việt Nam có đƣờng bờ biển dài hơn 3000km, lƣng dựa
vào dãy Trƣờng Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho Việt Nam một
hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có
rất nhiều nét văn hoá dân tộc đặc sắc, đậm đà. Những yếu tố đó đã tạo nên
cho Việt Nam một lợi thế to lớn trong việc phát triển loại hình du lịch sinh
thái. Cùng với việc nỗ lực bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị tài nguyên
thiên nhiên và văn hoá phục vụ phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái
là một xu thế tất yếu. Với tƣ cách là một ngành kinh tế mũi nhọn - Du lịch
trong đó có du lịnh sinh thái ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
Du lịch sinh thái ở Việt nam cũng đã có những đóng góp lớn cho sự
phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trƣờng. Nhờ phát triển du lịch
sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cƣ dân sinh sống trong vùng đệm các
vƣờn quốc gia, khu bảo tồn có đƣợc việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội,
tập tục, ngành nghề thủ công đƣợc bảo tồn và phát triển.
12
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
CHƢƠNG 2
THỰC TẾ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM
2.1 Điều kiện để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đớI gió mùa. ¾
diện tích đất nƣớc bao phủ bởI các dãy núi, đồI và các cao nguyên. Bờ biển
Việt Nam trảI dài trên 3200 km. Việt Nam là nơi cƣ trú của 12000 loài thực
vật, 7000 loài động vật trong số đó có rất nhiều loài đƣợc liệt vào Sách Đỏ
của thế giới. Đặc biệt là trong những năm 80 của thế kỉ trƣớc, đã có 5 loài
động vật dạng lớn đã đƣợc phát hiện ở Việt Nam. Do điều kiện địa lý nhƣ vậy
nên Việt Nam rất thích hợp để phát triển du lịch sinh thái.
Hệ sinh thái ở Việt Nam bao gồm 12 loại điển hình:
1.
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới.
2.
Hệ sinh thái rừng rậm gió mùa ẩm thƣờng xanh trên núi đá vôi
3.
Hệ sinh thái rừng khô hạn.
4.
Hệ sinh thái núi cao.
5.
Hệ sinh thái đất ngập nƣớc.
6.
Hệ sinh thái ngập mặn ven biển.
7.
Hệ sinh thái đầm lầy.
8.
Hệ sinh thái đầm phá.
9.
Hệ sinh thái san hô.
10.
Hệ sinh thái biển - đảo.
11.
Hệ sinh thái cát ven biển.
12.
Hệ sinh thái nông nghiệp.
Việt Nam có 350 loài san hô, trong đó có 95 loài ở vùng biển phía Bắc
và 225 loài ở vùng biển phía Nam. Bên cạnh 60 vạn ha đất cát ven biển, trong
13
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
đó có 77.000 ha hệ sinh thái cát đỏ tập trung tại Bình Thuận, Ninh Thuận và
các tỉnh duyên hải Trung bộ, Việt Nam còn có thêm 10 triệu ha đất ngập mặn
ẩn chứa nhiều hệ sinh thái điển hình có giá trị cao về khoa học và du lịch tại
Đồng Tháp Mƣời là vùng ngập nƣớc tiêu biểu cho khu vực Đông Nam á. Hệ
thống rừng đặc dụng và rừng ngập mặn Việt Nam thuộc loại rừng giàu có về
tính đa dạng sinh học với 12.000 loài thực vật ( 1.200 loài đặc hữu). 15.575
loài động vật (172 loài đặc hữu). Với tiềm năng phong phú và đa dạng, nên
ngay từ thời gian đầu của quá trình đổi mới đất nƣớc, việc phát triển du lịch
sinh thái ở Việt Nam đã đƣợc coi trọng. Nếu nhƣ năm 1994 mới chỉ có 320
ngàn lƣợt khách quốc tế đến các vùng tự nhiên ở Việt Nam thì đến năm 1999
con số tƣơng ứng đã lên đến 620 ngàn và dự tính 1triệu lƣợt khách cho cả
năm 2000. Bên cạnh đó hàng năm cũng có thêm 3.5 đến 5 triệu lƣợt khách du
lịch nội địa ghé các vùng tự nhiên. Nhờ vậy doanh thu của hoạt động du lịch
sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên cũng nhƣ vùng đệm hiện chiếm
khoảng 25-30% trong tổng số doanh thu hàng năm của ngành du lịch.
Hiện nay ngành du lịch Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện công tác điều
tra cơ bản quy hoạch những vùng tiềm năng nhƣ Ba Bể, Cát Bà, Cúc Phƣơng,
Nam Cát Tiên, Yok-Đôn, Côn Đảo, Bình Châu-Phƣớc Bửu...
Tổ chức không gian hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn ở
Việt Nam sẽ đƣợc phân thành 7 cụm vùng tiêu biểu. Không gian du lịch sinh
thái vùng núi và ven biển Đông Bắc bao gồm một phần các tỉnh Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Cạn, Bắc Thái. Các hệ sinh thái điển hình và có giá trị cao
đƣợc chọn khu vực này là khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Sơn, Hữu Liên ( Lạng
Sơn), rừng văn hoá lịch sử Pắc Bó, Trùng Khánh( Cao Bằng), Vƣờn quốc gia
Ba Bể ( Bắc Cạn). Hồ núi Cốc( Bắc Thái) và hệ sinh thái rừng ngập mặn
Quảng Ninh, Hải Phòng.
Không gian hoạt động của du lịch sinh thái vùng núi Tây Bắc và Hoàng
Liên Sơn chủ yếu phần phía Tây của 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu với vùng
sinh thái núi cao Sapa-Phanxiphăng và Khu bảo tồn Mƣờng Nhé- nơi đang tồn
14
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
tại 38 loài động vật quý hiếm cần đƣợc bảo vệ nhƣ Voi, Bò tót, Gấu chó, Hổ, Sói
đỏ...
Du lịch sinh thái Đồng Bằng Sông Hồng với không gian chủ yếu thuộc
các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Thanh Hoá.
Các khu bảo tồn thiên nhiên điển hình đƣợc chọn cho vùng này là Tam Đảo,
Cúc Phƣơng, Ba Vì, Xuân Thuỷ (khu bảo vệ vùng đất ngập nƣớc (Ramsa) đầu
tiên ở Việt Nam)
Không gian du lịch sinh thái vùng Bắc Trung Bộ bao gồm phần phía
Tây Nam Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và phía
Đông Nam Thừa Thiên Huế. So với các nƣớc trong khu vực Đông Nam á, đây
là địa bàn đƣợc đánh giá cao nhất về tính đa dạng sinh học với Khu bảo tồn
thiên nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng đƣợc xếp vào loại lớn trên thế giới và nhiều
khu rừng nguyên sinh có giá trị
Phía Tây của Tây Nguyên, một phần Bắc Lâm Đồng kéo dài đến tỉnh
Khánh Hoà thuộc không gian du lịch sinh thái vùng Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên. các hệ sinh thái điển hình của vùng nay bao gồm rừng khu rừng ở
Yok đôn, đất ngập nƣớc Hồ Lắc, hệ sinh thái Ngọc Linh, Biodup-Núi Bà; hệ
sinh thái san hô Nha Trang.
Vùng chuyển tiếp từ cao nguyên Tây Nguyên cực Nam Trung Bộ với
không gian du lịch sinh thái bao trùm khu vực Vƣờn quốc gia Nam Cát Tiên
(Lâm Đồng-Bình Dƣơng, Đồng Nai), Côn Đảo, Bình Châu-Phƣớc Bửu( Bà
Rịa-Vũng Tàu), Biển Lạc-Núi Ông( Bình Thuận)
Dựa vào hai hệ sinh thái là đất ngập mặn và rừng ngập mặn thuộc các tỉnh
dọc sông Mê Kông đến Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, không gian du lịch vùng
này sẽ tập trung chủ yếu vào rừng ngập mặn Cà Mau, Tràm chim Đồng Tháp,
Cù lao sông Tiền, sông Hậu và Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc.
2.2 Một số điểm du lịch sinh thái điển hình ở Việt Nam
15
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Trong vùng du lịch phía Bắc vằ Bắc Trung Bộ có điều kiện hình thành
tuyến du lịch sinh thái phía Đông Bắc từ thành phố Hà Nội-Bắc Ninh-Bắc
Cạn-Lạng Sơn-Cao Bằng phong phú và đa dạng về yếu tố sinh thái vốn có của
đất nƣớc. Chiều dài của tuyến du lịch khá thuận tiện về đƣờng bộ, những năm
gần đây nhiều đƣờng xá đã đƣợc nâng cấp hoàn chỉnh nhƣ đƣờng quốc lộ
mới, đƣờng 32 v.v... Về mặt lƣu trú của du khách cũng có các khách sạn với
tiện nghi hiện đại. Nhiều tổ chức lữ hành , phục vụ thông tin liên lạc, quảng
bá v.v... các Sở Du lịch, các công ty kinh doanh du lịch về các làng bản, nhân
dân địa phƣơng trên tuyến điểm du lịch đã có kinh nghiệm tốt đảm bảo niềm
tin gây cảm tình đối với du khách. Tuyến du lịch có thể tổ chức dài từ 4-5
ngày đối với toàn tuyến, cố nhiên có thể tuỳ theo yêu cầu của du khách mà có
thể phân thành một tuyến nhất định.
Điều đáng mừng là những năm gần đây nhiều tỉnh, thành trong cả nƣớc
đã hƣởng ứng tích cực loại hình du lịch sinh thái. Loại hình du lịch này bƣớc
đầu đã đƣợc chú ý đầu tƣ để thu hút nhiều khách tham quan, đồng thời hình
thành và phát huy chất lƣợng phục vụ của các tour du lịch làm cho du khách
thấy thoải mái, chủ động.
Sở Du lịch tỉnh Hà Tây đã mở thêm các tour du lịch sinh thái vƣờn lồng
ghép các tour du lịch làng nghề nhƣ vƣờn sinh thái ở Chƣơng Mỹ, ở Thƣờng
Tín , khu du lịch sinh thái Song Phƣơng, trang trại sinh thái Vân Canh ở Hoài
Đức, vƣờn Ngọc Nhị ở Ba Vì v.v...
Ở Khánh Hoà cũng mở các tour du lịch mới đƣa du khách đến khu vực
Đầm Môn , bãi tắm Xuân Đừng ở vịnh Văn Phong v.v... các du khách bơi
thuyền trên vịnh, thăm một số bãi biển trên vịnh, thăm làng nghề Hà Đằng từ
nhiều năm còn cách biệt với đất liền, thƣởng ngoạn Dốc Lết, tắm suối nƣớc
nóng Tháp Bà v.v...
16
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Huyện Sa Pa nằm sâu trong rìa Tây Nam, là huyện từ khi ra đời đƣợc
coi là vùng khí hậu ôn đới đặc biệt của Việt Nam. đây là điểm du lịch sinh
thái rất hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nƣớc.
Trong vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ cần phải kể đến tiểu
vùng (hoặc khu vực) du lịch Cần Thơ có các yếu tố sinh thái đặc trƣng mà các
tỉnh trong vùng này khó hội đủ. Tỉnh này là vùng đất màu mỡ của đồng bằng
sông Cửu Long, nên ngày từ thời còn thuộc Pháp ngƣời dân Nam Bộ đã mệnh
danh Cần Thơ là Tây Đô. Ở đây chính quyền thực dân đã bố trí đầy đủ quyền
lực để củng cố địa vị độc tôn của họ về mặt chính trị-hành chính; còn về kinh
tế xã hội cũng sớm phát triển. Là tâm điểm thu hút nhà buôn, nhà đầu tƣ, nhà
khoa học, nhà văn hoá do các yếu tố sinh thái đa dạng của Cần Thơ vốn sẵn
ƣu thế về địa lý, giao thông, về thƣơng mại, cả về du lịch nữa.
Riêng về địa lý tự nhiên ở đây là hàng trăm dòng kênh, dòng rạch trên
hàng ngàn km chằng chịt bồi đắp phù sa màu mỡ của sông Hậu cho các cánh
động, đảm bảo năng suất cây lúa của miền Nam. Các khu vƣờn cây trái theo
mùa vụ trĩu quả, đậm đà hƣơng vị riêng biệt nhƣ bƣởi, ổi, chôm chôm, quýt
đƣờng, cam sành, sầu riêng, xoài cát, đu đủ, măng cụt, mận, nhãn v.v... Cùng
các khu vƣờn nhà của các hộ dân cƣ nông trƣờng Sông Hậu trên diện tích
7000 ha vừa gieo trồng các giống lúa mới đạt năng suất cao, có chất lƣợng,
các dòng rạch với hai bờ xanh cây bạch đàn và các loại cây ăn quả về mô hình
kinh tế sinh thái độc đáo “ Ruộng , vƣờn, ao, chuồng” tiêu biểu v.v...
Sự hấp dẫn về du lịch sinh thái của vung Cần Thơ làm cho du khách
trong cac tour du lịch cùng với việc tham quan các yếu tố kinh tế xã hội đa
dạng phong phú đã tăng liên tục từ năm 2000 góp phần vào số doanh thu của
ngành du lịch của VIệt Nam.
Từ năm 2002 ở Củ Chi thuộc thành phố HCM đã bắt đầu đón khách
đến nghỉ mát ở khu du lịch thuộc xã Nhân Đức trên diện tích rộng đến 180 ha
gồm 3 khu vực : một khu du lịch 25 ha gồm nhà lƣu niệm, vƣờn hoa, khu vui
17
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
chơi trên nƣớc, khu các bộ tộc Bana, Chơ Ro, Mƣờng, khu nhà hàng v.v...
khu thứ 2 có các trại gia cầm, trại cá gồm 19 ao với diện tích khoảng 20.000
m2 nuôi trên 1.000.000 vịt anh đào, có diện tích riêng nuôi cá rô phi, cá
chép... Khu thứ 3 rộng trên 100ha trồng thuần cây giống nhập từ Đài Loan là
cây Ma-li-ba-lu có gốc từ Nam Mỹ đƣợc mệnh danh là cây phát tài để xuất
khẩu. Khu này do công ty trách nhiệm hữu hạn Phô-ta-cô đầu tƣ vốn đến 100
triệu USD.
Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh quan tâm đầu tƣ loại hình du lịch
sinh thái trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, trong đó có quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ, chuẩn bị xây dựng một cầu cảng du lịch
tại Bình Thụng ở quận 7 để phát triển du lịch bằng đƣờng biển và đƣờng
sông, tiếp tục triển khai kế hoạch phát triển du lịch sinh thái ở khu vực TâyBắc thành phố cùng với dự án hình thành khu phố văn hoá-dịch vụ-du lịch
ngƣời Hoa ở quận 5. Đồng thời trong kế hoạch 2001-2010 nhằm phát triển
loại hình du lịch sinh thái - mô hình rất cần thiết, các nhà quản lý du lịch ở
thành phố Hồ Chí Minh còn liên kết mật thiết với một số tỉnh nhƣ Quảng
Nam, Bình Thuận, Tây Nguyên v.v... để thu hút du khách thực hiện các tour
du lịch sinh thái.
Cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 19 km về phía Bắc
thuộc phƣờng Tân Phú ở quận 9, Khu du lịch Suối Tiên có diện tích khoảng
100 ha từ năm 1999 đã trở thành một điểm hẹn du lịch mới ở các tỉnh miền
Đông Nam Bộ. Vốn là một nơi hoang dã có một dòng suối nhỏ chảy qua từ
nhiều năm trƣớc cho đến mãi cuối năm 1995 các nhà quản lý của Công ty
xuất nhập khẩu lâm sản, mỹ nghệ, thƣơng mại và du lịch Suối Tiên về phát
triển du lịch nên đã thống nhất mạnh dạn hợp tác đầu tƣ thành điểm du lịch
sinh thái.
Ở điểm này có các công trình nhƣ Đền Vua Hùng, cổng Thần Tiên, Cầu
Kiệu, cung Kỳ Lân, Giếng Mỵ nƣơng v.v... là những cảnh quan nghệ thuật gọi
cho du khách về truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam. Gần đấy có
18
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
khu vui chơi giải trí cùng với hệ thống cáp treo từ trên cao nhìn xuống công
trình Long - Lân - Quy - Phụng nên khu Suối Tiên đƣợc ngƣời đƣơng thời gọi
là vùng đất tứ linh.
Trong năm 2002 công trình biển Tiên Đồng bao bọc cả dãy núi gọi là
Giả Sơn cùng những di tích văn hoá sinh thái là núi Lạc Long Quân đối diện
với núi Âu Lạc v.v... Phía bên trong các dãy Giả Sơn có những hang động mô
phỏng các hang động nhƣ Phong Nha, Nam thiên đệ nhất Động v.v... Khi du
khách leo đến bậc đá cuối cùng ở núi Lạc Long Quân là nhìn thấy cảnh quan
bát ngát của thành phố Hồ Chí Minh.
Ở làng du lịch sinh thái Xi-Va tại Mũi Né, Phan Thiết do công ty du
lịch Than Niên thành phố Hồ Chí Minh và công ty lƣơng thực tỉnh Bình
Thuận đã đầu tƣ trên diện tích ở bãi Mũi Né sát biển dƣới các hàng phi lao
thoáng mát cùng gió biển gồm các nhà nghỉ bằng bê tông kết hợp các loại vật
liệu dân tộc nhƣ gỗ, mây, tre, dừa, trang trí phù điêu bằng thạch cao, bằng
gạch men theo phong cách cổ truyền bộ tộc Chăm-Pa. Trong các tháng đầu
năm 2003 này các nhà quản lý làng nghỉ mát Xi-Va lần lƣợt tổ chức các
chuyến đi cho du khách dạo chơi bằng ca-nô, đánh bắt hải sản, tham quan tìm
hiểu các hòn đảo gần kề, thăm làng thổ cẩm, làng gốm Chăm. Các tiết mục
múa Chăm có trình diễn các nhạc cụ Chăm làm cho du khách có dịp thuận
tiện tìm hiểu thƣởng thức các nét văn hoá đặc sắc của bộ tộc Chăm v.v...
Huyện Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hoà cũng đang triển khai các dự án
phát triển loại hình du lịch sinh thái nhƣ dự án khu du lịch sinh thái Bãi Dài,
dự án khu du lịch sinh thái thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn du lịch- địa ốc
Hồng Hà, khu du lịch Cam Ranh thế kỷ XXI. Tại vịnh Văn Phong du khách
thƣờng bơi thuyền thăm các bãi biển gần nhƣ nguyên sơ, thăm làng Hà Đằng
từ nhiều năm vẫn còn cách biệt với đất liền, thƣởng ngoạn dốc Lết, tắm suối
nƣớc nóng Tháp Bà...
19
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Cùng với các hang động nhƣ đã liệt kê điển hình ở một số nơi trong hệ
sinh thái rừng-núi-hang động của Việt Nam có trên 400 suối nƣớc nóng: Kim
Bôi ở tỉnh Hoà Bình, suối nƣớc nóng Hội Vân ở tỉnh Bình Định v.v... Đồng
thời không ít vùng còn có nhiều thác nƣớc mát nổi tiếng nhƣ thác Mơ nằm
giữa khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hang cách thị xã Tuyên Quang 100 km tạo
nên một cảnh quan hấp dẫn; thác Bản Giốc ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao
Bằng trên dòng sông Quầy Sơn chảy vòng quanh lãnh thổ Việt Nam đến xã
Đàm Thuỷ và từ độ cao trên 30m dòng nƣớc trắng xoá đổ xuống qua các bậc
đá vôi. Tại tỉnh Bắc Kạn có thác Đầu Đẳng cách hồ Ba Bể khoảng 3km. Tỉnh
Nghệ An có thác Khe Kẻm trong khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mạt thuộc huyện
Côn Cƣờng. Tỉnh Gia Lai có thác Xung Khoeng thuộc huyện Chƣ Pờ Rông.
Tỉnh Đắc Lắc có thác Drây Sáp. Tỉnh Lâm Đồng có thác Prenn, thác Pong
Gua, thác Đam-bờ Ri, thác Cam Ly, thác Đan Ta La, thác Gou Gah v.v...
cũng cách thành phố Đà Lạt chừng 7 km về phía Đông-Bắc từ thời Pháp có
thung lũng khá đẹp do một số du khách nƣớc này đặt tên là Thung Lũng Tình
Yêu (Valléc d’amour) có một cảnh hồ rộng chừng 6 ha với cai tên là hồ Đa
Thiện đƣợc du khách, đặc biệt là giới trẻ thƣờng đến vãn cảnh đẹp.
Cùng với các loại tài nguyên du lịch tự nhiên, Việt Nam còn có nhiều
di sản văn hoá lịch sử cổ đại, hiện đại quý giá mà các loại hình du lịch cần
khai thác để phát triển du lịch sinh thái. Lịch sử lâu đời của đất nƣớc cho thấy
trƣớc khi có nhà nƣớc khoảng 2000-4000 năm những ngƣời tiền sử đã sống,
hái lƣợm, lao động sản xuất, phát triển tập quán, phong tục và để lại những di
chỉ có giá trị. Tiếp theo các thế hệ liên tục vừa xây dựng nền kinh tế, phát
triển đời sống vật chất và tinh thần, không ngừng đấu tranh bảo vệ nền độc
lập của đất nƣớc làm cho các di sản văn hoá phát triển vừa đa dạng, vừa độc
đáo. kho tàng tài nguyên du lịch về di sản văn hoá phi vật thể và những tài
nguyên văn hoá đƣơng đại nói chung quả là lớn góp phần tạo thêm cơ sở vật
chất ổn định để ngành du lịch có điều kiện khai thác, bảo tồn nhằm góp phần
tích cực, có hiệu quả vào sự tăng trƣởng của nền kinh tế đất nƣớc.
20
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
Tính ra trong cả nƣớc từ miền xuôi đến miền ngƣợc có đến hàng ngàn
tục lễ đậm đà tính chất truyền thông xã hội - nhân văn biểu hiện rõ tình cảm
quý giá đối với các nhân vật anh hùng, liệt sỹ có công. Nhƣng nói chung đều
ghi nhớ những đóng góp vô giá của các tiền nhân lịch sử và là những di sản
văn hoá phi vật thể mà 54 dân tộc anh em VIệt Nam rất tự hào.
Các lễ hội đều thƣờng diễn ra vào các tháng đầu năm âm lịch; có lễ hội
kéo dài qua nhiều ngày. Nếu đúng dịp diễn ra lễ hội mà có các đoàn khách
trong các tour du lịch thì quả là cơ hội hiếm có đối với họ. Các du khách có
thể hoà nhịp cùng lễ hội, những giọng hát chân thành, êm dịu, cùng tham gia
các diệu múa v.v... là chắc chắn khi về họ mãi nhớ những buổi hội ngộ lắng
đọng đối với họ.
21
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
2.3 Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên
nhiên Việt nam.
2.3.1 Tiềm năng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên
Việt Nam.
Việt nam nằm trong vùng châu Á, nơi mà tổ chức du lịch thế giới và
nhiều nhà chuyên môn du lịch có tên tuổi đã khẳng dịnh và dự báo rằng sẽ là
nơi thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất và cũng có nhiều ngƣời đủ điều
kiện đi du lịch nhất (500 triệu ngƣời) ở thế kỷ 21.
Từ những, phân tích, đánh giá dự báo đó cho ta một kết luận nguồn
khách du lịch sinh thái quốc tế gắn với thị trƣờng du lịch Việt nam là khách
quan và là một tiềm năng.
Hiện nay, số khách du lịch trong nƣớc đã tăng lên tới 8,5 triệu lƣợt
khách.Trong đó có bao nhiêu khách thuộc đối tƣợng du lịch sinh thái? Chƣa
có số liệu tin cậy bởi khái niệm du lịch sinh thái chƣa đƣợc quan tâm dẫn đến
trong thống kê du lịch chƣa đƣợc thể hiện. Căn cứ vào số khách đến với các
vùng thiên nhiên với động cơ hƣởng thụ vào sản phẩm thiên nhiên nhƣ: các
vƣờn quốc gia và bảo tồn thiên nhiên , vãn cảnh sông nƣớc , hành trình xuyên
Việt, thám không vùng vịnh hay đến các khu tự nhiên Hạ Long, Tam Cốc –
Bích Động… thì tỷ lệ cũng không nhỏ có thể chiếm tới 30 – 40% tổng số
khách hàng năm. Tuy nhiên với khái niệm đầy đủ về du lịch sinh thái vế thứ
hai là ý thức, trách nhiêm với việc bảo tồn phát triển du lịch sinh thái thì chƣa
có những tƣ duy, giáo dục tốt về vấn đề này. Với tốc độ đô thị hoá nhƣ hiện
nay chất lƣợng cuộc sống ngày càng đƣợc nâng cao và cải thiện…Chắc chắn
nhu cầu đi du lịch sinh thái sẽ tăng lên đáng kể, không còn giới hạn ở con số 4
– 5 triệu ngƣời/năm mà có thể lên đến hàng chục triệu ngƣời mỗi năm trong
các năm tới đây.
Xét về tiềm năng du lịch sinh thái của nƣớc ta với vị trí nằm tiếp giáp
với biển Đông với chiều dài trên 3200km bờ biển có nhiều, vịnh đảo và
22
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
những quần thể núi đá vôi, sông, hồ, thác nƣớc, hang động, suối nƣớc nóng,
và 3/4 diện tích núi rừng với độ dốc cao …đã tạo cho Việt nam rất phong phú
và đa dạng về khí hậu và địa hình địa mạo nên rất giàu về tiềm năng sinh thái
cũng nhƣ sự đa dạng sinh thái .
Theo đánh giá của quốc tế, nƣớc ta đứng thứ 16 về sự phong phú, tính
đa dạng sinh học, đại diện cho vùng Đông nam Á về sự độc đáo và giàu có về
thành phần loài. Mặc dù bị tổn thất về diện tích do nhiều nguyên nhân trong
hai thập kỷ qua, nhƣng hệ thực vật vẫn còn khá phong phú về chủng loại.
Tiềm năng và thế mạnh về sự đa dạng sinh thái của Việt nam hấp dẫn
du lịch ở các đạc trƣng sinh thái dƣới đây:
- Các vùng núi đá vôi với nhiều dạng hang động nhƣ là một kho tàng
cảnh quan thiên nhiên huyền bí mà trong đó Vịnh Hạ long – di sản thiên nhiên
thế giới , động Phong Nha – Kẻ Bàng làm ví dụ .
- Nhiều đảo, vịnh và bãi tắm biển đẹp với các sinh thái dộng vật, thực
vật biển phong phú và đa dạng.
- Hệ thống vƣờn bảo tồn thiên nhiên đa dạng và phong phú về hệ động
thực vật rừng xen kẽ với nhiều dân tộc có ngƣời sinh sống có những bản sắc
văn hoá hết sức đa dạng.
- Các vùng sinh thái nông nghiệp đặc trƣng nền văn minh lúa nƣớc
nhiều sông lạch, miệt vƣờn.
Ở Việt nam hệ thống rừng đặc dụng đƣợc hiểu là hệ thống khu bảo tồn
thiên nhiên có diện tích 2.119.509 ha, bao gồm 11 vƣờn quốc gia , 64 khu dự
trữ thiên nhiên , 32 khu di tích lịch sử, văn hoá, môi trƣờng. Sau khi rà soát lại
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã lập một danh mục 101 khu rừng
đặc dụng đề nghị chính phủ phê duyệt và phân thành 4 loại : Vƣờn quốc gia
(11 vƣờn), Khu dự trữ thiên nhiên (53 khu), Khu bảo tồn loài và sinh cảnh (16
khu) và Khu bảo vệ cảnh quan (21 khu). Theo danh sách này thì còn thiếu
23
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
nhiều khu bảo tồn thiên nhiên vùng biển và vùng đất ngập nƣớc. Tuy nhiên
cho đến nay Chính Phủ vẫn chƣa phê duyệt.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, các khu bảo tồn thiên nhiên
Việt nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng rất thuân lợi
cho việc phát triển du lịch sinh thái.
Các nhà sinh thái học thƣờng nhắc đến sự phong phú về các kiểu hệ
sinh thái và thực bì ở Việt nam. Theo thống kê, Việt nam có tới 26 kiểu thực
bì tập trung thành 6 nhóm, trải từ rừng kín thƣờng xanh, rừng rụng lá và bán
rụng lá, rừng thƣờng xanh hở, rừng thƣờng xanh cây bụi đến các thảm cỏ.
Ngoài ra Việt nam còn có 5 nhóm hệ sinh thái thuỷ vực, trải từ nƣớc ngọt
đứng, nƣớc ngọt chảy, nƣớc ngọt ngầm, nƣớc lợ và nƣớc mặn. Hệ sinh thái
đất ngập nƣớc cũng dang đƣợc các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu. Khu
bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Xuân Thuỷ, Vƣờn Quốc Gia Tràm chim ở
đồng bằng sông Cửu Long là những địa điểm ngắm chim nƣớc lí tƣởng.
Không chỉ phong phú trên phƣơng diện hệ sinh thái, thiên nhiên còn
ban cho Việt nam sự đa dạng sinh học cao về các loài đặc hữu, có khoảng
1200 loài là loài đặc hữu trong tổng số 12000 loài thực vật ở Việt Nam(theo
ƣớc tính). Trong số 15.575 loài động vật có 172 loài đặc hữu trong số đó có
14 loài là thú. Đặc biệt sự kiện gây chú ý nhất trong giới bảo tồn thế giới là
phát hiện 3 loài thú lớn ở Việt nam: Sao la(1992), Mang lớn(1994), Mang
Trƣờng Sơn (1997). Khoảng 58% số loài thực vật và 73% số loài động vật
quý hiếm, đặc hữu của Việt nam tập trung trong các khu bảo tồn thiên nhiên.
Tuy nhiên các loài thú lớn của Việt nam khó tiếp cận hơn các loài của Châu
phi, và đôi khi sự tiếp cận là không thể chấp nhận đƣợc vì các loài vật này bản
thân chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng cần đƣợc bảo vệ và chúng sống
trong các hệ sinh thái tƣơng đối mong manh. Tình trạng này có thể đƣợc khắc
phục nếu có quy hoạch thích hợp. Chẳng hạn nhƣ khoanh vùng bảo vệ, xây
dựng chòi quan sát từ xa có thể xem đƣợc một số con tê giác còn sống sót tại
vƣờn quốc gia Cát Tiên mà đầu tháng 5/1999 các nhà nghiên cứu đã chụp
24
Thuviennet.vn
hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bài tiểu luận năm thứ nhất
đƣợc những bức ảnh đầu tiên bằng máy ảnh tự động. Khi có các nguồn tài
chính có thể xây dựng các khu nuôi thú bán hoang dã. Hiện tại ở Vƣờn quốc
gia Cúc Phƣơng đã xây dựng đƣợc một khu nuôi các loài linh trƣởng rộng
khoảng 2 ha. Du khách có thể tham quan và ngắm nhìn một số loài khỉ vƣợn
vào lúc cho ăn. Vƣờn quốc gia Ba Vì cũng đang xây dựng khu nuôi thú và
chim bán hoang dã ở khu vực có độ cao 400 mét so với mực nƣớc biển.
Sự đặc hữu về động thực vật là một hấp dẫn đối với du lịch sinh thái
mang tính chất nghiên cứu khoa học. Những nhà khoa học có thể đến đây để
tìm hiểu những loài động thực vật chỉ có ở Việt nam.
Sự phong phú về hệ sinh thái ở Việt nam sở dĩ có đƣợc là nhờ sự đa
dạng về địa hình của đất nƣớc. Sự đa dạng về địa hình kết hợp với sự phong
phú về hệ sinh thái đã cho ra đời những sản phẩm, địa điểm du lịch sinh thái
hấp dẫn. Hấp dẫn nhất phải kể đến rừng mƣa nhiệt đới Vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã và khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha – Kẻ
Bàng, Hoàng Liên Sơn.
Nhiều vƣờn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phân bố dọc theo 3260
km bờ biển với hệ động thực vật còn khá phong phú và nhiều bãi tắm lý
tƣởng nhƣ Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Xuân Thuỷ, Sầm Sơn, Lăng Sô, Bình
Châu, Phƣớc Bửu. Các vƣờn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên vùng đảo và
quần đảo cũng là địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng. Nơi đây ngoài hệ sinh
thái trên cạn còn có hệ sinh thái trên biển với các rạn san hô có thành phần
loài phong phú. Chúng ta có thể tổ chức du lịch lặn, xem hệ động thực vật
biển phong phú trong các rạn san hô ở khu vực đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phú
Quốc và các đảo thuộc khu vực Nha Trang, Khánh Hoà.
Ba phần tƣ diện tích lãnh thổ của Việt nam là đồi núi với nhiều đỉnh núi
cao có khí hậu mát mẻ rất thuận lợi cho du lịch nghỉ dƣỡng mùa hè. Những
địa điểm nổi tiếng nhƣ Sa Pa, Tam Đảo, Ba Vì, Bạch Mã, Bà Nà - Núi Chúa
đã đƣợc ngƣời Pháp khai thác cách đây nửa thế kỷ và hiện còn lƣu giữ nhiều
25
Thuviennet.vn