Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tổ chức dạy học phần làm văn (ngữ văn 10, tập 2) theo hướng tích hợp giáo dục kĩ năng sống luận văn ths giáo dục học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ BÍCH HẰNG

TỔ CHỨC DẠY HỌC PHẦN LÀM VĂN (NGỮ VĂN 10, TẬP 2)
THEO HƢỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2015
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ BÍCH HẰNG

TỔ CHỨC DẠY HỌC PHẦN LÀM VĂN (NGỮ VĂN 10, TẬP 2)
THEO HƢỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ban

HÀ NỘI – 2015
ii




LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Giáo dục – Đại học
Quốc gia Hà Nội, quý thầy cô tham gia giảng dạy lớp Cao học Lý luận và
phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn khoá 2013 - 2015 tại Trường Đại học
Giáo dục đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện cho tác giả trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu đề tài .
Đặc biệt tác giả xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
cô giáo TS. Nguyễn Thị Ban, người đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ
tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các
em học sinh trường THPT Xuân Khanh và Trung tâm GDTX Sơn Tây đã
động viên, cộng tác và nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình điều tra,
nghiên cứu, kiểm chứng kết quả nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Kính mến gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, hỗ trợ tác giả trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để
hoàn thành luận văn.
Luận văn này chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả
mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và đồng nghiệp.
Hà Nội, tháng 01 năm 2016
Tác giả

Vũ Thị Bích Hằng

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


KNS

:

Kĩ năng sống

THPT

:

Trung học phổ thông

THCS

:

Trung học cơ sở

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

WHO

:

Tổ chức Y tế thế giới


UNICEF

:

Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

UNESCO

:

Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục
Liên hợp Quốc

ĐHSP

:

Đại học sư phạm

SGK

:

Sách giáo khoa

HS

:

Học sinh


GV

:

Giáo viên

PPDH

:

Phương pháp dạy học

KTDH

:

Kĩ thuật dạy học

ii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................ ii
MỤC LỤC.........................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................... v
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................ 13
1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống .................................................... 13

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 13
1.1.2. Phân loại kĩ năng sống ........................................................................... 19
1.1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh .............. 21
1.1.4. Những kĩ năng sống có thể tích hợp giáo dục cho học sinh qua dạy học
Ngữ văn THPT ................................................................................................. 26
1.2. Dạy học tích hợp ....................................................................................... 29
1.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 29
1.2.2. Các cách tích hợp ................................................................................... 33
1.2.3. Ý nghĩa của dạy học tích hợp ................................................................ 36
1.2.4. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn ........................................................... 36
1.3. Tích hợp kĩ năng sống trong dạy học Làm văn ........................................ 38
1.3.1. Khả năng tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong phần Làm văn (Ngữ văn
10, tập 2)........................................................................................................... 38
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học
phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) ................................................................. 42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
TRONG DẠY HỌC VÀ BIỆN PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC LÀM VĂN (NGỮ
VĂN 10, TẬP 2) .............................................................................................. 50
2.1. Thực trạng dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) theo hướng tích
hợp giáo dục KNS ............................................................................................ 50
iii


2.1.1. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học hiện nay ................ 50
2.1.2. Thực trạng kĩ năng sống và nhu cầu được giáo dục KNS của HS ........ 52
2.1.3. Kết quả khảo sát thực trạng KNS của HS THPT ................................... 53
2.1.4. Khảo sát thực trạng dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) theo
hướng tích hợp giáo dục KNS ......................................................................... 57
2.1.5. Phân tích kết quả khảo sát ...................................................................... 60

2.1.6. Nguyên nhân của những tồn tại ............................................................. 61
2.2. Biện pháp tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học phần Làm
văn (Ngữ văn 10, tập 2) .................................................................................. 64
2.2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ................................................................ 64
2.2.2. Sử dụng phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực ................................... 68
2.2.3. Xây dựng mục tiêu ................................................................................. 74
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM..................................................... 80
3.1. Mục đích thực nghiệm .............................................................................. 80
3.2. Tổ chức thực nghiệm ................................................................................ 80
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm .......................................................................... 80
3.2.2. Giáo viên dạy học thực nghiệm ............................................................. 80
3.2.3. Thời gian thực nghiệm ........................................................................... 81
3.2.4. Chọn mẫu và nội dung thực nghiệm ...................................................... 81
3.2.5. Thiết kế bài dạy thực nghiệm................................................................. 81
3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................... 92
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................ 96
1. Kết luận ........................................................................................................ 96
2. Khuyến nghị ................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 99
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 103

iv


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả khảo sát nhận thức của GV và HS THPT về KNS ............ 54
Bảng 2.2. Sự tiếp nhận thông tin liên quan đến KNS của học sinh THPT ..... 55
(Tỷ lệ%) ........................................................................................................... 55
Bảng 2.3. Đánh giá của giáo viên về mức độ KNS của học sinh THPT ........ 56
Bảng 2.4. Phiếu khảo sát học sinh ................................................................... 57

Bảng 2.5. Mức độ thực hiện tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học
phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) .................................................................. 58
Bảng 2.6. Cơ sở vận dụng các biện pháp tích hợp giáo dục KNS cho HS qua
dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) ..................................................... 58
Bảng 2.7. Mức độ sử dụng các phương pháp/ kỹ thuật dạy học tích cực để tích
hợp giáo dục KNS cho HS trong dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) ..... 59
Bảng 2.8. Quan điểm của giáo viên về mục đích tích hợp giáo dục KNS cho
HS qua dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2)........................................ 59
Bảng 3.1. Ý kiến của giáo viên sau khi dự giờ dạy thực nghiệm .................... 93
Bảng 3.2. Kết quả điều tra hứng thú học tập của học sinh qua giờ dạy thực
nghiệm bài Viết quảng cáo .............................................................................. 93
Bảng 3.3. Kết quả bài kiểm tra của học sinh ở Trường THPT Xuân Khanh ........... 94
Bảng 3.4. Kết quả bài kiểm tra của học sinh ở Trung tâm GDTX Sơn Tây .. 94
Biểu đồ 3.1. Tổng hợp, thống kê kết quả bài kiểm tra của học sinh giữa lớp
thực nghiệm và lớp đối chứng ........................................................................ 95

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những
yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Một trong những định hướng
cơ bản của việc đổi mới giáo dục là phải có được những con người mới phát
triển toàn diện, năng động, sáng tạo có năng lực vận dụng kiến thức tổng hợp
vào xử lí các tình huống thực tiễn. Vì vậy, dạy học tích hợp trở thành một xu
thế tất yếu đã mang lại hiệu quả tích cực. Trong kế hoạch hoạt động của toàn
ngành giáo dục nhằm thực hiện Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo đã tiếp tục
khẳng định tính đúng đắn của việc xây dựng chương trình, SGK và tổ chức các

môn học mới theo định hướng tích hợp nhằm phát triển toàn diện năng lực người
học. Chương trình THPT môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ghi rõ:
“Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương
trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [3,
tr.27]. “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc
văn, Tiếng việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học;
quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình;
tích hợp trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo
viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh” [3, tr.40].
Việc đi sâu nghiên cứu về dạy học tích hợp và ứng dụng thể nghiệm tính
khả thi của nó trong thực tiễn dạy học của mỗi môn học, lớp học, bậc học sẽ góp
phần hiện thực hóa và thực hiện thành công đề án đổi mới giáo dục sắp tới.
1.2. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ văn có một vị trí vô cùng quan
trọng trong hệ thống giáo dục. Môn Ngữ văn là môn học về khoa học xã hội
và nhân văn, có nhiệm vụ cung cấp cho HS những kiến thức về tiếng Việt, văn
học và làm văn, hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt,
năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học. Bên cạnh đó dạy học văn nói chung và
phần làm văn nói riêng còn góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho
1


HS bởi “Văn học là nhân học”. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học để nâng
cao chất lượng giảng dạy, nâng cao khả năng tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm văn
học cho HS luôn được người làm công tác dạy Ngữ văn quan tâm.
1.3. Ngày nay, rèn luyện KNS cho thế hệ trẻ trong đó có HS THPT là trách
nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, người GV giữ vai
trò quyết định. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào
tạo đề ra. Giáo dục KNS để giúp các em làm chủ bản thân, thích ứng và biết
cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày;

mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự quyết định và lựa chọn
những hành vi đúng đắn và hơn hết dạy KNS là dạy những kĩ năng làm nên
phẩm chất của con người.Với đặc thù được coi là môn học công cụ, người GV
dạy văn có thể lồng ghép, tích hợp trong quá trình giảng dạy văn với giáo dục
và rèn KNS cho HS. Từ giờ học văn đó HS có thể rèn rũa cho mình thêm
những KNS như thuyết trình; kỹ năng tham gia và tổ chức các hoạt động tập
thể; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng nói trước đám đông...
1.4. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học hiện nay việc tích hợp giáo dục KNS
vào trong bộ môn Ngữ văn vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân là
do sự hạn chế về tài liệu hướng dẫn, từ chính tư duy, suy nghĩ của người
dạy… Vậy làm thế nào để việc lồng ghép, tích hợp giáo dục KNS cho HS
THPT đạt hiệu quả cao trong mỗi giờ dạy học văn là một băn khoăn trăn trở
đối với mỗi GV và đặc biệt là GV Ngữ văn.
Xuất phát từ những lý do trên và thông qua thực tiễn dạy học ở trường
phổ thông, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tổ chức dạy học phần Làm
văn (Ngữ văn 10, tập 2) theo hướng tích hợp giáo dục kĩ năng sống”
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột
của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận KNS, đó là: Học để
biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống.
2


KNS rất đa dạng và mang đặc trưng vùng miền. Việc sử dụng phương pháp và
KTDH cũng đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện dạy học cụ thể.
Trong đó có thể thấy dạy học tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện
đại đang được quan tâm, nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước
trên thế giới. Để tích hợp giáo dục KNS trong dạy học là một vấn đề cần
nghiên cứu nghiêm túc. Tuy còn nhiều khó khăn trong tìm kiếm và nghiên cứu
tài liệu nước ngoài nhưng từ những tài liệu thu thập được có thể khái quát

chung về tình hình nghiên cứu về KNS và tích hợp giáo dục KNS trong dạy
học hiện nay như sau:
2.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, thuật ngữ “Kĩ năng sống” đã xuất
hiện trong một số chương trình giáo dục của UNICEF (Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc), trước tiên là chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị
cơ bản của giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu về KNS trong giai đoạn
này với mong muốn thống nhất được một quan niệm chung về KNS cũng như
đưa đến một bảng danh mục các KNS cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần lớn
các chương trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về KNS theo
nghĩa hẹp, đồng nhất nó với các kĩ năng xã hội. Dự án do UNESCO (Tổ chức
Văn hóa, Giáo dục và Khoa học) tiến hành tại một số nước Đông Nam Á là
một trong những nghiên cứu có tính hệ thống và tiêu biểu cho hướng nghiên
cứu KNS nêu trên.
Các tổ chức WHO (Tổ chức Y tế thế giới), UNICEF, UNESCO đã
chung sức xây dựng chương trình giáo dục KNS cho thanh thiếu niên. Từ xuất
phát điểm này, một số nhà nghiên cứu như J.H.Fichter (nhà xã hội học người
Mỹ), P.Tugarinov (Liên Xô) hay Dramalier (Bungari) bắt đầu đề cập đến vấn
đề giá trị sống như những chuẩn mực trong giá trị đạo đức con người. Từ đây,
một số tài liệu nghiên cứu về vấn đề giáo dục KNS cho thanh thiếu niên ra đời
như: Tài liệu tập huấn về KNS của UNICEF (2004), Những hoạt động giá trị

3


sống cho thiếu niên (8 đến 14 tuổi) của Diane Tiuman [43], Tài liệu tập huấn
kĩ năng cơ bản trong tham vấn, G.Bandzeladze (1985).
Năm 1996, Uỷ ban Quốc tế về Giáo dục cho thế kỉ XXI do Jaccque
Delor làm chủ tịch đưa ra báo cáo nhằm khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục đối với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc, nhân loại và xem

giáo dục là “kho báu tiềm ẩn” với 4 vấn đề chính là mục tiêu hàng đầu của
UNICEF, mà thực chất đó chính là cách tiếp cận kĩ năng sống (KNS):
- Học để biết.
- Học để làm.
- Học để tự khẳng định mình.
- Học để cùng chung sống.

Giáo dục KNS cho HS là một trong những vấn đề mà hiện nay đang
được thế giới quan tâm:
Tại một số quốc gia, GDKNS được lồng ghép vào các môn học, chủ đề,
nội dung có liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc trên thực tế.
Chẳng hạn:
Ở Ruwanda: Giáo dục KNS hướng đến giáo dục lòng yêu hoà bình (giải
quyết xung đột, tự nhận thức, và tinh thần cộng đồng)
Ở Ma-rốc: Giáo dục KNS hướng đến các vấn đề như vệ sinh, các vấn đề
nổi cộm ở đô thị, bảo quản nguồn nước.
Ở Trung Quốc: Giáo dục KNS được lồng ghép vào các môn học trong
nhà trường về giáo dục đạo đức, giáo dục lao động và xã hội.
Ở Miến Điện: Dự án của UNICEF đã có tác động đối với giáo trình và
tiến trình giảng dạy cũng như học tập. Các chủ đề bao gồm: sức khoẻ, vệ sinh
cá nhân, sự phát triển thể chất, sức khoẻ tâm thần, phòng tránh các bệnh tiêu
chảy, rối loạn do thiếu iôt, lao phổi, sốt rét, và HIV/AIDS. Cùng với các chủ
đề là rèn luyện các kĩ năng như: kĩ năng ra quyết định, kĩ năng truyền thông
và tự diễn đạt, kĩ năng giao tiếp và hợp tác, khuyến khích lòng tự trọng, kĩ
năng xử lý cảm xúc và kĩ năng tư vấn.
4


Tổ chức UNIDEF đã tiến hành dự án ở 5 nước Đông Nam Á nhằm vào
các vấn đề khác nhau liên quan đến KNS. Dự án này chia làm 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Xác định quan niệm của từng nước.
- Giai đoạn 2: Đưa ra những chỉ dẫn đo đạc, đánh giá và xây dựng các
công cụ kiểm tra.
Ở một số quốc gia khác, GD KNS được lồng ghép vào các môn học,
chủ đề, nội dung có liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc trên thực tế.
Như vậy, việc giáo dục KNS cho HS là một vấn đề mà hiện nay được
quan tâm và thực hiện rộng rãi và trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia
trên thế giới.
KNS đã được giới nghiên cứu xã hội học trên thế giới quan tâm cách
đây gần ba thập kỉ và giáo dục KNS được thể nghiệm như là một hệ quả tất
yếu của quá trình nghiên cứu.
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội và xu thế hội nhập cùng phát
triển của quốc gia nên hệ thống giáo dục của các nước đã và đang thay đổi
theo định hướng khơi dậy và phát huy tối đa các tiềm năng của người học, đào
tạo một thế hệ năng động, sáng tạo, có những năng lực chủ yếu (như năng lực
thích ứng, năng lực tự hoàn thiện, năng lực hợp tác, năng lực hoạt động xã
hội…) để thích ứng với những thay đổi chóng mặt của xã hội. Theo đó, vấn đề
giáo dục KNS cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh phổ thông nói riêng được
đông đảo các nước quan tâm. Chương trình hành động DaKar về Giáo dục cho
mọi người (Senegal – 2000) đã đặt ra trách nhiệm của mỗi quốc gia phải đảm
bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục KNS phù hợp và
KNS được coi như một nội dung của chất lượng giáo dục.
Tại nhiều nước trên thế giới, thanh thiếu niên đã được học kĩ năng về
những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và đương đầu với
những khó khăn, và cách vượt qua những khó khăn đó cũng như cách tránh
những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực giữa người với người. Ví dụ, HS tiểu học
ở Nhật Bản được học cách đối phó, thích ứng với các tai nạn như động đất,
5



sóng thần, thiên tai, hỏa hoạn, đuối nước, giao thông. Tại Mỹ, việc dạy KNS
trở thành một phần tất yếu trong hầu hết các môn học, Ngữ văn cũng không
phải là ngoại lệ. Trong mỗi giờ học Văn, chương trình tích cực đưa Văn về với
cuộc sống, gần gũi và thực tế
Mặc dù, giáo dục KNS cho HS đã được nhiều nước quan tâm và cùng
xuất phát từ quan niệm chung về KNS của WHO hoặc của UNESCO, nhưng
quan niệm và nội dung giáo dục kĩ năng ở các nước không giống nhau. Ở một
số nước, nội hàm của khái niệm KNS chỉ gồm những khả năng tâm lí, xã hội.
Quan niệm, nội dung giáo dục KNS được triển khai ở các nước vừa thể hiện
cái chung vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác, ngay trong một
quốc gia, nội dung giáo dục KNS trong lĩnh vực giáo dục chính quy và không
chính quy cũng có sự khác nhau. Trong giáo dục chính quy ở một số nước,
những kĩ năng như đọc, viết, nghe, nói được coi là những KNS cơ sở. Trong
khi đó, giáo dục chính quy ở một số nước các KNS cơ bản lại được xác định
phong phú hơn theo các lĩnh vực quan hệ của cá nhân.
Do phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục KNS
nên những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song chưa
thật toàn diện và sâu sắc. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào tìm ra được kinh
nghiệm hoặc hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng KNS.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt
Nam từ những năm 1995–1996, thông qua dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ
sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà
trường” do UNICEF phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội
Chữ Thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan tổ chức trong
nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục KNS gắn với các vấn đề xã hội như:
Phòng chống ma túy, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ và
trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích học đường, bảo vệ môi

6



trường…Thông qua quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của khái
niệm KNS và giáo dục KNS ngày càng được mở rộng.
Cùng với việc triển khai các chương trình nêu trên, vấn đề KNS và giáo
dục KNS cho HS đã được quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu về vấn đề
trên ở giai đoạn này có xu hướng xác định những kĩ năng cần thiết ở các lĩnh
vực hoạt động mà thanh thiếu niên tham gia và đề xuất các biện pháp để hình
thành những kĩ năng này cho thanh thiếu niên (trong đó có HS THPT). Một số
chương trình nghiên cứu tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là: Cẩm nang
tổng hợp kĩ năng hoạt động thanh thiếu niên của tác giả Phạm Văn Nhân
(2003); Kĩ năng thanh niên tình nguyện của Trần Văn Thời (1998).
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ
thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là Nguyễn Thanh Bình. Với một
loạt các bài báo, các đề tài khoa học cấp Bộ và giáo trình, tài liệu tham khảo,
tác giả đã đóng góp đáng kể vào việc tạo ra những hướng nghiên cứu về KNS
và giáo dục KNS, cách tiếp cận KNS, các con đường giáo dục KNS cho HS
trong nhà trường.
Hiện nay, vấn đề giáo dục KNS đang được cả xã hội quan tâm. Mới chỉ
trong khoảng một thập niên trở lại đây, đã có rất nhiều các trung tâm giáo dục
KNS ra đời như Tâm Việt, TGM Corporation, Trung tâm KNS trực thuộc
trung ương hội khoa học tâm lí – Giáo dục Việt Nam… thu hút đông đảo giới
trẻ cũng như các bậc phụ huynh song tác dụng của các khóa học này có được
bền lâu hay không còn phụ thuộc nhiều vào sự tự rèn luyện của bản thân
người học. Ngoài ra, rất nhiều Website, các diễn đàn về KNS trên internet
cũng được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu của giới trẻ.
Đáp ứng nhu cầu thực tiễn về lí thuyết và phương pháp giáo dục KNS
cho HS, một số chương trình nghiên cứu đã ra đời như Giáo dục giá trị sống
và kĩ năng sống cho học sinh THCS (Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim
Thoa, Đặng Hoàng Minh) [29]. Trên cơ sở đặc điểm phát triển tâm lí HS

THCS, các tác giả cuốn sách đã xác định những giá trị sống và KNS cần thiết
7


cho lứa tuổi này. Từ đó, chỉ ra vai trò của mỗi kĩ năng và đề xuất một số hoạt
động giúp HS hình thành những KNS cho bản thân mình. Cuốn sách cũng đưa
ra một số trò chơi có tác dụng giáo dục giá trị sống và KNS cho HS. Tác giả
Bùi Ngọc Diệp với cuốn Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
đã nêu những vấn đề chung về KNS và các KNS cần giáo dục cho HS THPT,
hướng dẫn tổ chức những hoạt động, kèm theo một số câu chuyện giáo dục
KNS cho HS. Với cuốn sách Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh THPT [35] đã tập trung tìm hiểu KNS, mục tiêu của việc giáo dục KNS
cho HS, phương pháp xây dựng bài giảng KNS. Ngoài ra Nguyễn Công
Khanh, Nguyễn Thị Kim Liên với giáo trình Phương pháp giáo dục giá trị
sống, kĩ năng sống [25, 26] lại xây dựng các mô hình giáo dục giá trị sống,
KNS qua hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ của HS. Hai tác giả Lưu Thu Thủy và
Nguyễn Thị Hồng Vân cùng một số đồng tác giả cũng đã giới thiệu cuốn Giáo
dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông [41] là
một tài liệu dành cho GV gợi ý những KNS có thể tích hợp để dạy trong các
bài học cụ thể của chương trình Ngữ văn 10, 11, 12. Đã có một số công trình
khoa học nghiên cứu về việc giáo dục KNS cho HS có thể kể đến: Lê Kim
Anh (2011), Luận văn thạc sĩ sư phạm Ngữ văn, Tích hợp rèn kĩ năng sống
cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở trường trung học
cơ sở. Trường Đại học Giáo Dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn thạc
sĩ ngành Quản lí giáo dục của tác giả Nguyễn Hữu Đức (2010), Quản lí giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo Nam Định trong
giai đoạn hiện nay (Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp), Trường
Đại học Giáo Dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội. Và luận án tiến sĩ Giáo dục
học của Phan Thanh Vân, Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, Trường Đại học Thái Nguyên.

Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Đặc biệt giáo dục KNS cho HS
đã được chú trọng. Để giúp các nhà trường, GV thực hiện giáo dục KNS cho
8


HS có kết quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Viện khoa học Giáo dục
Việt Nam tổ chức biên soạn nhiều bộ tài liệu về giáo dục KNS cho HS qua
một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trong dạy học Ngữ Văn có
cuốn Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT [12]. Hai
cuốn sách đã đề cập đến tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho HS, từ đó
xây dựng những định hướng trong việc giáo dục KNS trong môn Ngữ văn và
các phương pháp, KTDH tích cực có thể rèn KNS cho HS. Tuy nhiên, những
công trình này mới chỉ đề cập đến giáo dục KNS cho học sinh THCS, THPT
một cách khái quát, chung chung.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã tổ chức
một số hội thảo về vấn đề giáo dục KNS cho HS, trong đó có chuyên đề dạy
Văn gắn với thực tiễn cuộc sống, với việc dạy làm người. Tại đây, các GV đã
thảo luận sôi nổi về vai trò và sứ mệnh của văn chương trong việc bồi dưỡng
nhân cách tâm hồn con người mà chưa đưa ra những phương pháp cụ thể để
tích hợp giáo dục KNS cho HS trong dạy học tác phẩm văn chương.
Về dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này. Tiêu biểu như “Những đổi mới của chương trình SGK và yêu
cầu dạy học Ngữ văn 10” (Nguyễn Thuý Hồng, Tạp chí Giáo dục, kỳ 2,
2006); “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn” (Nguyễn Thanh Hùng, Tạp chí
nghiên cứu khoa học Giáo dục, số 6 (3/2006); “Tích hợp và liên hội hướng tới
kết nối trong dạy học Ngữ văn” (Nguyễn Trọng Hoàn, Tạp chí Giáo dục, số
22, 2002).
Qua đây, có thể thấy được những kiến thức lí luận, những ví dụ minh hoạ
cùng với những giải pháp cụ thể trong dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn.

Đi sâu vào mảng kiến thức khoa học mà đề tài quan tâm, những công trình
nghiên cứu kể trên vai trò định hướng, mở đường.
Trên cơ sở của các công trình nghiên cứu đã có và tình hình dạy học Ngữ
văn đặc biệt là phân môn Làm văn trong chương trình THPT theo hướng tích
hợp giáo dục KNS, nhằm góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình dạy
9


học, đề tài: “Tổ chức dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) theo
hướng tích hợp giáo dục kỹ năng sống” mong muốn được đóng góp thêm
tiếng nói riêng của mình vào việc đổi mới phương pháp dạy học Làm văn tạo
ra những giờ học hấp dẫn sinh động và bổ ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận về KNS, giáo dục KNS và
phân tích thực trạng tích hợp giáo dục KNS cho HS trong dạy học Ngữ văn
nói chung và dạy học phần Làm văn nói riêng làm cơ sở khoa học, đề tài đề
xuất một số biện pháp mang tính khả thi trong việc tích hợp giáo dục KNS qua
dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) nhằm phát huy tính hữu dụng và
thiết thực của dạy học phần Làm văn trong việc hình thành và phát triển
những KNS cần thiết cho HS THPT. Từ đó, góp phần giáo dục nhân cách cho
HS, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KNS, giáo dục KNS, tích hợp
giáo dục KNS trong môn Ngữ văn ở THPT.
- Khảo sát thực trạng tích hợp giáo dục KNS cho HS qua dạy học phần
Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2 ) ở một số trường THPT.
- Khái quát đặc trưng, vị trí của phần Làm văn trong chương trình Ngữ
văn.
- Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục KNS cho HS qua dạy học

phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2).
- Thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của những đề xuất.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) cho HS lớp 10 theo
hướng tích hợp giáo dục KNS.

10


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phần Làm văn trong chương trình Ngữ văn 10, tập 2.
- Nghiên cứu một số KNS cơ bản có thể tích hợp giáo dục cho HS qua
dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng
xác định giá trị, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng nhận thức…
- Triển khai nghiên cứu thực tiễn và tổ chức thực nghiệm sư phạm tại
trường THPT Xuân Khanh, Trung tâm GDTX Sơn Tây - Thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và thực hiện được những mục tiêu mà luận văn
đã đặt ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được tiến hành chủ yếu khi xác định
cơ sở lí luận cho đề tài. Để giải quyết tốt các nhiệm vụ của luận văn cần
nghiên cứu lí thuyết về khoa học tích hợp, nghiên cứu một số lí luận về KNS
và giáo dục KNS, lí luận về dạy học bộ môn, quan điểm tích hợp trong
chương trình và SGK Ngữ văn 10. Do vậy, cần vận dụng kết quả nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau để có được sự
phân tích đầy đủ về những cơ sở khoa học của đề tài, trên cơ sở đó xác định
yêu cầu, tiêu chí và cách thức vận dụng tích hợp giáo dục KNS vào dạy học

phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2).
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát
Để có được bức tranh tổng thể về thực trạng KNS của HS và việc tích
hợp giáo dục KNS trong dạy học phần Làm văn , luận văn tiến hành điều tra,
khảo sát dựa trên những tài liệu thu thập được cũng như những kết quả thu
nhận được qua hồi cứu tài liệu. Trên cơ sở những dữ liệu có được, luận văn sử
dụng các phương pháp như thống kê, phân loại, xử lí và nhận xét.

11


5.3. Phương pháp thực nghiệm
Muốn khẳng định giá trị và khả năng thực thi của một công trình nghiên
cứu lí luận, cần phải đưa những nghiên cứu đó vào thực tiễn để kiểm chứng
hiệu quả. Với một đề tài khoa học về giáo dục thì thực nghiệm là khâu rất
quan trọng trong quy trình. Do vậy, việc thực nghiệm trong luận văn này
không phải chỉ như một phương pháp nghiên cứu mà còn là một nội dung nhất
thiết phải có.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn triển khai theo 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chƣơng 2. Thực trạng tích hợp giáo dục KNS và biện pháp tích hợp
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học phần Làm văn (Ngữ văn 10,
tập 2)
Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm

12



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Kĩ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi cho mọi
lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Ngay những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc (LHQ)
như WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ),
UNESCO (Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của LHQ) đã chung sức
xây dựng chương trình giáo dục KNS cho thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho
đến nay, khái niệm này vẫn nằm trong tình trạng chưa có một định nghĩa rõ
ràng và đầy đủ.
Theo WHO (Tổ chức Y tế thế giới): KNS là những kĩ năng thiết thực
mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là
những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp để tương tác
hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình
huống của cuộc sống hàng ngày [10, tr.7].
Theo UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc): KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân
bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng [10, tr.7].
Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO)
quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức
năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, đồng thời coi KNS gắn với 4 trụ
cột của giáo dục, đó là: Học để biết (learning to know); Học để tự khẳng định
(Learning to be); Học để chung sống với người khác (Learning to live
together); Học để làm (Learning to do) [10, tr.7].
Từ các quan niệm về KNS nêu trên, có thể rút ra nhận xét:

13



- Có nhiều cách biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác
nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề. Khái niệm KNS được hiểu theo nghĩa hẹp
chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội (TLXH). Theo nghĩa rộng, KNS
không chỉ bao gồm năng lực tâm lý xã hội mà còn bao gồm cả những kĩ năng
tâm vận động.
- Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau (việc xác định nội
hàm của khái niệm nông, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái
niệm rộng, hẹp khác nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về
KNS là: khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kĩ năng theo nghĩa
rộng) chứ không thuộc phạm trù kĩ thuật của hành động, hành vi (hiểu kĩ năng
theo nghĩa hẹp).
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về KNS
đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào nghề, cách học
ngoại ngữ, kỹ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên cần phân biệt
giữa những kỹ năng để sống còn (livelihood skills, survival skills) như học
chữ, học nghề, làm toán, v.v... tới bơi lội, v.v... với khái niệm KNS đã được đề
cập ở các định nghĩa nêu trên.
Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng
khu vực và từng quốc gia. Ở một số nước, KNS được hướng vào giáo dục vệ
sinh, dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nước khác KNS lại hướng vào giáo
dục hành vi và cách ứng xử , giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường
hay giáo dục lòng yêu hòa bình. Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho thanh
thiếu niên ở các nước cũng khác nhau. Có nước chỉ hạn chế những KNS cần
cho lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, phòng tránh các tệ nạn xã hội, nghĩa là KNS chỉ
dành cho một số nhóm đối tượng có nguy cơ cao để đương đầu với những
thách thức của xã hội, KNS không phải là cần cho mọi người. Nhưng ở một số
nước khác, sự nhận thức về KNS sâu sắc hơn, do đó, KNS được phát triển cho
mọi đối tượng để với những KNS đó con người có thể vận dụng vào giải quyết

các vấn đề xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống khác nhau của
14


từng loại đối tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử dụng khái niệm KNS
của UNESCO (sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt
động phát triển KNS cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu
niên. Điều này được lý giải bởi hai lý do: Thứ nhất, nếu hiểu KNS theo nghĩa
hẹp là đồng nhất KNS với năng lực TLXH do đó làm giảm đi phạm vi ảnh
hưởng cũng như tác dụng của KNS. Năng lực TLXH đề cập tới khả năng của
con người biểu hiện những cách ứng xử đúng hoặc chính xác khi tương tác với
người khác trong các tình huống khác nhau của môi trường xung quanh dựa
trên nền văn hóa nào đó. Nhưng, điều cần lưu ý là, con người không chỉ cần
có năng lực thích ứng với những thách thức của cuộc sống mà con người còn
cần và phải biết cách thay đổi một cách phù hợp và mang tính tích cực; Thứ
hai, khái niệm KNS theo nghĩa rộng đã bao hàm trong nó năng lực TLXH với
ý nghĩa là thành phần có vai trò chung trong việc hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần
và sức khỏe thể chất, giúp cá nhân sống hạnh phúc với những người khác
trong xã hội. Bên cạnh đó, theo nghĩa rộng, khái niệm KNS còn đề cập đến
khả năng con người quản lý được các tình huống rủi ro, không chỉ đối với bản
thân mà còn có thể gây ảnh hưởng đến mọi người trong việc chấp nhận các
biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Đây chính là khả năng con người quản lý một
cách thích hợp bản thân, người khác và xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Với
phân tích nêu trên, tác giả luận văn sử dụng khái niệm KNS trong nghiên cứu
luận văn với nội hàm: “khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù
hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu
quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày”. Do tiếp cận
kĩ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách phân loại KNS. Theo
tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình [8, tr.4], tồn tại các cách phân loại
KNS như sau:

- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe. Theo cách phân loại này có
3 nhóm KN:

15


Nhóm 1: nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng, cụ thể: tư duy
phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân tích, khả năng
sáng tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị...
Nhóm 2: các kĩ năng đương đầu với xúc cảm, gồm các kĩ năng cụ thể: ý
thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế được cảm xúc,
tự quản lí, tự giám sát và tự điều chỉnh.
Nhóm 3: nhóm kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tương tác) với các kĩ năng
thành phần: giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm
thông chia sẻ, khả năng nhận thấy thiện cảm của người khác.
- UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm nêu trên mới chỉ
dừng ở các KNS chung, trong khi đó, còn có những KNS thể hiện trong những
vấn đề cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế, UNESCO đề xuất thêm
các KNS như: vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng; các vấn đề
về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; ngăn ngừa và chăm sóc người bệnh
HIV/AIDS; phòng tránh rượu, thuốc lá và ma túy; phòng ngừa thiên tai, bạo
lực và rủi ro; hòa bình và giải quyết xung đột; gia đình và cộng đồng; giáo dục
công dân; bảo vệ thiên nhiên và môi trường; phòng chống buôn bán trẻ em và
phụ nữ.
- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống
và tự hoàn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá
nhân với các nhóm KNS:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ
năng: kĩ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm
xúc, đương đầu với căng thẳng.

+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác, với các kĩ năng
thành phần: kĩ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng
vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng,
giao tiếp có hiệu quả.

16


+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kĩ năng: tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề. Những cách
phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có giá trị trong nghiên
cứu phát triển lý luận về KNS và chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế, các
KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào một tình huống
cụ thể, con người cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng khác nhau. Ví dụ, khi cần
quyết định một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng những kĩ năng như: kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo và kĩ
năng kiên định, …
Kết quả nghiên cứu về KNS của nhiều tác giả, đã khẳng định: “dù phân
loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt lõi như:
kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc,
căng thẳng; kĩ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực; kĩ năng tự nhận
thức, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đặt mục tiêu...” [8, 9,10,11,25,42]. Thống
nhất với quan niệm này, tác giả luận văn đã giới hạn các KNS được nghiên
cứu trong luận văn để giáo dục cho học sinh THPT thông qua tổ chức dạy
phần Làm văn (Ngữ văn 10, tập 2) gồm các kĩ năng: kĩ năng xác định giá trị,
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng và kĩ năng giải
quyết mâu thuẫn một cách tích cực… Tác giả giới hạn các KNS này để nghiên
cứu nhằm giáo dục cho HS THPT thông qua các bài học Làm văn (Ngữ văn
10, tập 2) vì đây là một số KNS chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ về nội
dung, phương pháp và hình thức giáo dục cho HS nói chung, HS THPT nói

riêng; mặt khác, tác giả luận văn đã tích lũy được một số kinh nghiệm (kể cả
một số nghiên cứu đã có của tác giả luận văn) về các kĩ năng này. Đây cũng là
một trong những lí do để tác giả lựa chọn đề tài luận văn.
1.1.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở
cấp độ xã hội và cấp độ nhà trường. Ở cấp độ nhà trường, khái niệm giáo dục
chỉ quá trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực
17


hiện thông qua các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là những hoạt
động do các cơ sở giáo dục (trường học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện
theo kế hoạch, chương tình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm
về chúng. Trong các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và chủ
đạo không chỉ trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường. Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và
chức năng chủ đạo trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục
được tổ chức có định hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường hoạt
động và giao tiếp có định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt động
giáo dục, người học tiến hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc
chung, những mục tiêu chung, những chuẩn mực giá trị chung và những biện
pháp chung, nhờ vậy họ được giáo dục theo những tiêu chí chung (tuy hoạt
động của mỗi người luôn diễn ra ở cấp độ cá nhân). KNS được hình thành
thông qua quá trình xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những
hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị,
thái độ và kĩ năng thích hợp. Do vậy, KNS phải được hình thành cho HS
thông qua con đường đặc trưng - hoạt động giáo dục. Theo UNICEF, giáo dục
dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành
vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành vi. Từ nội hàm của khái
niệm KNS (khái niệm KNS đã được tác giả luận văn lựa chọn) và quan niệm

về hoạt động giáo dục đã trình bày ở trên, tác giả luận văn quan niệm: Giáo
dục KNS là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ chức,
điều khiển để HS biết cách chuyển dịch kiến thức (cái HS biết) và thái độ, giá
trị (cái HS nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động thực tế (làm gì và làm
cách nào) một cách tích cực và mang tính chất xây dựng. Giáo dục KNS cho
HS là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây
dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với
mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp HS có
tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
18


×