Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.95 KB, 53 trang )

Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ bán
hàng ở các doanh nghiệp thương mại
trong nền kinh tế thị trường
Biên tập bởi:
Nguyễn Thị Lệ Thuỷ


Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ bán
hàng ở các doanh nghiệp thương mại
trong nền kinh tế thị trường
Biên tập bởi:
Nguyễn Thị Lệ Thuỷ
Các tác giả:
Nguyễn Thị Lệ Thuỷ

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
2. Hoạt động của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
3. Yêu cầu quản lý nghiệp vụ bán hàng
4. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng
5. Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
6. Các phương thức thanh toánt
7. Kế toán chi tiết nghiệp vụ bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại
8. Kế toán giá vốn hàng bán
9. Chứng từ sử dụng
10. Tài khoản sử dụng
11. Hạch toán nghiệp vụ bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại áp dụng phương
pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho


12. Hạch toán nghiệp vụ bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại áp dụng phương
pháp KKĐK để hạch toán HTK
13. Kế toán thuế GTGT
14. Hệ thống sổ sách kế toán
Tham gia đóng góp

1/51


Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Thị trường.
Thị trường là nơi mua bán trao đổi các loại hàng hoá; nói cách khác đây là nơi gặp gỡ
giữa cung và cầu. Thị trường cũng là nơi tập trung nhiều nhất các mâu thuẫn của nền
kinh tế, là nơi khởi điểm và kết thúc của quá trình kinh doanh.
Trong thị trường, giá cả là phạm trù trung tâm, là bàn tay vô hình điều tiết và kích thích
nền sản xuất của xã hội. Thông qua giá cả thị trường, thị trường thực hiện các chức năng
điều tiết và kích thích của mình trong đó cung- cầu là hai phạm trù kinh tế lớn bao trùm
lên thị trường, quan hệ cung- cầu trên thị trường đã quyết định giá cả trên thị trường.
Kinh tế thị trường.
Khái niệm kinh tế thị trường.
Cùng với lịch sử phát triển của loài người thì kinh tế xã hội cũng có bước tiến phù hợp.
Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái kinh tế cao hơn đó là kinh tế
hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tới nay
nó đã phát triển và đạt tới trình độ cao đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó các quan hệ kinh tế, phân
phối sản phẩm , lợi ích đều do các quy luật của thị trường điều tiết, chi phối.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường mà cơ chế thị
trường là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản, vận động dưới sự chi phối của quy luật
thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục đích sinh lợi.

Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp không thể làm
thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường. Qua thị trường doanh
nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được mình làm ăn hiệu quả không.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp biểu
hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của từng thành
viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả
thị trường.

2/51


Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng nguồn
tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản được giải quyết khách
quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết định sự tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi cách để thu hút thoả mãn
nhu cầu của khách hàng với phương trâm “khách hàng là thượng đế”.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ trở thành thước
đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền kinh tế thị trường
luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng hoá, dịch vụ, hạn chế xảy ra
khan hiếm hàng hoá.
Vai trò của kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường
tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và nâng
cao chất lượng cuộc sống. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế,
các doanh nghiệp và người tiêu dùng lựa chọn lĩnh vực hoạt động, định ra các phương

án kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự do lựa chọn sản
xuất kinh doanh nằm trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Qua đó ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp được các loại hoạt động, trí
tuệ và tiềm lực của hàng loạt con người nhằm hướng tới lợi ích chung của xã hội đó là:
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng xuất lao động, tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng nền
kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó
cũng chứa đựng đầy mâu thuẫn phức tạp. Vì vậy, để khắc phục được và hạn chế những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ vào
nền kinh tế thị trường.

3/51


Hoạt động của doanh nghiệp thương mại
trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp thương mại cũng mang
những đặc điểm của thương mại thị trường.
Các doanh nghiệp thương mại đều phải tuân thủ theo giá cả thị trường (là hình thức biểu
hiện của giá trị thị trường). Quy luật cung- cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh là
những yếu tố quyết định tới giá cả thị trường.
Trên thị trường, người bán hàng muốn bán với giá cả cao còn người người mua lại muốn
mua với giá thấp. Do đó phải thông qua giá cả thị trường để điều hoà lợi ích giữa người
mua và người bán. Giá này có xu hướng tiến tới giá bình quân(giá mà tại đó mức cung
bằng mức cầu).
Thương mại tự do có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các doanh nghiệp được tự do
kinh doanh các mặt hàng (trừ các mặt hàng nhà nước cấm); các doanh nghiệp hoạt động
trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, người mua có quyền lựa chọn người bán
còn người bán bán gì, bán như thế nào phụ thuộc vào khả năng của mình. Khi chuyển

sang cơ chế thị trường, nhà nước chủ trương hình thành nền kinh tế đa thành phần, Nhà
nước khuyến khích các thành phần kinh tế hoạt động trên cơ sở tuân thủ theo pháp luật.
Lợi nhuận là mục đích chủ yếu taọ ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và cũng do
sự cạnh tranh này mà thị trường ngày càng phát triển.

4/51


Yêu cầu quản lý nghiệp vụ bán hàng
Yêu cầu quản lý nghiệp vụ bán hàng
Nghiệp vụ bán hàng tiêu thụ hàng hoá liên quan đến từng khách hàng, từng phương thức
thanh toán và từng mặt hàng nhất định.Do đó, công tác quản lý nghiệp vụ bán hàng đòi
hỏi phải quản lý các chỉ tiêu như quản lý doanh thu, tình hình thay đổi trách nhiệm vật
chất ở khâu bán, tình hình tiêu thụ và thu hồi tiền, tình hình công nợ và thanh toán công
nợ về các khoản thanh toán công nợ về các khoản phải thu của người mua, quản lý giá
vốn của hàng hoá đã tiêu thụ…quản lý nghiệp vụ bán hàng cần bám sát các yêu cầu sau:
+ Quản lý sự vận động của từng mặt hàng trong quá trình xuất- nhập- tồn kho trên các
chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị
+ Nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng,từng thể thức thanh toán,từng
khách hàng và từng loại hàng hoá tiêu thụ
+ Đôn đốc thanh toán, thu hồi đầy đủ tiền hàng.
+Tính toán xác định từng loại hoạt động của doanh nghiêp.
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ quy định.

5/51


Nhiệm vụ của kế toán bán hàng
Nhiệm vụ của kế toán bán hàng
Hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý kinh doanh, nó là công

cụ quan trọng phục vụ cho công tác điều hành và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh,
quản lý vốn của các doanh nghiệp. Đồng thời nó là nguồn thông tin số liệu tin cậy để
nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, kiểm tra, kiểm soát của các ngành các
lĩnh vực. Do đó, kế toán bán hàng cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Ghi chép phản ánh kịp thời đầy đủ và chính xác tình hình bán hàng của doanh nghiệp
cả về giá trị và số lương hàng bán trên từng mặt hàng, từng địa điểm bán hàng, từng
phương thức bán hàng.
Tính toán và phản ánh chính xác tổng giá tính toán của hàng bán ra bao gồm cả doanh
thu bán hàng, thuế giá trị gia tăng đầu ra của từng nhóm hàng, từng hoá đơn khách hàng,
từng đơn vị trực thuộc( theo các của hàng, quầy hàng…).
Xác định chính xác giá mua thực tế của lượng hàng đã tiêu thụ đồng thời phân bổ phí
thu mua cho hàng tiêu thụ nhằm xác định hiệu quả bán hàng.
Kiểm tra, đôn đốc tình hình thu hồi và quản lý tiền hàng, quản lý khách nợ theo dõi chi
tiết theo từng khách hàng, lô hàng số tiền khách nợ, thời hạn và tình hình trả nợ…
Tập hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản chi phí bán hàng, thực tế phát sinh và kết
chuyển (hay phân bổ), cho phép bán hàng cho hàng tiêu thụ làm căn cứ để xác đinh kết
quả kinh doanh.
Cung cấp thông tin cần thiết về tình hình bán hàng, phục vụ cho việc chỉ đạo và điều
hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Tham mưu cho lãnh đạo về các giải pháp để thúc đẩy quá trình bán hàng

6/51


Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh
nghiệp thương mại
Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
Bán hàng là khâu cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thương mại. Thông qua bán hàng , giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực
hiện: vốn của doanh nghiệp thương mại đươc chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái

giá trị, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra,bù đắp được chi phí và có nguồn tíc luỹ để
mở rộng kinh doanh. Nghiệp vụ bán hàng của doanh nghiệp thương mại có đặc điểm cơ
bản như sau:
Phương thức và hình thức bán hàng :
Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có thể bán hàng theo nhiều phương thức khác
nhau: bán buôn, bán lẻ, ký gửi, đại lý…trong mỗi phương thức lại có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Bán buôn
Bán buôn hàng hoá là phương thức bán hàng chủ yếu của các đơn vị thương mại, các
doanh nghiệp sản xuất…để thực hiện bán ra hoặc để gia công chế biến. Đặc điểm của
hàng bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, chưa đưa vào lĩnh vực
tiêu dùng, do vậy giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa được thực hiện. Hàng hoá
thường được bán buôn theo lô hoặc được bán với số lượng lớn, giá biến động tuỳ thuộc
vào khối lượng hàng bán và phương thức thanh toán.Trong bán buôn thường bao gồm 2
phương thức:
a. Bán buôn hàng hoá qua kho:
Bán buôn hàng hoá qua kho là phương thức bán buôn hàng hoá mà trong đó hàng phải
được xuất từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho có thể thực
hiện dưới 2 hình thức:
* Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp.
Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho của bên bán để nhận hàng. Doanh
nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi đại
diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hoặc chứng nhận nợ, hàng hoá được xác
định là tiêu thụ.

7/51


* Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng.
Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết hoặc theo đơn đặt hàng doanh nghiệp

thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện của mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển
hàng đến kho của bên mua hoặc một địa điểm mà bên mua quy định trong hợp đồng.
Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của bên doanh nghiệp thương mại, chỉ khi
nào được bên mua kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng chuyển
giao mới được coi là tiêu thụ; người bán mất quyền sở hữu số hàng đã giao. Chi phí vận
chuyển do doanh nghiệp thương mại chịu hay bên mua chịu là do sự thoả thuận từ trước
giữa hai bên. Nếu doanh nghiệp thương mại chịu chi phí vận chuyển, sẽ được tính vào
chi phí bán hàng. Nếu bên mua chịu chi phí vận chuyển, sẽ phải thu tiền của bên mua.
b. Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng.
Doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua không đưa về nhập kho mà
chuyển bán thẳng cho bên mua. Phương thức này có thể thực hiện theo hai hình thức:
* Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp
Doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại diện của bên mua tại
kho người bán. Sau khi giao, nhận, đại diện bên mua ký nhận đủ hàng bên mua đã thanh
toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
* Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng.
Theo hình thức chuyển hàng này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng nhận hàng
mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng đến giao cho
bên mua ở địa điểm đã được thoả thuận. Hàng hoá chuyển bán trong trường hợp này
vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại. Khi nhận tiền của bên mua thanh
toán hoặc giấy báo của bên mua đã nhận đươc hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng
hoá chuyển đi mới được xác định là tiêu thụ.
Bán lẻ.
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, các đơn vị kinh
tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo
phương thức này có đặc điểm là hàng hoá đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh
vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đã được thưc hiện. Bán lẻ thường
bán đơn chiếc hoặc số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Bán lẻ có thể thực hiện dưới
các hình thức sau:
a. Bán lẻ thu tiền tập trung.


8/51


Đây là hình thức bán hàng mà trong đó, tách rời nghiệp vụ thu tiền của người mua và
nghiệp vụ giao hàng cho người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm
nhiệm vụ thu tiền của khách; viết các hoá đơn hoặc tích kê cho khách để khách đến nhận
hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca bán hàng, nhân viên bán hàng căn
cứ vào hoá đơn và tích kê giao hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác
định số lượng hàng đã bán trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Nhân viên thu tiền làm
giấy nộp tiền và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.
b. Bán lẻ thu tiền trực tiếp.
Theo hình thức này, nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách và giao hàng cho
khách. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho
thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong
ca, trong ngày và lập báo bán hàng.
c. Bán lẻ tự phục vụ (tự chọn)
Khách hàng tự chọn lấy hàng hoá, mang đến bàn tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân
viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng. Nhân
viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và quản lý hàng hoá ở quầy hàng
do mình phụ trách.
d. Hình thức bán trả góp
Theo hình thức này, người mua hàng được trả tiền mua hàng thành nhiều lần cho doanh
nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán thông thường còn thu thêm người mua
một khoản lãi do trả chậm.Về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua
thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho người mua,
hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
e. Hình thức bán hàng tư động
Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng hoá mà trong đó, các doanh nghiệp thương
mại sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một vài loại hàng

nào đó đặt ở các nơi công cộng khách hàng sau khi bỏ tiền vào máy, máy tự động đẩy
hàng cho người mua.
Phương thức gửi hàng đại lý bán hay ký gửi hàng hoá
Đây là phương thức bán hàng mà trong đó, doanh nghiệp thương mại giao hàng cho cơ
sở đại lý, ký gửi để cho cơ sở này trực tiếp bán hàng, bên nhận làm đại lý ký gửi sẽ trực
tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và được hưởng hoa hồng đại lý bán, số hàng chuyển
giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn thuộc về doanh nghiệp thương mại cho đến khi
doanh nghiệp thương mại được cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh
9/51


toán hoặc thông báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu số
hàng này.
Phạm vi hàng hoá đã bán
Hàng hoá được coi là đã hoàn thành việc bán trong doanh nghiệp thương mại, được ghi
nhận doanh thu bán hàng phải đảm bảo các điều kiện nhất định. Theo quy định hiện
hành, được coi là hàng hoá đã bán phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Hàng hoá phải được thông qua quá trình mua bán và thanh toán theo một phương thức
nhất định.
+ Hàng hoá phải được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp thương mại (bên bán) sang
bên mua và doanh nghiệp thương mại đã thu được tiền hay một loaị hàng hoá khác hoặc
được người mua chấp nhận nợ.
+ Hàng hoá bán ra phụ thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp do doanh nghiệp mua
vào hoặc gia công, chế biến hay nhận vốn góp, cấp phát tặng thưởng.
* Ngoài ra các trường hợp sau đây cũng được coi là hàng bán:
+ Hàng hoá xuất để đổi lấy hàng hoá khác (hàng đối lưu).
+ Hàng hoá xuất để trả lương, thưởng cho công nhân viên, thanh toán thu nhập cho các
thành viên của doanh nghiệp.
+ Hàng hoá xuất làm quà biếu tặng, quảng cáo, chào hàng…
+ Hàng hoá xuất dùng trong nội bộ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Hàng hoá hao hụt, tổn thất trong khâu bán do bên mua chịu.
Thời điểm ghi nhận doanh thu
Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu về sản phẩm hàng
hoá, lao vụ từ người bán sang người mua. Nói cách khác, thời điểm ghi nhận doanh thu
là thời điểm người mua trả tiền cho người bán hay người mua chập nhận thanh toán số
hàng hoá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ …mà người bán đã chuyển giao.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (chuẩn mực số 14), doanh thu bán hàng được ghi
nhận khi đồng thời thoả mãn 5 điều kiện:
+ Người bán đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyến sở hữu sản
phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
10/51


+ Người bán không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá
hoặc kiểm soát hàng hoá.
+ Doanh thu đươc xác định tương đối chắc chắn.
+ Người bán đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
+Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

11/51


Các phương thức thanh toánt
Các phương thức thanh toán
Sau khi giao hàng cho bên mua và nhận được chấp nhận thanh toán bên bán có thể nhận
tiền hàng theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ vào sự tín nhiệm thoả thuận giữa 2
bên mà lựa chọn các phương thức thanh toán cho phù hợp. Hiện nay các doanh nghiệp
thương mại có thể áp dụng 2 phương thức thanh toán:
Thanh toán trực tiếp
Sau khi khách hàng nhận đươc hàng, khách hàng thanh toán ngay tiền cho doanh nghiệp

thương mại có thể bằng tiền mặt hoặc bằng tiền tạm ứng, bằng chuyển khoản hay thanh
toán bằng hàng( hàng đổi hàng).
Thanh toán trả chậm
Khách hàng đã nhận được hàng nhưng chưa thanh toán tiền cho doanh nghiệp thương
mại. Việc thanh toán trả chậm có thể thực hiện theo điều kiện tín dụng ưu đãi theo thoả
thuận. Chẳng hạn điều kiện “1/10, n/20”, có nghĩa là trong 10 ngày đầu tiên kể từ ngày
chấp nhận nợ, nếu người mua thanh toán công nợ sẽ được hưởng chiết khấu 10%, kể từ
ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 người mua phải thanh toán toàn bộ công nợ là n. Nếu 20
ngày mà người mua chưa thanh toán nợ thì họ sẽ phải chịu lãi suất tín dụng.

12/51


Kế toán chi tiết nghiệp vụ bán hàng trong
các doanh nghiệp thương mại
Kế toán chi tiết nghiệp vụ bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại
Kế toán chi tiết bán hàng đòi hỏi phản ánh cả về giá trị, số lượng, chất lượng của từng
mặt hàng theo từng kho và từng người phụ trách. Thực tế hiện nay có 3 phương pháp kế
toán chi tiết hàng hoá sau:
Phương pháp thẻ song song.
Phương pháp thẻ song song là phương pháp mà tại kho và tại bộ phận kế toán bán hàng
đều cùng sử dụng thẻ để ghi số sản phẩm, hàng hoá.
Tại kho: thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn hàng hoá về số
lượng. Mỗi chứng từ ghi vào một dòng của thẻ kho. Thẻ kho được mở cho từng địa điểm
bán hàng. Cuối tháng, thủ kho tiến hàng tổng cộng số nhập-xuất, tính ra số tồn kho về
mặt số lượng theo từng danh điểm hàng hoá.
Tại phòng kế toán: kế toán bán hàng mở thẻ chi tiết cho từng danh điểm hàng hoá tương
ứng với thẻ kho mở ở kho. Thẻ này có nội dung tương tự thẻ kho chỉ khác là theo dõi cả
về mặt giá trị hàng ngày hoặc định kỳ, khi nhận được các chứng từ nhập- xuất kho do
thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán bán hàng phải kiểm tra đối chiếu ghi đơn giá hạch

toán vào và tính ra số tiền, sau đó lần lượt ghi các nghiệp vụ nhập, xuất vào các thẻ kế
toán chi tiết hàng hoá có liên quan. Cuối tháng tiến hành cộng thẻ và đối chiếu với thẻ
kho.
Để thực hiện đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và chi tiết, kế toán phải căn cứ vào các
thẻ kế toán chi tiết để lập bảng tổng hợp nhập- xuất- tồn kho về mặt giá trị của từng loại
hàng hoá. Số liệu của bảng này được đối chiếu với số liệu của phần kế toán tổng hợp.
Ngoài ra, để quản lý chặt chẽ thẻ kho, nhân viên kế toán bán hàng còn mở sổ đăng ký
thẻ kho, khi giao thẻ kho cho thủ kho, kế toán phải ghi vào sổ.

13/51


Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
Trong phương pháp này, tại kho thủ kho sử dụng thẻ kế toán chi tiết hàng hoá giống
phương pháp thẻ song song.Tại phòng kế toán, kế toán không mở thẻ chi tiết mà mở sổ
đối chiếu luân chuyển để hạch toán số lượng và số tiền từng danh điểm bán hàng theo
từng kho. Sổ này ghi mỗi tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở chứng từ nhập, xuất
phát sinh trong tháng của từng hàng hoá, mỗi thứ chỉ ghi một dòng trong sổ. Cuối tháng
đối chiếu số lượng hàng hoá trên sổ luân chuyển với thẻ kho, đối chiếu số tiền với kế
toán tổng hợp.
14/51


Phương pháp sổ số dư
Theo phương pháp sổ số dư, tại kho công việc của thủ kho giống như hai phương pháp
trên. Ngoài ra theo định kỳ, sau khi ghi thẻ kho kế toán lập phiếu giao nhận chứng từ và
nộp cho kế toán kèm theo các chứng từ nhập, xuất hàng hoá.
Ngoài ra thủ kho còn phải ghi số lượng hàng hoá tồn kho cuối tháng theo từng danh
điểm hàng hoá vào sổ số dư. Sổ số dư đươc kế toán mở cho từng kho và dùng cho cả
năm , trước ngày cuối tháng kế toán giao cho thủ kho để ghi vào sổ. Ghi xong thủ kho

phải gửi vào phòng kế toán và tính thành tiền.
15/51


Tại phòng kế toán: nhân viên kế toán theo định kỳ phải xuống kho để hướng dẫn và
kiểm tra việc ghi chép thẻ kho của thủ kho và thu nhận chứng từ. Khi nhận được chứng
từ, kế toán kiểm tra và tính giá theo từng chứng từ ( giá hạch toán) tổng cộng số tiền và
ghi vào cột số tiền trên phiếu giao nhận chứng từ.
Đồng thời ghi số tiền vừa tính được của từng mặt hàng (nhập riêng, xuất riêng) vào bảng
luỹ kế nhập-xuất-tồn kho hàng hoá. Bảng này được mở cho từng kho, mỗi kho một tờ
được ghi trên cơ sở các phiếu giao nhận chứng từ nhập, xuất hàng hoá.
Tiếp đó cộng số tiền nhập , xuất trong tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính ra số dư
cuối tháng của từng mặt hàng. Số dư này được dùng để đối chiếu với số dư trên sổ số
dư.

16/51


17/51


Kế toán giá vốn hàng bán
Kế toán giá vốn hàng bán
Tính giá hàng hoá về thực chất là việc xác định giá trị ghi sổ của hàng hoá. Theo quy
định hàng hoá được tính theo giá thực tế (giá gốc) tức là hàng hoá khi nhập kho hay xuất
kho đèu được phản ánh trên sổ sách theo giá thị trường.
Giá gốc ghi sổ của hàng hoá được tính như sau:
Giá thực tế ghi sổ gồm giá trị mua của hàng hoá (giá mua ghi trên hoá đơn của người
bán đã đươc trừ vào chi phí thương mại và giảm giá hàng mua được hưởng, cộng các
chi phí gia công, hoàn thiện và cộng các loại thuế không được hoàn lại) và các chi phí

thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí bao bì, chi phí thu nua, chi phí thuê
kho thuê bãi, tiền phạt lưu hàng, lưu kho, lưu bãi….).
Để xác định giá thực tế (giá gốc) ghi sổ của hàng hoá xuất kho trong kỳ, tuỳ theo đặc
điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý trình độ nghiệp
vụ kế toán có thể sử dụng một số phương pháp sau đây theo nguyên tắc nhất quán, nếu
thay đổi phương pháp phải giải thích rõ ràng.
Phương pháp giá đơn vị bình quân
Theo phương pháp này, giá gốc hàng hoá xuất trong thời kì được tính theo giá đơn vị
bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước, bình quân mỗi lần nhập).

1. Phương pháp đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
Phương pháp này đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao, hơn nữa công việc
tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng tới công tác quyết toán nói chung

18/51


b. Phương pháp đơn vị bình quân cuối kỳ trước
Phương pháp này khá đơn giản, phản ánh kịp thời biến động của hàng hoá tuy nhiên
không chính xác vì không tính đến sự biến động của hàng hoá kỳ này.

c. Phương pháp giá đơn vị sau mỗi lần nhập.
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên, laị vừa chính
xác vừa cập nhật. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều công và phải tính toán
nhiều lần.

Phương pháp nhập trước- xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này giả thiết rằng hàng hoá nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết
số nhập trước rồi mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất.
Nói cách khác, cơ sơ của phương pháp này là giá gốc của hàng hoá mua trước sẽ được

dùng làm giá để tính giá hàng hoá mua trước. Do vậy, giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ sẽ
là giá thực tế của hàng hoá mua vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường
hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
Phương pháp nhập sau- xuất trước (LIFO)
Phương pháp này giả định những hàng hoá mua sau cùng được xuất trước tiên. Phương
pháp này thích hợp trong trường hợp lạm phát.
Phương pháp giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này, hàng hoá được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và
giữ nguyên từ lúc nhập kho cho đến lúc xuất dùng. Khi xuất hàng hoá sẽ tính theo giá
gốc. Phương pháp này thường sử dụng với các loại hàng hoá có giá trị cao và có tính
tách biệt.

19/51


Chứng từ sử dụng
Chứng từ sử dụng
Tuỳ theo phương thức, hình thức bán hàng, hạch toán bán hàng sử dụng các chứng từ kế
toán sau
+ Hoá đơn giá trị gia tăng hay hoá đơn bán hàng.
+ Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ.
+ Phiếu xuất kho hàng gửi bán đại lý.
+ Báo cáo bán hàng, bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, bảng thanh toán hàng đại lý ( ký
gửi).
+ Thẻ quầy hàng, giấy nộp tiền, bảng kê nhận hàng và thanh toán hàng ngày.
+Hoá đơn bán lẻ
+Các chứng từ khác có liên quan( chứng từ đặc thù như tem, vé, thẻ in sẵn mệnh giá…)

20/51



Tài khoản sử dụng
Tài khoản sử dụng
Để phản ánh các khoản liên quan giá bán, doanh thu và các hoá đơn khoản ghi giảm
doanh thu về bán hàng cùng với doanh thu thuần về bán hàng, kế toán sử dung các khoản
sau đây:
TK 511 “doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ”
TK này dùng để phản ánh tổng doanh thu bán hàng thực tế cùng các khoản giảm trừ
doanh thu. Từ đó xác định DTT trong kỳ của doanh nghiệp. Nội dung ghi chép của tài
khoản như sau:
Bên nợ
+ Khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại khi bán hàng và doanh thu bán hàng
bị trả lại.
+ Số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp
phải nộp tính theo DTBH thực tế.
+ Kết chuyển DTT về tiêu thụ trong kỳ.
Bên có: Phản ánh tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ.
Tài khoản 511 cuối kỳ không có số dư và chi tiết là 4 tài khoản cấp hai dưới dây:
+ TK 5111 “doanh thu bán hàng hoá”: tài khoản này được sư dụng chủ yếu trong các
doanh nghiệp thương mại.
+ TK 5112 “doanh thu bán các thành phẩm”: tài khoản này được sủ dụng chủ yếu trong
các doanh nghiệp sản xuất vật chất như công nghiệp, nông nghiệp, xây lắp…
+ TK 5113 “ doanh thu cung cấp dịch vụ”: tài khoản này được sử dụng chủ yếu trong
các doanh nghiệp dịch vụ, du lịch, vận tải, bưu điện hàng hoá, dịch vụ khoa học kĩ thuật,
dịch vụ may đo, dịch vụ sửu chữa đồng hồ…
+ TK 5114 “doanh thu trợ cấp, trợ giá”: tài khoản này được sử dụng để phản ánh khoản
mà nhà nước trợ cấp, trợ giá cho doanh nghiệp, trong trường hợp doanh nghiệp thực
hiện nhiệm vụ cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước.

21/51



Khi phản ánh doanh nghiệp bán hàng, bên có TK 511 cần phân biệt theo từng trường
hợp:
. Hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ thuế, doanh thu bán hàng ghi theo giá bán chưa thuế GTGT.
. Hàng hoá, dịch vụ thuôc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp
và hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp xuất
khẩu, doanh thu bán hàng ghi theo giá tính toán với người mua gồm cả thuế phải chịu .
TK 512 “doanh thu nội bộ”.
Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu do bán hàng hoá, dịch vụ trong nội bộ giữa
các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty hoặc tổng công ty. Nội dung phản ánh của
TK 512 như sau:
Bên nợ:
+ Khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại khi bán hàng và doanh thu hàng bán
bị trả lại.
+ Số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp
phải nộp theo DTBH nội bộ .
+Kết chuyển DTT về tiêu thụ trong kỳ.
Bên có: Phản ánh tổng doanh thu tiêu thị nội bộ trong kỳ
Tài khoản 512 cuối kỳ không có số dư và gồm 3 tài khoản cấp hai:
+ TK 5121 “doanh thu bán hàng hoá”
+ TK 5122 “doanh thu bán các thành phẩm”
+ TK 5123 “doanh thu cung cấp dịch vụ”
TK 531 " hàng bán bị trả lại”
TK này dùng để phản ánh doanh thu của số hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ, bị khách hàng
trả lại do không đúng quy cách, phẩm chất hoặc do vi phạm hợp đồng kinh tế . Nội dung
ghi chép của tài khoản 531 như sau:
Bên nợ: Tập hợp doanh thu của hàng hoá bị trả lại chấp nhận cho người mua trong kỳ
(đã trả lại tiền cho người mua hoặc tính trừ vào nợ phải thu).

22/51


Bên có: Kết chuyển số doanh thu hàng bán bị trả lại
Tài khoản 531 cuối kỳ không có số dư .
TK 532 “ giảm giá hàng bán”
Tài khoản này dùng để phản ánh khoản giảm giá cho khách hàng tính trên giá bán thoả
thuận. Nội dung ghi chép của tài khoản 532 như sau:
Bên nợ: Khoản giảm giá đã chấp nhận với người mua.
Bên có: Kết chuyển khoản giảm giá sang tài khoản liên quan để xác định doanh thu
thuần.
Tài khoản 532 không có số dư.
TK 521 “chiết khấu thương thương mại”
Sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản chiết khấu thương mại chấp nhận cho khách hàng
trên giá bán đã thoả thuận về lượng hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ. Kết cấu tài
khoản này như sau:
Bên nợ: Tập hợp tất cả các khoản chiết khấu thương mại chấp thuận cho người mua
trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu thương mại vào bên nợ tài khoản 511,512
Tài khoản 511 cuối kỳ không có số dư và chi tiết thành 3 tiểu khoản:
+ TK 5211 “chiết khấu bán hàng”
+ TK 5212 “chiết khấu thành phẩm”
+ K 5213 “chiết khấu dịch vụ”
Bên cạnh các tài khoản phản ánh doanh thu và các khoản giảm doanh thu, để hạch toán
nghiệp vụ bán hàng, kế toán còn sử dụng các tài khoản liên quan đến việc xác định giá
vốn hàng bán.
TK157 “hàng gửi bán”
Tài khoản này dùng để phản ánh trị giá mua của hàng hoá chuyển bán, gửi bán đại lý,
ký gửi, dich vụ đã hoàn thành nhưng chưa xác định là tiêu thụ. TK 157 được mở chi tiết


23/51


×