Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN QUÂN SỰ VÀ MẶT TRẬN NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VIỆT NAM (19451975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.72 KB, 20 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN QUÂN SỰ VÀ MẶT TRẬN
NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(1945-1975)
MỞ ĐẦU
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta là lịch sử dựng nuớc và giữ
nước, do ở một vị trí địa lý thuận lợi, với những sản vật phong phú nên từ
khi lập nước cho đến ngày nay chúng ta luôn luôn phải đối phó với nạn
ngoại xâm. Có ý kiến cho rằng, nếu muốn phác hoạ về đất nước Việt
Nam hãy vẽ hình thanh kiếm bên cạnh một dòng máu đỏ. Thật vậy lịch sử
của Việt Nam từ ngàn xưa là một chuỗi những cuộc kháng chiến truờng
kì và gian khổ chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập chủ quyền của
dân tộc. Cho dù giặc ngoại xâm có hùng hổ, mạnh mẽ nhưng cuối cùng
các cuộc kháng chiến của ta đều giành thắng lợi qua đó giành lại và bảo
vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Trong thế kỉ XX chúng ta đã phải đối
phó với hai kẻ thù hung hãn, hùng mạnh vào bậc nhất thế giới là đế quốc
Pháp và đế quốc Mĩ, nhưng rút cục chúng đều bị quân dân ta đánh bại.
Thắng lợi đó do nhiều nhân tố, nhưng hai nhân tố quan trọng nhất là do
chúng ta đã huy động được sức mạnh toàn dân và sử dụng nghệ thuật tiến
hành chiến tranh đúng đắn.
Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975), chúng ta đã
tiến hành kết hợp đấu tranh trên mặt trận quân sự với đấu tranh trên mặt
trận ngoại giao, giữa hai mặt trận này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vậy mối quan hệ giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao trong
chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) biểu hiện như thế nào ? Đó
là nội dung mà bài tiểu luận đề cập.


I/ Mối quan hệ giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao.
Trong một cuộc chiến tranh thường bao gồm sự đấu tranh trên rất
nhiều lĩnh vực giữa hai lực lượng tham chiến, cả đấu tranh trên mặt trận
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao… trong đó đấu tranh trên


mặt trận quân sự và đấu tranh trên mặt trận ngoại giao có vai trò quan
trọng. Cuộc đấu tranh trên hai lĩnh vực này góp phần quan trọng quyết
định kết cục của cuộc chiến tranh.
Đấu tranh trên mặt trận quân sự là sự đụng đầu giữa hai bên bằng
việc sử dụng vũ lực, vũ khí với việc tham chiến của quân đội hai bên.
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao là sự gặp gỡ, giải quyết những
vấn đề vướng mắc, cần giải quyết thông qua sự trao đổi, hội kiến, toạ
đàm, hội nghị…giữa hai phái đoàn ngoại giao của của hai bên nhằm đạt
được thoả thuận chung.
Giữa hai lĩnh vực đấu tranh này có mối quan hệ mật thiết, khăng
khít, tác động qua lại lẫn nhau.
Đấu tranh trên mặt trận quân sự là yếu tố căn bản nhất của bất kì
một cuộc chiến tranh nào, nó sẽ quyết định phần thắng thuộc về ai. Đấu
tranh quân sự quyết định đến đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Kết quả
của đấu tranh ngoại giao phụ thuộc vào kết quả trên mặt trận quân sự, bởi
vì người ta chỉ có thể giành được những gì trên bàn ngoại giao tuơng ứng
với những gì giành được trên chiến truờng.
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao có tác dụng cụ thể hoá những
chiến thắng quân sự, qua đấu tranh ngoại giao mà tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của quốc tế tạo thuận lợi cho đấu tranh quân sự. Kết quả của đấu
tranh ngoại giao là phản ánh kết quả của đấu tranh quân sự, tuy nhiên kết
quả đó có được phát huy để giành cho ta những điều khoản có lợi trên
bàn đàm phán hay không ? lại phụ thuộc vào nghệ thuật ngoại giao.
Nhìn lại quá khứ: “Tổ tiên ta đã biết khéo léo kết hợp đấu tranh vũ
trang rất kiên quyết với đấu tranh ngoại giao rất mềm dẻo” [1;35] và


giữa hai mặt trận ấy có mối quan hệ mật thết với nhau. Trong những cuộc
chiến tranh thắng lợi, vấn đề "đánh" và "đàm" đã được Tổ tiên ta nhận
thức một cách đúng đắn và giải quyết một cách sáng tạo. Luôn sẵn sàng

đánh, đánh đến thắng lợi hoàn toàn, đánh hết trận này, đánh xong với kẻ
thù này là chuẩn bị đánh trận khác, đánh kẻ thù khác nếu chúng dám xâm
lược. Đó là quan điểm chiến lược nhất quán của dân tộc ta. Mặt khác Tổ
tiên ta cũng tỏ ra hiểu mình hiểu người, biết dùng biện pháp đàm phán kết
hợp được tính cứng rắn về nguyên tắc và tính mềm dẻo về sách lược để
củng cố và mở rộng thành quả của đấu tranh vũ trang.
Có đánh có đàm, trên cơ sở chiến thắng oanh liệt mà chủ động đẩy
mạnh hoạt động ngoại giao khôn khéo, điều đó đã được thể hiện trong
những cuộc chiến đấu nói trên. Kinh nghiệm lịch sử của Tổ tiên chứng tỏ
phải có những chiến thắng oanh liệt, những trận đánh tiêu diệt lớn thật
vang dội, cổ vũ đến cao độ nhiệt tình yêu nước của nhân dân ta, nâng cao
lòng tin tưởng thắng lợi hoàn toàn của quân và dân ta khiến toàn quân
toàn dân dốc sức đánh bại hoàn toàn quân địch, mà địch thì suy sụp tinh
thần chiến đấu, không thể không chịu thua trước tình hình bi đát của
chúng, đó là thời cơ có lợi để Tổ tiên ta tiến hành ngoại giao với địch.
Tuỳ theo so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng triều đại, Tổ tiên ta
đã biết áp dụng hai cách kết hợp, hoặc vừa đánh vừa đàm hoặc đánh
thắng rồi đàm. Trong lịch sử hầu như tất cả các cuộc kháng chiến đều mặt
trận quân sự và ngoại giao đều quan hệ mật thiết với nhau. Ở thời Lý,
trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075-1077), ở giai đoạn cuối
khi quân ta giành thắng lợi liên tiếp, quân Tống liên tiếp thất bại tinh thần
rệu rã, mỏi mệt. Lý Thường Kiệt cho người chủ động sang cầu hoà, nhằm
tránh thiệt hại thêm xương máu của hai bên, duy trì quan hệ hoà hiếu sau
chiến tranh và tướng giặc là Quách Quỳ đã chấp nhận ngay, sau đó đã
duy trì được nền hoà bình trong một thời gian dài. Đặc biệt trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), mối quan hệ giữa mặt trận quân sự với


ngoại giao rất rõ nét. Trong giai đoạn đầu, khi nghĩa quân còn yếu kém
khó khăn, lâm vào tình huống hiểm nghèo đã ba lần chúng ta chủ động

cầu hoà với địch để bảo toàn và củng cố lực lượng chuẩn bị cho giai đoạn
sau. Sau chiến thắng vang dội Chi Lăng-Xương Giang, đập tan cố gắng
cao nhất cuối cùng của nhà Minh, Lê Lợi-Nguyễn Trãi lại tiếp tục đàm
phán với Vương Thông, buộc 10 vạn quân địch còn lại phải đầu hàng và
được phép rút quân về nước, qua đó giảm xương máu cho quân ta, và đặt
cơ sở cho mối quan hệ hoà hiếu với nhà Minh sau chiến tranh. Các cuộc
kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thời nhà Trần và chống quân
Thanh thời Tây Sơn giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao cũng có
mối liên hệ sâu sắc.
Qua những hoạt động ngoại giao trên chúng ta thấy, Tổ tiên ta tỏ ra
nắm vững quan hệ giữa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường với
việc củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao. Đó là biểu
hiện của sự kết hợp đúng đắn giữa ý chí kiên cường bất khuất và nhãn
quan trông xa thấy rộng có lòng căm thù sâu sắc quân địch, lại biết đánh
giá đúng sức mình, sức người. Qua đó vừa bảo toàn được lực lượng của
ta, vừa khiến cho địch phải tâm phục, khẩu phục, đặt cơ sở quan hệ hoà
hiếu lâu dài cho hai nước sau khi chiến tranh kết thúc.
Trên cơ truyền thống mối quan hệ giữa mặt trận quân sự và mặt
trận ngoại giao trong lịch sử của tổ tiên ta, Đảng ta đã kế thừa và vận
dụng sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và đế quốc
Mỹ trong thế kỉ XX, góp phần quan trọng vào thắng lợi oanh liệt của cả
hai cuộc kháng chiến. Vậy mối quan hệ tác động qua lại giữa mặt trận
quân sự và mặt trận ngoại giao và tác dụng của mối quan hệ này như thế
nào trong chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975), chúng ta hãy
cùng đi tìm hiểu.
II. Mối quan hệ giữa mặt trận quân sự với mặt trận ngoại giao trong
chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975).


Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) là cuộc kháng

chiến trường kì, gian khổ của toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh chống lại hai tên “đế
quốc to” là Pháp và Mĩ. Nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm của
quân dân ta dưới sự lãnh đạo sang suốt của Đảng, cuối cùng chúng ta đã
giành thắng lợi vẻ vang. Qua đó bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân
tộc. Trong tiến trình của chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975)
mặt trận quân và mặt trận ngoại giao có mối liên hệ mật thiết.
1. Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Cách mạng tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước vô sản đầu tiên ở khu vực Đông Nam
châu Á, nước ta giành được độc lập sau hơn 80 mươi năm sống dưới ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhưng ngay sau đó thực dân Pháp
đã quay trở lại xâm lược nước ta ngày 23-9-1945. Đáp lại lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh “ Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ….Hỡi
đồng bào! Chúng ta phải đứng lên…” [ 2 ] Quân dân ta trong cả nước đã
vùng lên chống Pháp xâm lược. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến Đảng ta đã đề ra đường lối kháng chiến: toàn dân, toàn diện, trường
kì, tự lực cánh sinh. Trong nội dung của đường lối kháng chiến có nội
dung về kết hợp đấu tranh giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao.
Ở giai đoạn 1945-1946: Đây là giai đoạn đầu nước ta mới giành
được độc lập, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn trên tất cả các lĩnh
vực. Trong đó đặc biệt chúng ta phải đối phó với nạn ngoại xâm với hai
kẻ thù trực tiếp trước mắt là thực dân Pháp và tập đoàn Tưởng Giới
Thạch, đứng đằng sau đó là các thế lực đế quốc phản động, chúng âm
mưu bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ của nước ta. Để duy trì sự
tồn tại của chính quyền cách mạng, đòi hỏi chính phủ ta phải có những
đối sách hợp lí, nhất là trên mặt trận ngoại giao và mặt trận quân sự. Trên



mặt trận ngoại giao, chủ trương của ta là tránh cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù, phải phân hoá và có đối sách thích hợp đối với từng kẻ
thù, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính trực tiếp. Với phương
châm “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược” (tức là giữ vững
mục tiêu độc lập chủ quyền của dân tộc; có thể nhượng bộ cho kẻ thù một
số quyền lợi về kinh tế chính trị để đảm bảo nguyên tắc trên). Do xác
định Pháp là kẻ thù trực tiếp trước mắt nên trong giai đoạn đầu ta quyết
định hoà với Tưởng để tập trung toàn lực vào đánh Pháp ở miền Nam. Ở
giai đoạn sau khi tình hình đã thay đổi, chúng ta quyết định hoà với Pháp
để đuổi Tưởng bằng việc kí hiệp đinh Sơ bộ ngày 6/3/1946 với Pháp, sau
đó kí tiếp Tạm ước 14/9/1946 với Pháp để kéo dài thời gian hoà hoãn.Với
những chủ trương ngoại giao thích hợp này chúng ta có thời gian hoà
bình để chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến mà chúng ta biết chắc sẽ xảy
ra, đồng thời tập trung được sức mạnh để đối đầu với kẻ thù trực tiếp trên
mặt trận quân sự. Trên mặt trận quân sự: Nhờ những chủ trương ngoại
giao đúng đắn, chúng ta đã tránh được việc cùng một lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù, tận dụng được thời gian hoà hoãn do đấu tranh ngoại giao
tạo ra để chuẩn bị lực lượng. Do đó chúng ta đã làm phá sản kế hoạch
“đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp qua hai đợt chiến đấu cuối
năm 1945 ở Nam Bộ và cuộc chiến đấu ở các đô thị Bắc vĩ tuyến 16 cuối
năm 1946 đầu năm 1947. Qua đó bảo vệ an toàn cho chính quyền của ta
đưa cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kì.
Giai đoạn 1945-1949: Ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ
ra, Đảng ta đã xác định phương hướng đối ngoại trong thời chiến với nội
dung cơ bản là: Đẩy mạnh vận động tuyên truyền quốc tế bằng nhiều hình
thức khác nhau, tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp để
nhân dân thế giới tin và đồng tình ủng hộ cuộc chiến đấu của ta. Hồ Chủ
Tịch tuyên bố: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù
oán với một ai” [ 3;220]; khai thác sự khác nhau về lợi ích trước mắt của



các thế lực thù địch để phân hoá chúng, kiềm chế Pháp trong mưu đồ
đánh nhanh thắng nhanh.; chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thông điệp 7 điểm về
lập truờng hoà giải của Việt Nam đến chính phủ, Quốc hội và nhân dân
Pháp. Chính sách ngoại giao của ta nhằm cô lập cao độ kẻ thù, kêu gọi sự
đồng tình ủng hộ của nhân các nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ
thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta. Tuy nhiên kết quả
của đấu tranh ngoại giao thời kì này còn hạn chế. Phối hợp với đấu tranh
ngoại giao cuộc đấu tranh quân sự cũng diễn ra sôi nổi, trong đó lớn nhất
là ta đánh bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc cuối năm 1947, làm
thất bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của chúng buộc chúng phải
chuyển sang đánh lâu dài với ta.
Từ năm 1950, sự kết hợp giữa mặt trận quân sự với mặt trận ngoại
giao được đẩy mạnh trước những biến chuyển lớn của tình hình trong
nước và quốc tế. Về ngoại giao: năm 1949, nước cộng hoà nhân dân
Trung Hoa được thành lập, CNXH được nối liền từ Á sang Âu. Để tranh
thủ những thuận lợi mới từ sự phát triển của phong trào cách mạng thế
giới, chúng ta đã đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, để kêu gọi sự ủng hộ
giúp đỡ từ bên ngoài. Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố
sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước dân chủ. Đáp lại thiện chí
của ta, ngày 18/1/1950, Chính phủ cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, ngày
30/1/1950 chính phủ Liên Xô, và trong vòng một tháng sau các nước
trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước
ta. Tiếp đó năm 1951, Liên minh Việt-Miên-Lào được thành lập, đã tăng
cường khối đoàn kết 3 nước Đông Dương trong đấu tranh chống kẻ thù
chung là thực dân Pháp và bọn can thiệp Mĩ. Đây là 1 thắng lợi to lớn của
ngoại giao nước ta, từ đây cách mạng nước ta không còn đơn độc mà có
sự ủng hộ giúp đỡ về tinh thần và vật chất từ bên ngoài, đặc biệt là những
viện trợ về mặt quân sự.



Kết hợp với mặt trận ngoại giao, chúng ta cũng đẩy mạnh đấu
tranh trên mặt trận quân sự, bằng việc mở một loạt các chiến dịch tiến
công địch, mở màn là chiến dịch Biên Giới thu-đông 1950. Sau hơn 1
tháng chiến đấu, chiến dịch Biên Giới kết thúc thắng lợi. Đây là chiến
dich tấn công lớn đầu tiên của ta, chuyển cuộc kháng chiến của ta sang
giai đoạn tiến công. Hệ quả quan trọng của chiến dịch là: ta đã giải phóng
một vùng biên giới Việt Trung, chọc thủng hành lang Đông Tây của
Pháp. Qua đó phá thế bao vây cô lập của Pháp đối với nước ta, con đường
liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông. Tiếp đó ta mở 1 loạt
các chiến dịch nhằm pháp huy quyền chủ động chiến lược trên chiến
trường vừa mới giành được như chiến dịch Trần Hưng Đạo, Quang
Trung, Hoà Bình, Tây Bắc Thượng Lào…
Đặc biệt trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ, có sự kết hợp, liên hệ chặt chẽ giữa mặt trận
quân sự và mặt trận ngoại giao. Trên mặt trận quân sự ta mở một loạt các
cuộc tiến công chiến lược trong đông-xuân 1953-1954, nhằm phá vỡ kế
hoạch NaVa, đó là các đợt tấn công ở Tây Bắc, Trung Lào, Thượng Lào,
Tây Nguyên. Đến đầu năm 1954, kế hoạch NaVa bước đầu bị phá sản.
Tiếp đó ta quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với thắng lợi của
chiến dịch Điện Biên Phủ sau 56 ngày đêm, kế hoạch NaVa bị phá sản
hoàn toàn. Khi nhận định về ý nghĩa tầm vóc của chiến thắng Điện Biên
Phủ, Võ Nguyên Giáp viết: “Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống
Đa…,cùng với cách mạng tháng Tám và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn
thắng, Điện Biên Phủ là một cái mốc chói lọi bằng vàng trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, là một trong những thắng lợi có
ý nghĩa quyết định của cuộc chiến tranh giải phóng rồi giữ nước 30 năm,
hết chống Pháp rồi chống Mỹ”. [4;15] Những thắng lợi trên đây ở mặt
trận quân sự, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ, có ý nghĩa quyết



định tạo những ưu thế cho nước ta trong cuộc đấu tranh trên mặt trận
ngoại giao.
Trên mặt trận ngoại giao: Phối hợp với cuộc tiến công chiến lược
đông-xuân 1953-1954, Đảng ta đã mở cuộc tấn công trên mặt trận ngoại
giao. “Trải qua gần 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi
nghĩa, nước Pháp đã bị những thiệt hại nặng nề về người và của. Càng
mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh, thất bại càng lớn, nội bộ chính giới
Pháp càng phân hoá đưa đến hình thành phái chủ hoà và phái chủ
chiến” [5;123] Ngày 26-11-1953 trả lời phỏng vấn báo Expressen của
Thuỵ Điển về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh nói: “ Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do chính phủ Pháp
gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám
năm nay chống kẻ thù xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự
do được sống hoà bình. Hiện nay, nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến
tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến
tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu chính phủ Pháp đã rút
được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình
chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam
theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà
sẵn sàng tiếp ý muốn đó.” [6;168]. Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ thiện chí muốn giải quyết vấn đề quan hệ Pháp
Việt bằng con đường ngoại giao hoà bình. Nhưng do dã tâm xâm lược
nước ta một lần nữa và ỷ vào ưu thế về thực lực của mình, phía Pháp đã
phớt lờ đề nghị trên và lao đầu vào một cuộc chiến tranh hao người, tốn
của. Nhưng trải qua 9 năm tiến hành chiến tranh, Pháp ngày càng lâm vào
thế bị động, thất bại, trong khi đó Việt Nam càng đánh càng mạnh, lúc
này thế và lực trên chiến trường đã thay đổi theo hướng bất lợi cho Pháp,
và bọn chúng buộc phải tính đến chuyện đàm phán với ta. Tuy vậy với
bản chất thực dân ngoan cố, cho đến trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ



kết thúc, Pháp muốn hi vọng vào thắng lợi của Điện Biên Phủ để ép ta
trên bàn ngoại giao buộc phải kí kết những điều khoản theo hướng có lợi
cho chúng. Nhưng diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ đã đi ngược
lại với mọi sự suy tính của Pháp, bởi chúng đã bị thất bại, bị chôn vùi ở
Điện Biên Phủ.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông
Dương khai mạc tại Giơnevơ. Tham dự đại hội có đại diện 9 nước trong
đó có phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hoà do Phạm Văn Đồng đứng
đầu,phái đoàn Pháp do Biđôn đứng đầu. Với tư thế đại diện cho 1 dân tộc
vừa mới tạo nên chiến chiến công Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, tại
diễn đàn hội nghị, Phạm Văn Đồng đã tuyên bố lập trường của chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc lập lại ở hoà bình Đông Dương phải
là một giải pháp toàn bộ về chính trị và quân sự cho cả Việt Nam, Lào,
CamPuChia trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của từng nước ở Đông Dương. Phái đoàn Pháp có sự hậu
thuẫn của Mỹ-Anh lúc đầu trắng trợn từ chối các yêu cầu chính đáng của
ta, buộc ta phải chấp nhận những điều khoản vô lý, thái độ đó của Pháp
làm cho Hội nghị diễn ra rất căng thẳng, nhiều lúc đi vào bế tắc. Nhưng
do sự đấu tranh kiên quyết của ta với lập trường chính nghĩa, đặc biệt là
dưới ảnh hưởng của hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ, cuối cùng
Pháp buộc phải kí vào văn bản hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập,
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Mặc dù hiệp định
Giơnevơ còn một số hạn chế do sự tác động của các cường quốc, đặt
trong sự so sánh tương quan lực lượng giữa hai phe XHCN và TBCN,
nhưng hiệp định Giơnevơ vẫn là một thành công ngoại giao của nước ta.
Ngay sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, chủ tịch Hồ Chí Minh ra
Lời kêu gọi, mở đầu băng 1 câu khẳng định: “Hội nghị Giơnevơ đã kết
thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to.” [7;228].



Với việc hiệp định Giơnevơ được kí kết đã khẳng định vai trò to
lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với việc kí kết hiệp định. Ngược
lại việc kí kết hiệp định Giơnevơ đã cụ thể hóa và khẳng định tầm vóc vĩ
đại của chiến thắng Điện Biên Phủ. Có thể khẳng định không có chiến
thắng Điện Biên Phủ thì không có hiệp định Giơnevơ, hiệp định Giơnevơ
càng khẳng định giá trị của chiến thắng Điện Biên Phủ. Đó là sự thể hiện
mối quan hệ sự tác động qua lại giữa mặt trận quân sự với mặt trận ngoại
giao. Với Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn đến việc kí kết hiệp định
Giơnevơ đã đánh dấu thắng lơi của cuộc kháng chiến chống Pháp (19451954) qua đó bảo vệ được nền độc lập dân tộc đưa nước ta bước vào một
giai đoạn phát triển mới.
2. Trong kháng chiến chống Mỹ ( 1954-1975 )
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp (19451954) nhân dân ta hân hoan bắt tay vào việc xây dựng lại đất nước sau
những năm dài bị chiến tranh tàn phá. Nhưng ngay sau đó đất nước ta lại
phải tiến hành một cuộc kháng chiến trường kì chống lại hành động xâm
lược của đế quốc Mỹ, với âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc
địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cũng diễn ra sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh trên mặt trận quân sự với
đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, nhằm phát huy sức mạnh toàn diện
trên các mặt trận chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Trong thời kì 1954-1959: Thời kì này đấu tranh trên mặt trận quân
sự hạn chế, mà chủ yếu là đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Đấu tranh
ngoại giao thời kì này thực hiện một số nội dung như đòi Mĩ-Diệm phải
thi hành hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước; củng cố và tăng cường quan hệ với các nước XHCN là nhiệm
vụ tối quan trọng. Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN là đồng
minh chiến lược, là chỗ dựa của Việt Nam. Các chính sách đúng đắn và
các hoạt động ngoại giao khôn khéo của Hồ Chủ Tịch dã góp phần tăng



cường đoàn kết giữa Việt Nam và các nước XHCN. Hồ Chủ Tịch đã đi
thăm Liên Xô, Trung Quốc và một loạt các nước XHCN khác để tranh
thủ sự ủng hộ của các nước. Bên cạnh đó chúng ta cũng mở rộng đặt quan
hệ ngoại giao với một số nước khác ở châu Á như Miến Điện, Inđônêxia,
Ấn Độ và một số nước khác ở châu Phi, để không ngừng mở rộng và tập
hợp mặt trận dân chủ hoà bình thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân
dân ta. Mặc dù kết quả ngoại giao thời kì này còn hạn chế nhưng cũng đã
có những đóng góp tích cực góp phần vào thắng lợi trên mặt trận quân sự
trong cuộc Đồng Khởi (1959-1960) ở miền Nam.
Trong thời kì 1960-1965. Giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại
giao có những mối liên hệ quan trọng.
Trên mặt trận ngoại giao: Đường lối ngoại giao thời kì này được đề
ra tại Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng, theo đó: Nhiệm vụ quốc tế
quan trọng nhất của Đảng và nhà nước ta vẫn là ra sức góp phần tăng
cường sự đoàn kết nhất trí trong khối cộng đồng XHCN, tăng cường sự
thống nhất của phong trào cộng sản quốc tế, kiên quyết đấu tranh chống
mọi âm mưu và hành động phá hoại sự đoàn kết quốc tế của giai cấp công
nhân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với xây
dựng miền Bắc và đấu tranh của nhân dân ta ở Miền Nam. Tiếp đó ở
miền Nam ta thành lập mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam,
nhằm tạo ra một cơ sở pháp lí của ta đối chọi lại với chính quyền Việt
Nam cộng hoà, và chúng ta cũng không ngừng vận động sự công nhận,
ủng hộ của các nước trên thế giới với mặt trận này, tăng thêm sức mạnh
cho ta trong đấu tranh ngoại giao.
Thực hiện chủ trương đó. Chúng ta không ngừng củng cố quan hệ
với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN, các nước dân chủ bằng các
cuộc viếng thăm lẫn nhau để tăng cường sự đoàn kết nhất trí, cũng như
kêu gọi sự ủng hộ của các nước này cả về vật chất và tinh thần đối với
cuộc kháng chiến chống Mĩ của ta. Cùng với đó ta cũng tăng cường khối



đoàn kết giữa ba nước Đông Dương với Lào và Campuchia, không ngừng
giúp đỡ cách mạng hai nước này nhằm chống lại mưu đồ đưa chiến tranh
ra toàn Đông Dương của Mĩ. Ta cũng tăng cường tuyên truyền cho nhân
dân thế giới hiểu rõ hơn về chiến tranh Việt Nam, vạch trần bộ mặt xâm
lược của Mĩ.
Với những hoạt động ngoại giao tích cực đó, chúng ta đã nhận
được sự ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần của các nước XHCN
anh em đặc biệt của Liên Xô và Trung Quốc, của các nước dân chủ, của
nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới. Sự giúp đỡ
ủng hộ to lớn đó đã góp phần quan trọng đánh bại chiến lược “ chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ thực hiện ở miền Nam.
Trên mặt trận quân sự thời kì này chúng ta phải chiến đấu chống
chiến tranh đặc biệt của Mĩ nguỵ tiến hành ở miền Nam Việt Nam, với
âm mưu thâm độc “dùng người Việt trị người Việt”, với chiến thuật “tát
nước bắt cá”, với xương sống là các ấp chiến lược. Nhưng với tinh thần
quyết tâm, lòng dũng cảm lại được sự chi viện to lớn của miền Bắc
XHCN và các nước XHCN anh em thông qua những nỗ lực trên mặt
ngoại giao. Quân dân miền Nam đã đánh bại chiến lược chiến tranh này.
Với thắng lợi này đã không ngừng nâng cao địa vị của nước ta trên
trường quốc tế, trên mặt trận ngoại giao tạo cơ sở, điều kiện để chúng ta
tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của bạn bè quốc tế để đưa cuộc
kháng chiến phát triển giành được những thắng lợi mới.
Giai đoạn 1965-1973: Đây là giai đoạn mà mặt trận ngoại giao và
mặt trận quân sự liên quan mật thiết với nhau, dẫn đến việc kí kết hiệp
định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Trên mặt trận quân sự: Sau khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị
thất bại, Mĩ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, một hình
thức chiến tranh kiểu mới có sự tham gia trực tiếp của quân viễn chinh

Mĩ và quân đội các nước chư hầu, cùng quân đội nguỵ Sài Gòn. Đây là


một bước leo thang chiến tranh mới của Mĩ khi chúng sử dụng lực lượng
mạnh, gây chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây
dựng CNXH ở miền Bắc và ngăn cản sự chi viện của miền Bắc cho miền
Nam, đưa chiến tranh lan rộng ra cả nước ta. Ở miền Nam, với hai gọng
kìm “bình định” và “tìm diệt”, Mĩ nguỵ mở những cuộc tiến công lớn, với
hoả lực mạnh Mĩ nguỵ hi vọng sẽ tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến
của ta, bình định hoàn toàn miền Nam. Nhưng quân dân ta với tinh thần
quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, đã lần lượt đánh bại các đợt tấn
công của địch mở đầu là chiến thắng Vạn Tường, tiếp đó là thắng lợi ở
hai mùa khô và đặc biệt là chiến thắng Mậu Thân 1968. Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một đòn tiến công chiến lược bất ngờ
đánh vào tận hang ổ của kẻ thù, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đây là thất
bại rất nặng nề về chiến lược của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm
lược miền Nam nước ta. Thất bại này đã làm phá sản chiến lược “chiến
tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ, làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc
chúng phải xuống thang chiến tranh, có tác động trực tiếp tới đấu tranh
trên mặt trận ngoại giao.
Trên mặt trận ngoại giao: Ở giai đoạn này bên cạnh các hoạt động
ngoại giao như những giai đoạn trước, chúng ta trực tiếp mở mặt trận đấu
tranh ngoại giao nhằm phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị đang trên
đà thắng lợi. Sau thất bại ở chiến dịch Mậu Thân, Mĩ buộc phải chấp
nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari. Vào ngày 13-5-1968 cuộc
thương lượng giữa hai bên chính thức bắt đầu. Từ đây diễn ra cục diện
“vừa đánh, vừa đàm” giữa ta và Mĩ. Và diễn biến trên chiến trường với
diễn biến trên bàn đàm phán có quan hệ mật thiết với nhau. Hội nghị Pari
có thể chia làm hai giai đoạn. Diễn biến và kết quả của từng giai đoạn
trên bàn đàm phán phản ánh tương quan, so sánh lực lượng giữa hai bên

trên chiến trường.


Giai đoạn 1: Đàm phán hai bên Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mĩ
(tháng 5/1968→11/1968). Trong giai đoạn này, “Việt Nam đòi Mĩ chấm
dứt đánh phá miền Bắc không điều kiện; “Mĩ đòi có đi có lại” nghĩa là
miền Bắc phải ngừng đưa người và phương tiện chiến tranh vào Nam,
phải khôi phục khu phi quân sự, có tiếp xúc cấp thấp để thăm dò” [8;7778]. Lúc này trên chiến trường quân dân ta tiếp tục đẩy mạnh có hiệu quả
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mĩ ở miền Bắc gây cho chúng
những thiệt hại lớn. Mặt khác về phía Mĩ từ tháng 9 trở đi do sức ép của
cuộc bầu cử tổng thống rất lớn, Mĩ muốn có một kết quả ngoại giao để hỗ
trợ bầu cử nên thúc đẩy gặp cấp cao, không đòi “có đi có lại” nữa. Về
phía ta, vì các đợt tấn công tháng 5 và tháng 8 ở miền Nam kết quả thấp
tổn thất lớn, nên ta cần thời gian để củng cố lực lượng. Tranh thủ những
khó khăn trên chiến trường của Mĩ và thời cơ do cuộc bầu cử Mĩ tạo ra ta
đấu tranh đòi Mĩ phải chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc. Do tương
quan lực lượng giữa hai bên đến ngày 27-10-1968 ta và Mĩ đạt được thoả
thuận: Mĩ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc; ta đồng ý họp hội
nghị 4 bên.
Giai đoạn 2: Đàm phán 4 bên dẫn đến kí kết hiệp định Pari (đầu
1969 đến đầu 1973): Giai đoạn này trên chiến trường hai bên giằng co
quyết liệt nên trên bàn đàm phán cuộc đấu tranh cũng quyết liệt kéo dài,
nhiều lúc đi vào bế tắc tưởng chừng như tan vỡ.
Trên mặt trận quân sự Mĩ tiến hành chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh” và đẩy lên thành “Đông Dương hoá chiến tranh”, thiết lập
chính phủ bù nhìn ở Lào và Campuchia hòng cô lập cách mạng Việt
Nam. Nhưng ngược lại, hành động mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn
Đông Dương của Mĩ trên thực tế đã biến Đông Dương thành chiến trường
thống nhất và cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ba nước Đông
Dương đã đưa đến việc hình thành khối đoàn kết ba dân tộc Việt Nam,

Lào, Campuchia trong đấu tranh chống kẻ thù chung. Tiếp đó ta phối hợp


với hai nước bạn giành được những thắng lợi quan trọng trên mặt trận
quân sự, đó là các chiến thắng: đường 9 Nam Lào đầu năm 1971 chiến
thắng này mở ra khả năng đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh
của Mĩ; chiến thắng ở Đông Bắc Campuchia đập tan âm mưu đưa quân
đội Sài Gòn can thiệp vào Campuchia; chiến thắng ở cuộc tiến công chiến
lược năm 1972 của ta ở chiến trường Nam Trung Bộ và Nam Bộ; cùng
với đó quân dân miền Bắc cũng giành những thắng lợi to lớn trong chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại lần hai của Mĩ. Những thắng lợi trên đây
đã làm phá sản bước đầu chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, làm
lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ. Và có những tác động tích cực
trên bàn đàm phán.
Trên mặt trận ngoại giao: Do liên tiếp bị thất bại nặng nề về quân
sự và để giành thắng lợi trong cuộc tranh cử tổng thống vào đầu tháng 111972, Ních-xơn buộc phải xuống thang chiến tranh. Đầu tháng 10/1972
Mĩ đến Pari để nối lại cuộc đàm phán đã bị gián đoạn từ trước đó. Với
những ưu thế giành được trên chiến trường và lợi dụng cuộc bầu cử tổng
thống sắp tới của Mĩ, phía ta đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận đi đến kí
kết. Phía Mĩ nhanh chóng chấp thuận. Ngày 17/10/1972, văn bản hiệp
định được hoàn tất và hai bên đã thoả thuận đến ngày 31/10/1972 sẽ kí
chính thức. Nhưng với dã tâm thâm độc, ngay sau khi trúng cử tổng thống
Ních-xơn lật lọng đòi xét lại văn bản hiệp định, đòi sửa lại nhiều điều
khoản theo hướng có lợi cho Mĩ. Để ép ta nhân nhượng kí một hiệp định
do Mỹ đưa ra, Ních-xơn âm mưu giành một thắng lợi quân sự quyết định.
Do vậy Mĩ đã quyết định tiến hành cuộc tập kích chiến lược bằng không
quân B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều vùng khác, âm mưu đưa miền
Bắc nước ta trở về thời kì đồ đá. Nhưng trải qua 12 ngày đêm cuối năm
1972, ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích này, tiêu diệt một khối

lượng lớn máy bay và phi công Mĩ. Thắng lợi này đã đánh bại hoàn toàn,


làm khuất phục ý chí xâm lược của Mĩ ngay tức khắc tác động đến cục
diện trên bàn đàm phán. Thất bại của Mĩ trên chiến trường quyết định thất
bại của chúng trên bàn thương lượng. Sau khi thất bại trên mặt trận quân
sự, Mĩ buộc phải quay lại bàn đàm phán Pari. Đứng trên tư thế người
chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán kiên quyết đấu tranh giữ
nguyên nội dung cơ bản của bản dự thảo hiệp định đã được thoả thuận
giữa hai bên từ trước đó. Ngày 13/1/1973 dự thảo bản hiệp định được
thông qua. Và ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh
lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được chính thức kí giữa bốn bộ trưởng đại
diện cho các bên tham dự hội nghị (Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hoa Kì,
Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Việt Nam cộng hoà). Hiệp định bắt đầu
có hiệu lực kể từ ngày kí chính thức.
“Với việc kí kết hiệp định Pari, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân Việt Nam đã giành thêm thắng lợi hết sức to lớn và
có tính chất quyết định. Nhân dân ta đã đạt được được mục tiêu quan
trọng hàng đầu là đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải
chấm dứt chiến tranh, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi
miền Nam Việt Nam. Đây là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”. [9;256]
Từ 1973 đến 1975: Đây là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến
chống Mĩ và tay sai. Ở giai đoạn này giữa mặt trận quân sự và ngoại giao
có những mối liên hệ nhất định. Về ngoại giao: Ta đấu tranh đòi Mĩ,
Nguỵ thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản của hiệp định Pari, lên
án, vạch trần những hành động phá hoại hiệp định của chúng; đồng thời
ta tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ với các nước XHCN anh em, các
nước dân chủ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới. Nhờ
vậy chúng ta tiếp tục nhận được sự viện trợ, giúp đỡ to lớn từ bên ngoài,

phục vụ đắc lực cho ta mở các chiến dịch quân sự. Về quân sự: Giai đoạn
này ta tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm mở rộng vùng giải phóng ở miền


Nam, chống lại sự lấn chiếm đất đai của địch. Năm 1975, khi thời cơ
thuận lợi đã tới, ta đã quyết định mở cuộc tổng công kích và nổi dậy trên
toàn miền Nam, với ba chiến dịch lớn. Đó là chiến dịch Tây Nguyên;
chiến dịch Huế-Đà Nẵng; chiến dịch Hồ Chí Minh. Với thắng lợi của ba
chiến dịch này cũng đồng nghĩa với thắng lợi của cuộc tổng tiến công và
nổi dậy, đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta hoàn toàn
thắng lợi, kết thúc cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trường kì, gian khổ
trong 30 năm (1945-1975), đưa nước ta vào kỉ nguyên độc lập tự do, tiến
lên xây dựng CNXH.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước “mãi mãi
được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một
biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công
vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có
tính thời đại sâu sắc” [10;5-6)


KẾT LUẬN
Như vậy trên đây chúng ta đã vừa đi tìm hiểu mối quan hệ giữa
mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao trong chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945-1975. Chúng ta có thể thấy được giữa hai mặt trận này có mối
quan hệ khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để cùng phát triển cùng
giành thắng lợi. Thắng lợi của mặt trận này có ảnh hưởng và tác động đến
thắng lợi của mặt trận kia, điều đó được thể hiện rõ nhất ở hai hội nghị
Giơnevơ và hội nghị Pari, khi chiến thắng trên mặt trận quân sự của ta đã
dẫn tới thắng lợi trên mặt trận ngoại giao và ngược lại thắng lợi trên mặt

trận ngoại giao cũng khẳng định giá trị, ý nghĩa của thắng lợi trên mặt
trận quân sự.
Qua đó cũng khẳng định sự tài tình, sáng suốt của Đảng, Chính phủ
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa được truyền thống lịch sử,
đã nhận thấy tác động qua lại giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại
giao để khéo kết hợp sự đấu tranh giữa hai mặt trận này, dẫn đến những
chiến thắng lịch sử chói lọi trước hai tên đế quốc đầu sỏ của thế giới tư
bản (đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ), qua đó bảo vệ được nền độc lập chủ
quyền của dân tộc. Tạo điều kiện, cơ sở cho đất nước ta tiến lên xây dựng
CNXH giàu mạnh như ngày nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Minh Thảo - Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc; NXB Quân Đội
Nhân Dân-2004
2. Hồ Chí Minh - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia,
H.2000
4. Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội-1998
5. Lê Mậu Hãn (chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam tập
III, NXB giáo dục
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia,
H., 1996
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15
8. Vũ Quang Vinh: Lịch sử ngoại giao Việt Nam; NXB Đại
học sư phạm Hà Nội-2007
9. Lê Mậu Hãn (chủ biên): Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội-2006

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCHTƯ
Đảng tại Đại hội đại biểu lần thứ IV; NXB Sự thật; H., 1977



×