ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ HỒNG
DẠY HỌC TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỀN MINH CHÂU CHO HỌC SINH LỚP 12 THEO
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60.14.01.11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢỢNG
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn
Phượng, người thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo em trong suốt quá trình làm
luận văn.
Xin cảm ơn các quý thầy cô trong trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia
Hà Nội, đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành luận văn này.
Em cũng gửi lời cảm ơn đến BGH trường THPT Phùng Khắc Khoan- Thạch
Thất - Hà Nội cùng bạn bè đồng nghiệp, cùng các em học sinh đã giúp đỡ em rất
nhiều trong khóa học, và thực hiện đề tài này.
Cuối cùng em xin gửi lời biết ơn chân thành đến bố mẹ, gia đình, bạn bè đã
luôn ở bên cạnh tôi, giúp em cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Tác giả
Trần Thị Hồng
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt:
Viết đầy đủ:
CT
Chương trình
CNTT
Công nghệ thông tin
ĐC
Đối chứng
GD-ĐT
Giáo dục - đào tạo
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
HĐ
Hoạt động
NXB
Nhà xuất bản
PPDH
Phương pháp dạy học
SGK
Sách giáo khoa
SGV
Sách giáo viên
THPT
Trung học phổ thông
TN
Thực nghiệm
TLTK
Tài liệu tham khảo
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... ii
MỤC LỤC .............................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ...................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................ 9
1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................... 9
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển năng lực cho học sinh phổ
thông ....................................................................................................................... 9
1.1.2. Lí luận về phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ thông .............. 12
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 18
1.2.1. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay ........ 18
1.2.2. Thực tiễn dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu ..................................................................................................................... 19
Tiểu kết chương 1................................................................................................. 34
CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ DẠY HỌC TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC........................................................................................... 36
2.1. Những năng lực cần đạt được sau khi dạy học bài “Chiếc thuyền ngoài xa” ... 36
2.1.1. Năng lực đọc hiểu ...................................................................................... 36
2.1.2. Năng lực cảm thụ ....................................................................................... 43
2.1.3. Năng lực giải quyết vấn đề......................................................................... 46
2.1.4. Năng lực sáng tạo ....................................................................................... 49
2.1.5. Năng lực tạo lập văn bản ............................................................................ 51
2.2. Quy trình thiết kế dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” củaNguyễn
Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực. ................................................ 53
iii
2.3. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực ...................... 58
2.3.1. Phương pháp............................................................................................... 58
2.3.2. Các hình thức tổ chức dạy học ................................................................... 63
Tiểu kết chương 2................................................................................................. 65
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .................................................... 66
3.1. Giáo án dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa” theo định hướng phát triển năng
lực. ........................................................................................................................ 66
3.2. Tiến trình thực nghiệm dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa” theo định hướng
phát triển năng lực ................................................................................................ 88
3.2.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm ............................................ 88
3.2.2. Kế hoạch thực nhiệm ................................................................................. 89
3.2.3. Kết quả thực nghiệm .................................................................................. 90
3.2.4. Phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm .................................................... 94
Tiểu kết chương 3................................................................................................. 98
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .................................................................... 99
1. Kết luận ............................................................................................................ 99
2. Khuyến nghị ................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 101
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 104
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.
Địa điểm, số lượng GV THPT tham gia khảo sát
20
Bảng 1.2.
Kết quả khảo sát GV
25
Bảng 1.3.
Kết quả khảo sát HS
26
Bảng 3.1.
Tổng quan đối tượng TN và ĐC
89
Bảng 3.2.
Kết quả hai bài kiểm tra lớp 12A2 và 12A6
90
Bảng 3.3.
Phân phối tần số, tần suất và tần suất tích lũy bài kiểm tra
91
số 1 và số 2 của HS 2 lớp TN và ĐC
Bảng 3.4.
Kết quả phân loại học tập của học sinh
v
92
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.
Đồ thị biểu diễn đường tích lũy bài kiểm tra số 1
91
Biểu đồ 3.2.
Đồ thị biểu diễn đường tích lũy bài kiểm tra số 2
92
Biểu đồ 3.3.
Đồ thị phân loại kết quả học tập của HS (bài số 1)
93
Biểu đồ 3.4.
Đồ thị phân loại kết quả học tập của HS (bài số 2)
93
vi
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI là thế kỉ con người được chứng kiến sự phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ. Nền kinh tế tri thức trở thành yếu tố then chốt quyết
định sự phát triển và vị thế của mỗi quốc gia, trong đó con người đóng vai trò là
yếu tố trung tâm, chủ thể kiến tạo nên xã hội, vì thế con người cần trang bị vốn
tri thức và năng lực đa dạng để đáp ứng yêu cầu mới của xã hội tri thức. Hơn nữa
trong một xã hội toàn cầu con người không chỉ là công dân của một quốc gia mà
còn là công dân của quốc tế, nguồn nhân lực của thế giới nên con người cần
chuẩn bị một hành trang tốt nhất để đón nhận những cơ hội và cả những thách
thức mới của đời sống quốc tế. Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và vững vàng
trước những thách thức đó, giáo dục phải đi trước một bước, phải tiến hành cuộc
cách mạng nhằm thay đổi, cải tiến chương trình, phương pháp cách tiếp cận để
giáo dục thực sự là công cụ hữu hiệu hỗ trợ đắc lực cho con người trong một xã
hội mới. Đây cũng là mục tiêu giáo dục của mà UNESCO đề xướng: “Học để biết,
học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”, như vậy HS học
không phải chỉ tiếp thu tri thức của nhân loại mà còn phải biết vận dụng, thực hành
tạo ra được sản phẩm cho xã hội, biết cách chung sống với cộng đồng, thích ứng
được với từng hoàn cảnh, môi trường sống, phát huy được những năng lực sở
trường và khả năng của mình, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Qua đó
tự khẳng định giá trị của bản thân, vị thế của bản thân trong cộng đồng.
Dạy học theo định hướng tiếp cận năng lực là một chương trình dạy học
theo chuẩn đầu ra về phẩm chất năng lực. Khác với chương trình hiện hành theo
định hướng nội dung đã triển khai nhiều năm qua, đang tồn tại nhiều bất cập và
hạn chế, chương trình dạy học theo năng lực tập trung vào mô tả chất lượng đầu
ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học đáp ứng những mục
tiêu giáo dục hiện nay. Phát triển năng lực của người học đang trở thành một
1
hướng đi đúng đắn hiện nay mà nhiều quốc gia đang theo đuổi, đáp ứng xu thế
toàn cầu, phù hợp với định hướng của trung ương Đảng trong nghị quyết 29:
“Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất cho người học”. Dạy học thay vì lấy “dạy” làm
trung tâm chuyển sang lấy “học” làm trung tâm, HS giữ vai trò chủ thể sáng tạo
khám phá trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Xu hướng dạy học này khắc phục
những hạn chế cố hữu của chương trình ở Việt Nam hiện nay, giải quyết những
đòi hỏi của nền giáo dục hiện đại và đổi mới toàn diện.
Nguyễn Minh Châu và tác phẩm của ông có vị trí đặc biệt trong nền văn
học dân tộc, nhà văn đã lăn lộn với cuộc sống, hết mình với văn chương để cống
hiến cho đời những tác phẩm văn chương mang đậm hơi thở của cuộc sống. Tác
phẩm của ông đã gắn bó một chặng đường dài của lịch sử dân tộc, trước 1975
người đọc biết đến Nguyễn Minh Châu với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết đậm
chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, đó là những bản anh hùng ca chói ngời phẩm
chất anh dũng, kiên cường, của con người Việt Nam trong khói lửa chiến tranh
thì sau 1975 là một Nguyễn Minh Châu thâm trầm sâu sắc khi đề cập đến muôn
mặt của cuộc sống đời thường và những góc cạnh xù xì của cuộc sống mới đầy
phức tạp. Sau chiến tranh ông được coi là người mở đường “tinh anh và tài năng
” (Nguyên Ngọc), người đặt những viên gạch đầu tiên cho công cuộc đổi mới
của nền văn học nước nhà, người “tiền trạm đổi mới” (GS.Phong Lê) trong nền
văn học hiện đại Việt Nam.
Nhiều năm qua, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn được giới thiệu
và giảng dạy trong chương trình từ cấp THCS đến cấp THPT. Trước đây trong
chương trình sách giáo khoa cũ, ông có hai tác phẩm được giảng dạy đó là Bức
tranh và Mảnh trăng cuối rừng, trong chương trình SGK hiện hành thì HS biết
đến hai tác phẩm đó là Bến quê (SGK Ngữ văn 9 tập 1) và Chiếc thuyền ngoài xa
(SGK Ngữ văn 12). Như vậy có thể khẳng định nhà văn và sáng tác của ông luôn
2
có một vị trí đặc biệt trong nhà trường. Đáng chú ý phải nói đến tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa, tác phẩm được sáng tác sau chiến tranh có nhiều những cách
tân về cảm hứng sáng tác, đề tài, kết cấu, cốt truyện. Tác phẩm gắn bó mật thiết
với thực tế đời sống, mang đến những góc nhìn khác nhau về sự phức tạp của
cuộc sống, vì thế truyện ngắn có sức hấp dẫn lớn với cả GV và HS trong cảm
nhận và khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Truyện ngắn
được giảng dạy với nhiều cách tiếp cận, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa lựa
chọn được một cách tiếp cận thống nhất, hiệu quả tối ưu trong dạy học tác phẩm
này, đảm bảo yêu cầu vừa khám phá giá trị tác phẩm, vừa phát huy được năng
lực HS.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài : “Dạy học tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực”
với đề xuất đổi mới trong phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
người học, nhằm tìm tòi một hướng đi mới trong dạy học Ngữ văn và nâng cao
hiệu quả công tác giảng dạy của bản thân, lan tỏa ngọn lửa tâm huyết của mình
với học trò, tạo động lực, hứng thú cho các em tình yêu sự say mê với môn học,
góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới toàn diện phương pháp dạy học Ngữ
văn trong nhà trường và nền giáo dục nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực đang trở thành xu thế mới
của dạy học thế giới trong thế kỉ XXI, với nhiều những ưu thế vượt trội so với
dạy học theo nội dung, xu hướng dạy học này được các nhà khoa học giáo dục
chú ý cả về lí luận và thực tiễn. Trên thế giới có nhiều công trình tiêu biểu của
các nước New Zealand, Úc, các nước EU, Mĩ. Tại Việt Nam xu hướng dạy học
này, gần đây được giới nghiên cứu rất quan tâm, nhiều cuộc hội thảo, chuyên đề
đã được xây dựng, các luận văn, luận án được triển khai ở nhiều cấp từ bộ giáo
3
dục đến các trường đại học, trường chuyên nghiệp, dạy học nghề, sở giáo dục…
Các nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thống, Tôn Quang Cường, Nguyễn Thúy Hồng,
Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Thị Mỹ Lộc,…đã có những nghiên cứu, phân tích
và định hướng về dạy học theo hướng phát triển năng lực. Trong đó có những
công trình đã đi sâu vào vấn đề cụ thể: Báo cáo khao học Dạy học phát triển các
năng lực học sinh trong thế kỉ XXI (Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2010), bài viết Thiết
kế chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận đầu ra (Tôn Quang Cường), bài
báo cáo Từ định hướng giáo dục phát triển năng lực học sinh nghĩ về viêc dạy
học văn học dân gian trong nhà trường phổ thông (Nguyễn Thị Ngọc Điệp,
2014) luận án tiến sĩ Phát triển một số những năng lực của họa sinh trung học
phổ thông qua phương pháp và sử dụng thiết bị trong dạy học hóa học vô cơ
(Trần Thị Thu Huệ, 2012), luận án tiến sĩ Dạy học theo định hướng phát triển
năng lực cho học viên trường sĩ quan chính trị (Trần Xuân Phú, 2012),luận văn
thạc sĩ Dạy học phát triển năng lực học sinh trung học phổ thông với các bài
toán tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) (Nguyễn Quốc
Trịnh, 2011). Ngoài ra còn nhiều bài báo khoa học, bài nghiên cứu, nhiều công
trình nghiên cứu, tham luận khác đã cung cấp các vấn đề lí luận và thực tiễn về
việc xây dựng hệ thống các năng lực cho HS hiện nay.
2.2. Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa theo hướng phát triển năng lực
Tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm của ông luôn có một vị trí đặc
biệt trong chương trình phổ thông. Ông là người đặt những viên gạch đầu tiên
định hướng, chuyển giao thành công về cảm hứng sáng tác, chủ đề, đề tài cho sự
đổi mới của nền văn học nước nhà trong thời kì hậu chiến. Truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” cùng nhiều truyện vừa, truyện ngắn khác sau 1975 như: Cỏ lau,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… luôn tạo dược sự chú ý, hấp dẫn với
bạn đọc nói chung và giới phê bình nói riêng. Số lượng bài viết lên đến con số
hàng trăm, được tập hợp trong cuốn: “Nguyễn Minh Châu - Con người và Tác
4
phẩm” do Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn, Tôn Phương Lan với
công trình “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu” và còn nhiều chuyên
luận, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, nghiên cứu về tác giả
và tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn mới được đưa vào chương trình
SGK Ngữ văn 12 từ năm học 2008-2009 trong tiến trình đổi mới chương trình
giáo dục và SGK của nước nhà. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được lựa
chọn để thay thế cho tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng một tác phẩm đã đã gắn bó
với nhà trường phổ thông hàng chục năm và quá quen thuộc với GV và HS.
Mảnh trăng cuối rừng sáng tác 1970, viết về đề tài chiến tranh, là câu chuyện cổ
tích tình yêu thời chiến thơ mộng, còn Chiếc thuyền ngoài xa (1983) là câu
chuyện thực tế về cuộc sống với nhiều nghịch lí và mâu thuẫn mà tác giả đã
khám phá và phát hiện. Từ khi đưa vào chương trình, truyện ngắn đã nhận được
rất nhiều ý kiến, đánh giá khác nhau về nội dung và nghệ thuật, nhiều công trình
có chất lượng nghiên cứu sâu về tác phẩm này.
Về phương pháp dạy học, các công trình đã nghiên cứu cách tiếp cận,
phương pháp tổ chức truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, tác phẩm được tiếp
cận từ rất nhiều góc độ khác nhau thể loại, thi pháp, quan điểm đồng bộ hay tích
hợp như: “Định hướng dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu” của tác giả Nguyễn Lan Hương (2004), “Vận dụng quan điểm dạy
học phát triển trí thông minh của học sinh vào dạy học Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu (Đinh Văn Đoàn, 2006), “Kết hợp các hướng tiếp cận
trong dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu lớp 12
trung học phổ thông” (Trần Thị Thu, 2012), “Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu cho học sinh lớp 12, trung học phổ thông theo
hướng tiếp cận từ thi pháp tác giả” (Nguyễn Kim Hưng, 2013). Hầu hết các
nghiên cứu về phương pháp giảng dạy tác phẩm đã tập trung giải quyết các vấn
5
đề về nội dung, ngôn ngữ, nghệ thuật của tác phẩm, giúp GV có định hướng khai
thác hiệu quả giá trị văn chương nghệ thuật của tác phẩm và giúp HS dễ dàng
tiếp cận đúng về giá trị của tác phẩm. Tuy nhiên các nghiên cứu này vẫn giải
quyết tác phẩm theo hướng nội dung mang tính một chiều, nặng tính hàn lâm,
tạo tâm lí nhàm chán và nặng nề khi học tác phẩm văn học đối với HS, nhất là
thiếu tính thực tế, ứng dụng tác phẩm văn chương vẫn không thoát li khỏi trang
giấy để gắn liền với cuộc sống đời thường. Như vậy, những cách tiếp cận trên
vẫn xa rời thực tế và nặng tính lí thuyết văn chương nghệ thuật.
Từ những đòi hỏi của giáo dục hiện nay về đổi mới toàn diện nước nhà và
bộ môn Ngữ văn, chúng tôi lựa chọn tiếp cận tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
theo định hướng phát triển năng lực. Đề tài “Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu cho học sinh lớp 12 theo định hướng phát triển
năng lực” là đề tài đầu tiên đưa cách tiếp cận mới nhằm phát triển đa dạng năng
lực cho HS, đề tài nhằm cụ thể hóa quy trình
dạy học theo định hướng phát
triển năng lực đối với một tác phẩm văn học cụ thể, góp phần từng bước đổi mới
quy trình dạy học theo hướng tiếp cận mới với tất cả các tác phẩm văn học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phát triển những năng lực của học sinh
qua dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, từ đó
kích thích hứng thú và động cơ học tập môn Ngữ văn .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của Giáo dục học, Tâm lí học, và phương pháp
dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu nói riêng theo hướng phát triển năng lực.
- Xây dựng được quy trình thiết kế dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực.
6
- Bước đầu đánh giá được hiệu quả của hướng dạy học phát triển năng lực
trong một tác phẩm văn chương.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học Ngữ văn ở trường THPT Phùng Khắc Khoan - Thạch
Thất - Hà Nội.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Năng lực của học sinh THPT qua dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu .
- Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu .
- Học sinh lớp 12
- Hiệu quả dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu theo
định hướng phát triển năng lực.
5. Phạm vi nghiên cứu
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho hoạc sinh lớp 12 qua tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Chương trình SGK
Ngữ văn 12 cơ bản)
6. Giả thuyết khoa học
Nếu dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” theo định hướng phát
triển năng lực thì sẽ giúp hoạt động dạy học cuả thầy và trò đạt được những mục
tiêu của bài học, đồng thời giúp HS phát huy được các năng lực khi học tác
phẩm, tạo động lực và hứng thú cho HS khi học văn, góp phần vào đổi mới dạy
học tác phẩm này nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn
nói chung.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
7
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những
vấn đề lí luận, những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp điều tra khảo sát,
phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thống kê và xử lý kết qủa.
8. Đóng góp mới của luận văn
- Đề xuất được những năng lực của HS sau khi dạy học bài “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
- Xây dựng được quy trình thiết kế dạy học một tác phẩm cụ thể theo định
hướng phát triển năng lực.
- Vận dụng được các phương pháp dạy học, hình thức dạy học tích cực khi
dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
- Khắc phục tình trạng dạy học tác phẩm văn học đơn điệu, một chiều như
hiện nay.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thiết kế dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển năng lực cho học sinh
phổ thông
1.1.1.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu phát triển năng lực cho học sinh đã được thế giới bắt đầu từ
những năm 50 của thế kỉ XX với các công trình nghiên cứu về năng khiếu, tài
năng của các tác giả J.Guilfold, C.Taylor.
Đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX, các nước xã hội chủ nghĩa có nhiều công
trình nghiên cứu về năng lực và phát triển năng lực nghề nghiệp cho người học
trong tổ chức dạy học ở các nhà trường. Ở Liên Xô (cũ) tiêu biểu các công trình
nghiên cứu của các tác giả: I.Ia.Lecne, M.I.Macmutov, M.N.Xkatkin, V.Okon...
Các công trình đó đều chỉ rõ tầm quan trọng của phát triển tính độc lập, sáng tạo
và năng lực nghề nghiệp của người học, từ đó trở thành hệ thống lí luận trong
việc hình thành cho người học những năng lực nghề nghiệp cần thiết, tiêu biểu
tác phẩm “Lí luận dạy học trong trường phổ thông trung học” (1982) của các tác
giả M.I.Macmutov, M.N.Xkatkin, V.Okon; tác phẩm “Khoa học sư phạm tích
hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực trong nhà trường” của Xavier
Roegiers; công trình nghiên cứu “Hình thành các kĩ năng kĩ xảo sư phạm cho
sinh viên trong điều kiện nền giáo dục đại học”, Kixegof và các cộng sự đã thiết
kế hơn 100 kĩ năng giảng dạy, trong đó tác giả đề xuất 50 kĩ năng cần thiết để
nhằm phát triển năng lực cho người học. Tuy nhiên các công trình không đưa ra
được cách thức tổ chức quá trình dạy học trong nhà trường nhằm phát triển năng
lực cho người học.
Cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI ở phương Tây cũng xuất hiện các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến việc phát triển các năng lực
9
cần thiết cho người học trong tổ chức dạy học. Đó là các công trình “Rèn luyện
tư duy siêu tốc” (1996) của Robert Z.Strenberg và Wendy M.William; “Phát
triển tư duy sáng tạo” (2008) của Kal Russel.
Ở Châu Á- Thái Bình Dương trong những năm gần đây, vấn đề phát triển
năng lực hành động thực tiễn cho người học luôn được các quốc gia chú ý, nhiều
công trình khoa học của các tác giả đã ra đời. Năm 1988 tại Seoul - Hàn Quốc,
trong hội thảo của Chương trình Châu Á - Thái Bình Dương về cách tân giáo dục
vì sự phát triển do tổ chức Apeid thuộc UNESCO tổ chức, các nhà khoa học đã
thống nhất khẳng định sự quan trọng phải hình thành những năng lực cần thiết
cho người học đồng thời nêu ra những bất cập của quá trình dạy học làm cản trở
sự phát triển năng lực ở người học; công trình của nghiên cứu của Raija Roy
Singh (tiến sĩ giáo dục, người Ấn Độ) với nhan đề “Nền giáo dục của thế kỉ XXI,
những triển vọng của Châu Á - Thái Bình Dương” xác định những năng lực
mong muốn và phát triển chúng trong tổ chức dạy học.
Nhìn chung quan điển của các nhà khoa học phương Tây và Châu Á - Thái
Bình Dương có nhiều điểm khác so với các nhà giáo dục xã hội chủ nghĩa (trước
đây). Mặc dù rất chú ý hình thành các năng lực cho người học thông qua hoạt
động dạy học, nhưng các nền giáo dục phương Tây và Châu Á- Thái Bình
Dương là xem xét cải thiện hình thành năng lực cho người học nghiêng hơn theo
khía cạnh tâm lí học hành vi hơn là tổ chức quá trình dạy học.
1.1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Trước xu thế phát triển của giáo dục trên thế giới, tại Việt Nam các nhà
Giáo dục học cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển năng lực cho người học.
Đương thời còn sống, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn phát triển
một nền giáo dục toàn diện, phát huy những năng lực của HS, đào tạo các em
thành những chủ nhân tương lai của đất nước, những công dân hữu ích cho nước
10
Việt Nam. Trong suốt quá trình bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam và nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục
- đào tạo hướng đến mục tiêu phát triển con người về mọi mặt, kết hợp chặt chẽ
giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề.
Trong những năm 90 của thế kỉ XX, trong nước đã xuất hiện những cuộc
hội thảo lớn bàn về hoạt động dạy học và vai trò của nó đối với phát triển năng
lực cho người học như: Hội thảo nghiệp vụ sư phạm ở Đại học Vinh (1991), Đại
học Sư phạm 2 (1992)…Tuy nhiên, về nội dung, quy mô, cấp độ của các hội
thảo mới chỉ dừng lại ở mức độ tham luận bàn bạc, một số quan điểm hay đề
xuất đổi mới còn mang tính kinh nghiệm.
Những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu, đề tài lí luận và thực
tiễn nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực
học sinh chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức, phát triển năng lực học sinh, với
những các tiếp cận và hướng giải quyết khác nhau. Các công trình này đã chỉ ra
rằng, quá trình dạy học không dứng lại ở việc trang bị những kiến thức kĩ năng
cho HS mà cò bồi dưỡng cho HS những năng lực cần thiết giúp các em biết vận
dụng linh hoạt những kiến thức đã học vào các tình huống trong thực tiễn.
Trong các công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển năng lực cho người
học phải kể đến một số những nghiên cứu của các tác giả: PGS.TS. Đỗ Ngọc
Thống, GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, TS. Tôn Quang Cường, ThS. Nguyễn Quốc
Trịnh … Các nghiên cứu đó đã khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển
năng lực cần phải chuyển từ cách dạy tập trung vào kiến thức sang tập trung vào
năng lực, hướng việc xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp, vận dụng
các hình thức tổ chức vào việc dạy học, đào tạo năng lực theo mục tiêu dạy học.
Những nghiên cứu này bước đầu đã tạo nền tảng về lí luận và thực tiễn cho các
nhà giáo dục tiếp tục các công trình khác có tính sâu rộng hơn, góp phần đổi mới
toàn diện nền giáo dục nước nhà và bắt kịp với xu thế giáo dục thế giới.
11
Nhìn lại quá trình lịch sử nghiên cứu về năng lực và phát triển năng lực
cho người học của các tác giả trong và ngoài nước có thể nhận thấy: Năng lực và
dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho người học được sự quan tâm
đông đảo của các nhà khoa học giáo dục và được triển khai nghiên cứu dưới
nhiều hình thức khác nhau và sự chú ý của nhiều quốc gia trên thế giới.
Từ những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi hình thành, xây dựng và
phát triển đề tài của mình với mục đích tiếp cận những tri trức, phương pháp dạy
học mới nhằm phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy góp phần đổi mới dạy học
môn Ngữ văn nói chung và dạy học các tác phẩm văn xuôi hiện đại nói riêng
trong nhà trường hiện nay.
1.1.2. Lí luận về phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ thông
1.1.2.1. Khái niệm về năng lực
Năng lực (competence) là một khái niệm có nguồn gốc từ tiếng Latinh
“compettentia”. Khái niệm này đã có từ lâu trên thế giới và xuất hiện trong nhiều
lĩnh vực nghiên cứu. Năng lực bao hàm nhiều nghĩa đa dạng và được hiểu dưới
nhiều cách tiếp nhận khác nhau.
Theo cách tiếp cận truyền thống (tiếp cận hành vi-behavioural approach)
thì năng lực là khả năng đơn lẻ của cá nhân, được hình thành dựa trên sự lắp
ghép các mảng kiến thức và kĩ năng cụ thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê): “năng lực” được hiểu là “1/khả
năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào
đó. 2/ Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một
hoạt động nào đó với chất lượng cao”. [12]
Trong những năm gần đây, năng lực đang được nhìn nhận bằng cách tiếp
cận tích hợp:
Theo Barnett (1992): Năng lực là một tập hợp các kiến thức, kĩ năng và
thái độ phù hợp với một hoạt động thực tiễn.
12
Theo Xavier Rogiers (1996): Năng lực là biết sử dụng các kiến thức và
các kĩ năng trong một tình huống có ý nghĩa.
Theo tác giả Trần Bình Trọng và Nguyễn Quang Uẩn (1998): “Năng lực là
tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt
trong lĩnh vực hoạt động ấy” [16, tr.11].
Howard Gardner (1999): “Năng lực phải được thông qua hoạt động có kết
quả và có thể đánh giá hoặc đo đạc được”.
Theo từ điển tâm lý học (Vũ Dũng, 2000): “Năng lực là tập hợp các tính
chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định”.
F.E.Weinert (2001) định nghĩa: “Năng lực là những kĩ năng kĩ xảo học
được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như
sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề
một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt”.
OECD (Tổ chức các nước kinh tế phát triển) (2002) đã xác định: Năng lực
là khả năng cá nhân đáp ứng yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiện vụ
trong một bối cảnh cụ thể”.
Theo Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2005): Năng lực là một thuộc
tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức” [1].
Theo Nguyễn Minh Phương (2007): “Năng lực cần đạt của học sinh THPT
là tổ hợp nhiều khả năng và giá trị dược cá nhân thể hiện thông qua các hoạt
động có kết quả” [13, tr.12].
Theo Nguyễn Trọng Khanh (2013): Một cách khái quát, có thể hiểu năng
lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý của con người đảm bảo thực hiện một hoạt
động nào đó [6].
13
Từ những khái niệm trên có thể thấy việc định nghĩa khái niệm năng lực
khá đa dạng, tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên các định nghĩa có
khác nhau về câu chữ nhưng đều khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến
khả năng thực hiện, khả năng hành động một việc nào đó, tức là phải biết làm,
chứ không chỉ biết và hiểu tri thức đơn thuần.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm
năng lực được sử dụng như sau:
- Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy
học được mô tả thông qua các năng lực được hình thành.
- Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết
với nhau nhằm hình thành các năng lực.
- Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn…
- Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá
mức độ quan trọng và cấu trúc hoá các nội dung và hoạt động, hành động dạy
học về mặt phương pháp.
- Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các
tình huống.
- Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn hóa tạo thành
nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học.
- Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các
chuẩn: Đến một thời điểm nhất định nào đó, học sinh có thể, phải đạt được là gì?
Từ những phát biểu trên, chúng tôi hiểu năng lực là khả năng thực hiện,
giải quyết hiệu quả các hành động, nhiệm vụ, vấn đề trong mọi tình huống thuộc
các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở tổng hợp các kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo, thái độ.
14
1.1.2.2. Phân loại năng lực
Phân loại năng lực là một vấn đề phức tạp theo những quan điểm khác
nhau đang tồn tại nhiều cách phân loại về năng lực. Từ hiểu biết về năng lực
khác nhau, ta có thể thấy các nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng những mô
hình năng lực khác nhau trong tiếp cận của mình:
(1) Mô hình dựa trên cơ sở tính cách và hành vi cá nhân của cá nhân theo
đuổi cách xác định “con người cần phải như thế nào để thực hiện được các vai
trò của mình”;
(2) Mô hình dựa trên cơ sở các kiến thức hiểu biết và các kỹ năng được
đòi hỏi theo đuổi việc xác định “con người cần phải có những kiến thức và kỹ
năng gì” để thực hiện tốt vai trò của mình.
(3) Mô hình dựa trên các kết quả và tiêu chuẩn đầu ra theo đuổi việc xác
định con người “cần phải đạt được những gì ở nơi làm việc”.
Theo tác giả Bernd Meier, Nguyễn văn Cường (2005): Có nhiều loại năng
lực khác nhau. Năng lực hành động cũng là một loại năng lực. Khái niệm phát
triển năng lực cũng được hiểu đồng nghĩa với phát triển năng lực hành động. Cấu
trúc của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần
Nguồn: [1, tr 46]
15
(a) Năng lực chuyên môn (Professional competency):
Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh
giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt
chuyên môn. Trong đó bao gồm cả khả năng tư duy lô gic, phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hoá, khả năng nhận biết các mối quan hệ hệ thống và quá trình. Năng
lực chuyên môn hiểu theo nghĩa hẹp là năng lực, nội dung chuyên môn theo
nghĩa rộng bao gồm cả năng lực phương pháp chuyên môn.
(b) Năng lực phương pháp (Methodical competency):
Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích
trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm
năng lực phương pháp chung và phương pháp chuyên môn. Trung tâm của
phương pháp nhận thức là những khả năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ
và trình bày tri thức.
(c) Năng lực xã hội (Social competency):
Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội xã hội cũng
như trong những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp sự phối hợp chặt chẽ với
những thành viên khác.
(d) Năng lực cá thể (Induvidual competency):
Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như
những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu cá nhân, xây dựng và thực
hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và
động cơ chi phối các ứng xử và hành vi.
Mô hình cấu trúc năng lực trên đây có thể cụ thể hoá trong từng lĩnh vực
chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau. Mặt khác, trong mỗi lĩnh vực nghề nghiệp
người ta cũng mô tả các loại năng lực khác nhau. Ví dụ năng lực của GV bao
gồm những nhóm cơ bản sau: Năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực
chẩn đoán và tư vấn, năng lực phát triển nghề nghiệp và phát triển trường học.
16
Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, dựa vào phân công lao động xã
hội, theo xu hướng chuyên môn hóa, năng lực được chia thành hai loại: năng lực
chung và năng lực riêng (năng lực chuyên biệt) [2].
Năng lực chung là năng lực thiết yếu, cơ bản để con người có thể sống và
làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển
qua nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Vì thế, có nước gọi đây là
năng lực xuyên chương trình, năng lực chính, năng lực nền tảng. Theo tài liệu
tập huấn của Bộ giáo dục và đào tạo đã xác định 9 năng lực chung đối với học
sinh PT[2,tr 46]:
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực tự quản lý
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ
- Năng lực tính toán
Năng lực riêng (năng lực chuyên biệt hoặc năng lực cụ thể) được hình
thành và phát triển do một lĩnh vực/ môn học nào đó. Đối với bộ môn Ngữ văn
bậc THPT năng lực chuyên biệt được xác định gồm có 6 năng lực:
- Năng lực giao tiếp tiếng Việt
- Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
- Năng lực tư duy sáng tạo
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực hợp tác
- Năng lực tự quản lý bản thân
17
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay
1.2.1.1. Thiên hướng coi trọng lý thuyết, nặng tính hàn lâm qua chương trình
dạy học và cách truyền thụ của người dạy.
Từ năm học 2006 - 2007 chương trình, sách giáo khoa mới bắt đầu được
áp dụng, trong đó có chương trình môn Ngữ văn. Như vậy tính đến nay (2015)
chương trình Ngữ văn đã thực hiện được 9 năm, bên cạnh những ưu điểm
chương trình mới còn bộc lộ nhiều những bất cập và hạn chế cần bàn.
Chương trình Ngữ văn được thiết kế thành chương trình khung (Cụ thể
đến số bài, số tiết, bài học…). Giáo viên thực hiện hoạt động giảng dạy đúng
theo chương trình khung đã được biên soạn.
Chương trình không chỉ cứng nhắc, gò bó người dạy và người học mà còn
nặng về hướng triển khai kiến thức, chưa cụ thể hóa được mục tiêu năng lực, nội
dung chương trình phù hợp với những tri thức có tính hệ thống và cập nhật của
ngành Ngữ văn, tuy nhiên càng lên lớp trên, tính hàn lâm càng nặng, khả năng
tác động đến sự phát triển và hoàn thiện năng lực của học sinh càng yếu. Chương
trình chưa có sự phân hóa phù hợp với điều kiện vùng miền, HS… Đặc biệt nội
dung chương trình quá tải, số lượng văn bản văn học rất nhiều, thời gian ít nhưng
phải dạy quá nhiều nội dung như 1 tiết phải dạy đến 2 bài như Mấy ý nghĩ về thơ
của Nguyễn Đình Thi và Đô-xtôi-epxki của X.Vaigơ. Kiến thức của văn bản quá
khó vượt tầm nhận thức của HS, thời gian thì hạn chế khiến giờ học như cưỡi
ngựa xem hoa. Ngoài ra, chương trình quy định chi tiết cả tên tác phẩm, thậm chí
từng trích đoạn tác phẩm mặc dù đáp ứng một số những yêu cầu nhất định về
quản lí nhưng tạo ra một xu hướng khép kín, xa rời thời sự văn học, không phù
hợp với tâm lí và xu hướng đọc sách của HS hiện nay, do đó không khơi gợi
được hứng thú học tập của các em. Vì vậy, sau khi học xong chương trình giáo
dục phổ thông môn Ngữ văn, HS của Việt Nam đã được trang bị một khối lượng
18