Sự ra đời của cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 - cơ hội và thách thức
đối với các doanh nghệp Việt Nam
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một trong 3 trụ cột quan trọng
của Cộng đồng ASEAN (Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã
hội), được kỳ vọng hình thành vào năm 2015, mở ra cơ hội to lớn
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong mở rộng thị trường xuất
khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân
lực..., tận dụng được cơ hội do quá trình hội nhập quốc tế mang lại
nhưng cũng có những thách thức không nhỏ mà cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi tham gia AEC. Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) sẽ hình thành vào cuối năm 2015, dự kiến sẽ giúp
Việt Nam tăng trưởng GDP thêm 14,5% và tăng trưởng việc làm
thêm 10,5%.
Tuy nhiên, đi kèm với những cơ hội thì AEC cũng đặt ra không ít
thách thức, đòi hỏi Việt Nam phải có chiến lược điều chỉnh kịp thời
và hiệu quả. Để hiểu rõ hơn về những cơ hội và thách thức đó em
xin lựa chọn “Sự ra đời của cộng đồng kinh tế ASEAN 2015- cơ hội
và thách thức đối với các doanh nghệp Việt Nam” làm đề tài cho
bài tập học kì của mình.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý thuyết
1.Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện
các hoạt động kinh doanh, thực hiện chức năng sản xuất, mua bán
hàng hóa hoặc làm dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con
người và xã hội và thông qua hoạt động hữu ích đố để kiếm lời.
Cũng theo Luật doanh nghiệp 2005 giải thích, Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Kết hợp điều 4 luật
Doanh nghiệp năm 2005: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn địn, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh”.
2. Vai trò của doanh nghiệp nước ta hiện nay
Trong sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh CNH-HĐH thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các doanh nghiệp (DN)
có vị trí , vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân .
Nó góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành và của cả
nền kinh tế; tạo thêm hàng hoá dịch vụ; tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động ; tăng thu nhập và nâng cao đời sống; tạo
nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước và đặc biệt được
coi là “chiếc đệm giảm sóc” của thị trường .
Các DN có những đóng góp quan trọng vào việc giải quyết các vấn
đề xã hội như tạo nhiều việc làm cho người lao động,có thể sử
dụng lao động tại nhà, lao động thường xuyên và lao động thời
vụ;hạn chế tệ nạn ,tiêu cực (Do không có việc làm); tăng thu
nhập ,nâng cao chất lượng đời sống ;tạo nguồn thu quan trọng cho
ngân sách nhà nước; thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư; khai thác được tiềm năng sẵn có.
Xu hướng thanh lọc diễn ra mạnh mẽ từ năm 2013 đến nay đã
sàng lọc lại những DN thực sự có chất lượng, không chỉ linh hoạt
để tồn tại qua giai đoạn khó khăn nhất mà còn tìm kiếm thêm cơ
hội kinh doanh mới để mở rộng quy mô hoạt động. Mặc dù vẫn
chưa thực sự thoát khỏi bối cảnh khó khăn nhưng xét trên khía
cạnh quy mô vốn, doanh nghiệp đã tăng hơn so với cùng kỳ năm
ngoái. Điều đó cho thấy môi trường kinh doanh đã được cải thiện,
tạo niềm tin cho cộng đồng DN vào môi trường kinh doanh. Đặc
biệt là khi Việt Nam gia nhập khối kinh tế ASEAN đã mở ra cho các
doanh nghiệp nước ta những cơ hội lớn lao để phát triển, nhưng
bên cạnh đó cũng kéo theo nhiều vấn đề khó khăn cần giải quyết
và vượt qua để đạt những lợi ích lớn nhất.
3. Việt Nam trong tiến trình gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN
Theo dự định của các nhà lãnh đạo ASEAN, AEC sẽ được thành lập
vào năm 2015. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhấn mạnh: Cộng đồng
Kinh tế ASEAN là việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập
kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu
vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh
cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do,
và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói
nghèo và chênh lêch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020.
Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010)
Là thành viên tích cực của ASEAN, Việt Nam đã và đang nỗ lực
chuẩn bị gia nhập AEC. Theo cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam
trong CEPT-ATIGA, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế về 0% cho tất cả các
mặt hàng trao đổi trong ASEAN (ngoại trừ các mặt hàng trong
Danh mục loại trừ chung) với lộ trình cho hầu hết các dòng thuế là
cho tới năm 2015 và 7% dòng thuế còn lại cho tới năm 2018. Hải
quan điện tử là một nội dung quan trọng đang được thực hiện
nhằm các mục tiêu trên. Việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử ở
Việt Nam về cơ bản đã đạt được các mục tiêu như rút ngắn thời
gian thông quan, và giảm các yêu cầu về các giấy tờ kê khai. Việt
Nam cũng đang xây dựng chương trình Một cửa quốc gia
(Vietnam's National Single Window - VNSW) nhằm tạo thuận lợi tối
đa cho thương mại.
Bên cạnh các nội dung trên, Việt Nam cũng đang nỗ lực đơn giản
hoá hệ thống các giấy phép, giấy chứng nhận bao gồm giấy phép
xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), giấy chứng
nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm. Các
nỗ lực này thể hiện qua hệ thống eCoSys (hệ thống xin cấp C/O
qua mạng) cũng như việc cấp phép nhập khẩu tự động. Hướng tới
tự do hóa dịch vụ, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi một số Luật liên
quan như Luật đầu tư, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp và ban
hành nhiều Nghị định, văn bản hướng dẫn các Luật này.
Để thực hiện trụ cột 2 của AEC, Việt Nam đã sửa đổi và ban hành
mới các chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ
thể, điển hình là trong các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để phù hợp với các cam kết
trong hiệp định khung ASEAN về dịch vụ(AFAS) cũng như GATS. Đối
với các ngành ưu tiên gồm y tế, du lịch, logistics, e-ASEAN và hàng
không, Việt Nam cũng đã tuân thủ nghiêm túc các cam kết và tích
cực tham gia vào các hiệp định liên quan. Hiện tại, Việt Nam được đánh
giá là một trong những nước có Luật cạnh tranh khá toàn diện áp dụng cho cả nền
kinh tế và có các cơ quan giám sát thực hiện luật này cùng với Indonesia,
Singapore và Thái Lan...
II. Những cơ hội và thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam
1 Những cơ hội
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn trong việc mở
rộng thị trường bởi môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và
dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, loại bỏ
các rào cản thương mại và dịch vụ. Quy tắc xuất xứ linh hoạt, hiện
đại,tính minh bạch hóa cao là một số trong nhiều yếu tố thuận lợi
hóa. Ví dụ như, trong ASEAN có chứng nhận xuất xứ hàng hóa, với
60% sản phẩm được sản xuất từ ASEAN thì được chứng nhận là
sản phẩm trong ASEAN, do đó sẽ được hưởng lợi thế trong các hiệp
định thương mại tự do trong ASEAN, nhất là trong ASEAN với bên
ngoài. Đối với Việt Nam, ASEAN là một trong những đối tác quan
trọng hàng đầu về thương mại và đầu tư. ASEAN hiện là thị trường
xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của các doanh nghiệp Việt Nam và
là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hoá lớn thứ 2 cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam
với các nước ASEAN năm 2013 đạt 40,1 tỷ USD(Tổng cục thống kê,
2014). Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội
tiếp
cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của ASEAN, vì
ASEAN có một số hiệp định thương mại tự do với các đối tác như
Úc - New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và một số
nước khác thông qua các thỏa thuận Thương mại tự do (FTAs)
riêng rẽ. Từ đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn
vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu.
Thứ hai, Việt Nam có cơ hội xây dựng được hệ thống doanh nghiệp
vững mạnh. Dưới sức ép cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay cũng như tiến trình xây dựng AEC, các quốc gia
ASEAN cũng như Việt Nam cần thiết phải có lộ trình và chiến lược
phát triển hệ thống doanh nghiệp của mình, đủ sức cạnh tranh tại
thị trường trong và ngoài nước.
Một trong các đặc trưng của AEC là xây dựng một khu vực có sự
phát triển kinh tế cân bằng với hai yếu tố: Phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SME) và Sáng kiến hội nhập ASEAN nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển ở cấp độ SME cũng như thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế của các nước CLMV (Campuchia, Lào,
Myanma và Việt Nam), để cho phép tất cả các quốc gia thành viên
phát triển theo một định hướng thống nhất và tăng cường khả
năng cạnh tranh của cả khu vực, giúp các nước tận dụng được cơ
hội do quá trình hội nhập AEC mang lại. AEC khuyến khích các
thành phần kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
phát triển, và dành nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho khu vực này. AEC xác
định vai trò của khu vực tư nhân là một bên liên quan trong tiến
trình hội nhập ASEAN; coi phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SME) là trọng tâm, là xương sống của các nền kinh tế ASEAN, đã
và đang thiết kế một chương trình trước và sau 2015 nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh, giúp các SME hưởng lợi nhiều hơn từ hội
nhập ASEAN, trong đó tập trung vào thiết lập môi trường chính
sách năng động, khả năng tiếp cận nguồn lực từ tài chính, dịch vụ
hỗ trợ...được cải thiện.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt với sức ép hội nhập với cộng động
doanh nghiệp ASEAN năng động, hiện đại, phải thích ứng và đẩy
mạnh ứng dụng các phương thức quản lý và kinh doanh hiện đại,
như thương mại điện tử và Hải quan điện tử (một trong các ưu tiên
của AEC) sẽ ngày một năng động hơn, năng lực cạnh tranh và
năng suất sẽ được nâng lên. Từ thực tiễn phát triển cho thấy ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) giúp các doanh
nghiệp chuyển từ cạnh tranh về chi phí nhân công thấp và tài
nguyên thiên nhiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh của hàng
hoá và dịch vụ dựa trên giá trị tri thức, có giá trị gia tăng cao.
Tham gia AEC cũng sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với
khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với phương thức kinh doanh
mới, giúp mở rộng thị trường, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp
và sản phẩm cung ứng khu vực và toàn cầu; nâng cao năng lực
lãnh đạo doanh nghiệp.
Thứ tư, cắt giảm thuế quan là một thuận lợi giúp nâng cao khả
năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong hiệp
định ASEAN, các nước cùng xây dựng hải quan một cửa đồng nghĩa
với việc sản phẩm của một công ty sản xuất của Việt Nam có thể
bán tại Singapore, Thái Lan mà không phải chịu thuế. Cắt giảm
thuế quan là một thuận lợi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh đối
với các doanh nghiệp Việt Nam.Thuế suất trong các hiệp định như
các hiệp định ASEAN, thuế suất sẽ về từ 0% - 5% đến năm 2018;
nếu sản xuất để xuất khẩu thì sẽ không phải chịu thuế suất hoặc
thuế suất thấp. Ví dụ thuế suất trong ASEAN sẽ về 0% -5% vào
2015, nếu sản xuất để xuất khẩu thì sẽ không phải chịu thuế suất.
Đồng thời, nhập khẩu máy móc cũng không phải chịu thuế suất,
điều này sẽ tạo điều kiện cho việc hạ giá thành và tăng chất lượng
của sản phẩm cũng như tăng tính cạnh tranh của hàng hóa. Theo
Bộ Công Thương (2014), tính đến tháng 8-2014, AEC đã ghi nhận
kết quả tích cực về tự do hóa thuế quan mà các nước ASEAN đạt
được, quan trọng nhất là việc xóa bỏ thuế nhập khẩu với mức bình
quân 89% biểu thuế về mức 0%.
Thứ năm, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tạo ra nhiều việc làm
hơn, thông qua thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ,
phân bổ nguồn lực tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và khả
năng cạnh tranh,là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC
nhằm thúc đẩy ASEAN thành một khu vực thu hút đầu tư toàn diện
và hướng tới tự do hơn trong môi trường đầu tư. Có thể thấy trong
những năm qua, vốn FDI vẫn tăng mạnh vào ASEAN, năm 2013
đạt 122,4 tỷ USD trong đó EU và Nhật Bản dẫn đầu, đầu tư nội
khối chiếm 17,4% và Trung Quốc chiếm vị trí thứ 4 khoảng 7,02%
với giá trị là 8,6 tỷ USD và rõ ràng đối với các nước CLMV có những
dấu hiệu tích cực đối với tăng trưởng của các ngành dịch vụ (theo
UBQG về hợp tác kinh tế quốc tế, 2014).
2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
2.1 Thể chế thị trường còn nhiều khiếm khuyết là nguyên nhân cản
trở sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước
Việt Nam là nước hội nhập muộn, vẫn là một nền kinh tế chuyển
đổi, trình độ phát triển thấp, năng lực thực tế của Việt Nam còn ở
mức thấp, khả năng hoạch định và thực thi pháp luật còn nhiều
hạn chế, nhiều chính sách được ban hành chưa tuân thủ theo cơ
chế thị trường, hiện tượng đầu cơ trục lợi phổ biến dẫn đến sự méo
mó của thị trường, khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nước và
phát triển của doanh nghiệp. Tư duy quản lý và năng lực quản lý
còn nhiều hạn chế, tư duy về kinh tế thị trường còn nhiều khiếm
khuyết...là cản trở lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.
Các cơ hội và thách thức luôn chuyển hoá cho nhau, do đó nếu
Việt Nam không cải cách mạnh mẽ bên trong cả về Nhà nước,
doanh nghiệp và người dân thì khi hội nhập có thể phải gánh chịu
những rủi ro rất lớn. Điều này thể hiện rõ sau hơn 7 năm gia nhập
WTO, nhập siêu tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu chủ yếu tập
trung vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các
doanh nghiệp trong nước ngày càng yếu thế ngay tại thị trường nội
địa.
2.2. Năng lực cạnh tranh và hội nhập của doanh nghiệp còn yếu
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam yếu. Các doanh
nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, không phát huy được vai
trò đầu tàu cho hệ thống doanh nghiệp cả nước, khu vực kinh tế tư
nhân còn bị phân biệt đối xử, chưa đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp các nước trong khu vực. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ
được tham gia thị trường thương mại có quy mô lớn, được hưởng
nhiều ưu đãi, nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, nếu không khai thác tốt,
các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ mất cơ hội chiếm lĩnh thị
trường khu vực, mà ngay thị trường nội địa cũng khó có thể giữ
vững. Ví dụ,từ nhiều năm nay, hàng hoá của các nước trong khối
ASEAN đã tràn ngập thị trường Việt Nam, như sản phẩm dao gọt
trái cây, hay nước tăng lực của Thái Lan…., và sẽ còn tràn vào thị
trường Việt Nam nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Các doanh
nghiệp sản xuất hàng điện tử Việt Nam đối mặt với nguy cơ bị đẩy
ra khỏi ngành do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và
Singapore.Tập đoàn Berli Jucker (BJC) của Thái Lan vừa đạt được
thỏa thuận mua lại lĩnh vực kinh doanh sỉ của 5 METRO tại Việt
Nam là điển hình của các doanh nghiệp ASEAN chuẩn bị làm ăn lâu
dài tại Việt Nam khi AEC chính thức vào 2015.
Việt Nam chưa có nhiều các doanh nghiệp mang tầm quốc tế và
khu vực. Năng lực hội nhập và mở rộng thị trường nước ngoài còn
yếu, còn nhiều thụ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
chưa thực sự chủ động chuyển mình theo yêu cầu đòi hỏi của hội
nhập kinh tế, đây sẽ là bất lợi rất lớn trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay, khi các nhiều các tập đoàn lớn trên thế giới đầu tư vào
Việt Nam. Nếu không có chiến lược phát triển hệ thống doanh
nghiệp từ cả phía chính phủ và doanh nghiệp, chiến lược tìm hiểu
và mở rộng thị trường nước ngoài bài bản thì các doanh nghiệp
Việt Nam vẫn sẽ chỉ là doanh nghiệp đi gia công cho các doanh
nghiệp nước ngoài, phụ thuộc nhiều vào biến động của kinh tế thế
giới và trong nước.
2.3. Chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp trong nước
còn thấp
Khi AEC trở thành hiện thực vào 2015, sẽ cho phép tự do di chuyển
lao động có tay nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia
và lao động có tay nghề của ASEAN tham gia vào hoạt động liên
quan đến thương mại và đầu tư qua biên giới. Tám ngành nghề lao
động dự kiến trong AEC được tự do di chuyển qua các thỏa thuận
công nhận tay nghề tương đương, gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha
sĩ, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, vận chuyển và nhân viên ngành du
lịch. Điều này cho thấy yêu cầu về chất lượng nhân lực cao, nhân
lực phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở
lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.
Sự chênh lệch về thu nhập lớn giữa các quốc gia ASEAN sẽ là
nguyên nhân tạo nên sự di chuyển lao động giữa các quốc gia
giàu, nghèo khi AEC trở thành hiện thực vào 2015. Do đó đây sẽ là
thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam nếu không có chiến
lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lựctrong bối cảnh các nước
ASEAN đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam càng tăng. Đồng
thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư vào các nước ASEAN
trong thời gian tới sẽ là áp lực đối với lực lượng lao động của các
doanh nghiệp Việt Nam, với thực trạng hiện tại là thiếu hụt nghiêm
trọng lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng, năng suất lao
động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, khi tham gia AEC, sẽ có hiện tượng chảy máu chất xám,
tự do di chuyển lao động. Do đó, ngoài việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phải đi kèm các giải pháp tránh chảy máu chất
xám, chính sách lao động - việc làm và đãi ngộ hợp lý là nội dung
trọng tâm các doanh nghiệp Việt Nam cần tính đến thời gian tới.
2.4 Các doanh nghiệp nhỏ và nhiều ngành của nền kinh tế sẽ chịu
tác động xấu
Tham gia AEC sẽ tạo ra cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam
hưởng lợi ích từ việc áp dụng các thuận lợi hóa thương mại tự do.
Tuy nhiên, hiện đang có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát
triển của các nước Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV)
so với các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan), thể hiện ở cả quy mô vốn của nền kinh tế,
quy mô hoạt động của các doanh nghiệp, trình độ khoa học kỹ
thuật, tay nghề lao động… Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
chịu sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ,
đầu tư của các doanh nghiệp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu
năm và có ưu thế về dịch vụ trên phạm vi thế giới tại các nước
ASEAN khác, như Singapore, Malaysia, Indonesia…
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chưa có
nhiều mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Các mặt hàng nông, lâm, thủy sản là thế mạnh của Việt Nam
nhưng đang gặp phải những khó khăn về diện tích canh tác ngày
càng thu hẹp do xu hướng đô thị hóa, khả năng khai thác, đánh
bắt, tiếp thu công nghệ tiên tiến, hiện đại đáp ứng yêu cầu chất
lượng của thế giới còn rất hạn chế. Những lợi thế cạnh tranh của
các mặt hàng chế biến như tỷ lệ sử dụng lao động cao, giá lao
động rẻ đang phải đối mặt sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong
khu vực. Việc phát triển các mặt hàng mới còn gặp nhiều khó khăn
về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ. Nếu không nhanh chóng
nâng cao năng lực cạnh tranh có thể khiến cho doanh nghiệp Việt
Nam nhanh chóng bị đào thải dưới áp lực cạnh tranh thế giới, các
hiệp định Việt Nam ký kết có thể đem lại lợi ích chủ yếu cho doanh
nghiệp nước ngoài thay vì doanh nghiệp trong nước.
Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn bộc lộ rất nhiều hạn
chế. Các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam như da giày, may mặc
dường như được lợi thế về giá nhưng thực chất các sản phẩm đầu
vào như sợi, cúc áo... lại nhập từ các quốc gia khác như Trung
Quốc, Hàn Quốc. Nguyên nhân do các sản phẩm hỗ trợ của Việt
Nam nhìn chung còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã
đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu.
Trong khi đó, các sản phẩm hỗ trợ của Thái Lan, Malaixia... tuy
chất lượng cũng không phải là cao hơn sản phẩm cùng loại của
Việt Nam, nhưng hàng của họ giá rất rẻ, nhiều chủng loại, mẫu mã
đa dạng; thêm vào đó, các quốc gia này chiến lược mở rộng thị
trường bài bản, chuyên nghiệp hơn rất nhiều so với Việt Nam, đây
sẽ là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam thời
gian tới.
Các doanh nghiệp cũng sẽ phải đối mặt với thách thức không nhỏ
khi AEC có hiệu lực. Trong đó đáng chú ý là sức ép từ hàng hóa
nhập khẩu, cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN,một
số ngành sau có thể chịu chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong thời
gian tới, như:
Ngành công nghiệp ô- tô Các doanh nghiệp ngành này chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt Nam
mở cửa thị trường. Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ đối với ngành
công nghiệp ô tô hiện nay ở Việt Nam rất kém, qui mô thị trường
nhỏ là những điểm bất lợi trong thu hút đầu tư vào ngành này. Thời
gian tới khi thuế suất nhập khẩu ô tô có xuất xứ từ ASEAN ngày
càng giảm, ngành ô tô trong nước sẽ còn khó khăn hơn nữa nếu
ngành sản xuất ô tô của Việt Nam không tạo được sự khác biệt.
Các sản phẩm nông nghiệp,chăn nuôi
Giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước
vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn, hệ quả tất yếu là
thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh
tranh sẽ gay gắt hơn. Hiện tại, thức ăn chăn nuôi và sản phẩm đầu
ra chủ yếu bị khống chế bởi các doanh nghiệp nươc ngoài, trong
đó có doanh nghiệp các nước ASEAN; thời gian tới sẽ báo động là
giai đoạn hết sức khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam trong
ngành này. Theo (Rau quả Thái Lan đánh bật Trung Quốc,
2014)cho biết với mặt hàng rau quả, kim ngạch nhập khẩu rau quả
từ Thái Lan trong 7 tháng đầu năm 2014 đạt gần 106 triệu USD,
chiếm 34,2% thị phần. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ chiếm được
23,1%. Như vậy, kim ngạch nhập khẩu rau quả từ Thái Lan lần đầu
tiên đã vượt Trung Quốc và trở thành nước dẫn đầu trong việc xuất
khẩu rau quả vào Việt Nam ….cho thấy đây sẽ là lĩnh vực rất khó
khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai, không chỉ từ
Thái Lan mà còn từ các nước ASEAN khác.
Ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng Sẽ có thách thức rất lớn đối
với lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng của Việt Nam. Các nước
có hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển như ASEAN-6 (Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan)đều mạnh
hơn Việt Nam về mọi mặt. Hơn nữa, thời gian qua, các ngân hàng
của Singapore và Malaysia đang đầu tư rất lớn để có thể đi trước
các đối thủ cạnh tranh khác và chuẩn bị tốt hơn cho AEC. Việt Nam
không những chịu sức ép của AEC trong ngành tài chính- ngân
hàng mà còn chịu nhiều sức ép hơn nữa từ TPP và các FTA đã ký
kết và đang đàm phán. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất khó
khăn nếu không tái cấu trúc, nâng cao khả năng cạnh tranh càng
sớm càng tốt.
2.5 Các doanh nghiệp chưa chủ động phối hợp với Chính phủ
hoạch định chính sách thương mại quốc tế, nắm bắt lộ trình gia
nhập AEC còn thấp
Hoạch định chính sách thương mại quốc tế nói chung và gia nhập
AEC nói riêng gắn liền với quyền lợi của các doanh nghiệp trong
nước và tiên quyết các doanh nghiệp cần phối kết hợp với các cơ
quan quản lý nhà nước trong hoạch định chính sách, phù hợp với
thực trạng, mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam
trong tương lai nhằm thu được kết quả tốt đẹp do hội nhập kinh tế
mang lại.
Tuy nhiên, thời gian qua đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp
trong hoạt động này còn hạn chế,Các doanh nghiệp còn thụ động
trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin mở cửa thị trường, các
cam kết của Việt Nam với đối tác thương mại. Cụ thể như các
doanh nghiệp chưa hiểu hoặc chưa quan tâm đến các ưu đãi thuế
quan, dẫn đến tự đánh mất lợi thế cạnh tranh về thuế và làm giảm
khả năng cạnh tranh hàng hóa trên thị trường quốc tế; một số
doanh nghiệp dù có hiểu biết về quy tắc xuất xứ nhưng khi áp
dụng vào thực tế còn yếu, doanh nghiệp cũng chưa cập nhật đầy
đủ về cam kết cắt giảm thuế hàng năm của WTO của các hiệp định
thương mại tự do (FTA) và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
KẾT LUẬN
Có thể nói AEC đến và đặt Việt Nam cũng như các nước Đông Nam
Á khác trước những cơ hội, thách thức to lớn. Thực tế này đang đòi
hỏi chính phủ, doanh nghiệp và người dân Việt Nam phải có sự
quan tâm, chuẩn bị kỹ lưỡng để tận dụng cơ hội, vượt qua thách
thức trong quá trình tham gia AEC. Trong đó, các yếu tố then chốt
mà Việt Nam không thể bỏ qua là cải cách thể chế và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Việt Nam cần thiết kế một kế hoạch
tổng thể hội nhập để cam kết, lộ trình làm sao cho hài hòa.
Quan trọng hơn, cộng đồng DN phải có lộ trình để thích nghi, thay
đổi phù hợp bởi nếu rào cản thuế quan được gỡ bỏ hoàn toàn và
mang lại lợi ích kinh tế lớn thì quy tắc xuất xứ nổi lên như một rào
cản mới. Để được hưởng các ưu đãi trên thì hàng hóa các nước
trong khối ASEAN phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ theo
tỷ lệ được quy định với từng mặt hàng. Để có thể thích nghi được
vào “sân chơi chung” AEC, Việt Nam sẽ còn rất nhiều việc phải làm
ngay từ những tháng đầu năm 2015.
Việt Nam cần đẩy mạnh tuyên truyền để DN và người lao động tích
cực hơn trong việc chuẩn bị hội nhập AEC, ngoài ra nâng cao năng
suất lao động cũng là một yêu cầu cần phải chuẩn bị để hội nhập
hiệu quả AEC. Để tồn tại, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải liên
kết với nhau, tạo những cơ hội đầu tư để cùng vượt qua thử thách
cho tất cả doanh nghiệp trong nước nhằm tăng sức mạnh cạnh
tranh.