Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 77 trang )

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Dưới áp lực cạnh tranh và nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, ngày nay ngân
hàng cũng như các định chế tài chính khác đã và đang mở rộng các dịch vụ kinh doanh
của mình. Bên cạnh chức năng truyền thống “Là trung gian tài chính có chức năng
chuyển hóa vốn từ người tiết kiệm sang người đi vay và thực hiện thanh toán hàng hóa
và dịch vụ” [9], ngân hàng đang từng bước thâm nhập vào các chức năng hoạt động
của các tổ chức tài chính khác như cung cấp dịch vụ bảo hiểm, thành lập các công ty
trực thuộc như công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý và
khai thác nợ… Ngược lại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng đang từng bước
thực hiện các dịch vụ kinh doanh ngân hàng. Điều này làm cho các định chế tài chính
khác nhau trở nên tương đồng. Chính vì vậy, việc đưa ra khái niệm để phân biệt ngân
hàng với các định chế tài chính khác trở nên khó khăn. Trước hết, khóa luận nêu ra
một số định nghĩa về ngân hàng như sau:
Theo Luật Ngân hàng của Pháp thì ngân hàng được định nghĩa: “NHTM là
những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức
ký khác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu,
tín dụng hay dịch vụ tài chính” [9].
Luật pháp Ấn Độ định nghĩa về Ngân hàng như sau: “NHTM là cơ sở nhận các
khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư” [9].
Một định nghĩa khác về ngân hàng, theo Thomas P.Fitch, Dictionary of Banking
Term đưa ra như sau: “Tổ chức ngân hàng, thường là một công ty, nhận tiền gửi, thực
hiện cho vay, thanh toán séc, và thực hiện các dịch vụ liên quan cho công chúng” [9].
Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 của Việt Nam: “Ngân hàng là loại
hình Tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao
gồm NHTM, ngân hàng chính sách và ngân hàng hợp tác xã.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt


động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận” [9].

1


Hiện nay các NHTM lớn đã trở thành tập đoàn tài chính, có hàng loạt công ty
trực thuộc, làm cho việc định nghĩa ngân hàng không còn đơn giản như trước. Từ đó,
Peter S. Rose đã đưa ra một khái niệm mới về ngân hàng như sau: “Ngân hàng là một
loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất
– đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [10].
Như vậy NHTM cũng là một doanh nghiệp nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt,
không trực tiếp tham gia sản xuất lưu thông hàng hoá nhưng góp phần phát triển kinh
tế, xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng
trung gian thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Lịch sử ra đời và phát triển của ngành
ngân hàng đã chứng minh được rằng: NHTM là sản phẩm tất yếu của quá trình sản
xuất và trao đổi hàng hoá và NHTM cũng lại chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển lên tầm cao mới.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là “cầu nối” giữa
người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng nhiều hình thức, NHTM hình
thành quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này NHTM
vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Với chức năng
trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia bao
gồm: người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền: NHTM thu được lợi ích từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi

của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn
đảm bảo cho người gửi tiền sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh
toán tiện lợi.
Đối với người đi vay: NHTM thỏa mãn được nhu cầu vay vốn để kinh doanh, chi
tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian tìm kiếm nơi cung
ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp như ngân hàng.
Đối với NHTM: NHTM kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay
và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và
phát triển NHTM. Đối với nền kinh tế: chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc cung ứng vốn để đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục với quy mô ngày một mở rộng. Thực hiện chức năng này,
2

Thang Long University Library


NHTM đã biến vốn tạm thời nhàn rỗi chưa tham gia hoạt động thành vốn hoạt động,
kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Ngày nay quan niệm chức năng tài chính của NHTM trở nên phức tạp hơn.
Ngân hàng có thể đứng ra làm trung gian giữa nhà phát hành chứng khoán với những
nhà đầu tư, chuyển giao những mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán,… Do đó,
NHTM không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền mà còn là
trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Chức năng trung
gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của NHTM vì nó phản ánh bản
chất của NHTM là đi vay và cho vay, đồng thời quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng và cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu

khác. NHTM đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi
Ngân hàng là người giữ tài khoản của họ và thực hiện các lệnh thu chi của khách hàng.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực
hiện chức năng trung gian tín dụng. Thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng mở cho
khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đây là tiền đề để khách
hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh
toán. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh
tế có nhiều hạn chế như rủi ro, chi phí lớn,… điều này đã tạo thêm nhu cầu thanh toán
qua ngân hàng của khách hàng.
Ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
thuận lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng tự lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp. Vì
vậy các chủ thể kinh tế không cần giữ, mang và thanh toán, chi trả cho khách hàng
bằng tiền mặt, do đó tiết kiệm được chi phí, thời gian và đảm bảo được thanh toán an
toàn. Đồng thời, chức năng trung gian thanh toán thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,… góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần làm giảm lượng tiền
mặt trong lưu thông, dẫn tới tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm
nhận, bảo quản tiền…
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng
thông qua việc thu phí thanh toán, tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên
3


số dư Có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng là cơ sở hình
thành chức năng tạo tiền của NHTM.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền
Sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh
toán là cơ sở để NHTM thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức
năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng vốn huy động được để cho vay, số

tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng được coi là một bộ
phận của tiền giao dịch. Tuy nhiên để tạo ra tiền gửi thanh toán, NHTM cần thực hiện
chức năng trung gian thanh toán bằng việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách
hàng, số tiền trên tài khoản của khách hàng trở thành một bộ phận của tiền giao dịch.
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Khái niệm về tiền hay tiền
giao dịch không chỉ là tiền do NHTW phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phận quan
trọng là lượng tiền ghi sổ do các NHTM tạo ra.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau,
trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc
thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian
thanh toán và chức năng tạo tiền sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng
hoạt động tín dụng.
1.1.3. Các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên chủ yếu của NHTM, mà qua nghiệp vụ này thì
các nghiệp vụ khác của NHTM mới thực hiện được. Để thành lập NHTM phải có một
số vốn nhất định (vốn pháp định), đồng thời mỗi NHTM phải có một số vốn ban đầu
(vốn tự có) để làm tiền đề cho các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đối với
hầu hết các ngân hàng thì số vốn tự có là rất nhỏ mà nguồn vốn chủ yếu của các
NHTM là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua việc thu
hút tiền gửi bằng các hình thức khác nhau và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Cụ thể,
NHTM thu hút vốn bằng các hình thức sau:
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi: NHTM cung cấp tới khách hàng đa dạng
các loại hình tiền gửi như tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn; Tiền gửi có kỳ hạn,
không kỳ hạn; tiền gửi thanh toán; chứng chỉ tiền gửi (CDs)… với những cách tính lãi

4


Thang Long University Library


suất hấp dẫn để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và nguồn tiền chưa cần dùng
đến của các tổ chức tín dụng.
Huy động trên thị trường liên ngân hàng: Đi vay các tổ chức tín dụng khác trên
thị trường liên ngân hàng là cách mà nhiều ngân hàng thường dùng. Các tổ chức tín
dụng khác trong khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài khoản tại NHTM, qua
tài khoản này NHTM có thể huy động vốn giống như đối với các tổ chức kinh tế bình
thường. Ngoài các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể là nơi cung cấp
vốn cho NHTM dưới hình thức cho vay.
Huy động trên thị trường vốn: Các NHTM có thể phát hành các giấy tờ có giá
như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu để huy động nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung
và dài hạn, tài trợ dự án hay đầu tư vào bất động sản. Tuy nhiên nguồn huy động này
phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường tài chính cũng như uy tín của ngân
hàng phát hành.
1.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng và mang
lại nguồn doanh thu rất lớn cho ngân hàng. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy
tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động cho vay: NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới hình
thức: cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và đời sống; cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Hoạt động bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng
uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối

với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ
so với vốn tự có của NHTM.
Hoạt động chiết khấu: NHTM chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Hoạt động cho thuê tài chính: thực hiện hoạt động này, ngân hàng cần thành lập
công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho
5


thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
công ty tài chính. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân
hàng dành cho khách hàng doanh nghiệp. Ngân hàng cam kết mua và cho thuê lại máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của doanh
nghiệp. Trong suốt thời gian thuê, ngân hàng vẫn là chủ sở hữu tài sản và doanh
nghiệp có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê cho ngân hàng theo hợp đồng đã ký giữa 2 bên.
1.1.3.3. Hoạt động thanh toán và ngân quỹ
NHTM thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua việc
mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. NHTM thực hiện thanh toán giữa
các ngân hàng với nhau thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi NHTM
đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi
nhánh của NHTM mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố nơi đặt
trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm
các hoạt động sau: cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh
toán trong nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ, thực hiện các dịch
vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi
được NHNN cho phép, thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức
hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước,
tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động vốn, cấp tín dụng và cung cấp dịch

vụ thanh toán và ngân quỹ, NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác như: góp vốn
và mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, ủy thác và nhận ủy
thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật quý giá.
1.2. Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng ra đời đầu tiên ở Mỹ vào những năm 70 dưới hình
thức Bảo lãnh thư hoặc Tín dụng thư dự phòng và sau đó được quốc tế hoá như là giải
pháp hữu hiệu nhất đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các
giao dịch thương mại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại hình giao dịch (kể cả trong
các giao dịch tài chính và phi tài chính, thương mại hay phi thương mại) nên vị trí của
bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố và mở rộng không ngừng. Hầu hết các
giao dịch lớn trong phạm vi nội địa cũng như trên phạm vi quốc tế đều có sự hỗ trợ
của bảo lãnh ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng được áp dụng trong mọi lĩnh
vực như: vay vốn, đấu thầu, thực hiện hợp đồng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, thanh
6

Thang Long University Library


toán, hoàn thanh toán, bảo hành, bảo trì, bảo dưỡng… Có thể nhìn nhận bảo lãnh ngân
hàng dưới các góc độ sau:
Xét theo khía cạnh học thuật, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức “tín dụng chữ
ký”, là hoạt động không dùng đến vốn của Ngân hàng [4].
Xét theo khía cạnh thương mại quốc tế, bảo lãnh Ngân hàng được xem như một
loại hình tài trợ thương mại nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo
lãnh do sự vi phạm nghĩa vụ của phía đối tác [4].
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 Điều 4 khoản 18 “Bảo lãnh
Ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam
kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài

chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam
kết”.
Theo luật Dân sự điều 361 của nước ta, bảo lãnh được hiểu là: "Bảo lãnh là việc
người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiệm nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bão lãnh), nếu khi đến thờ hạn mà
bên được bão lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ."
Thông tư 28/2012/TT-NHNN ngày 3/10/2012 quy định về bảo lãnh ngân hàng ở
Điều 3 khoản 1 có quy định: "Bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi là bảo lãnh) là hình
thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh
sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận."
Theo Thông tư số 07/2015/TT-NHNN Điều 3 khoản 12 quy định về bảo lãnh
ngân hàng: Cam kết bảo lãnh là văn bản do bên bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng
hoặc bên xác nhận bảo lãnh phát hành theo một trong các hình thức sau:
Thư bảo lãnh là văn bản cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc
bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Trường hợp bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh thì thư bảo lãnh bao
gồm cả văn bản cam kết của bên bảo lãnh đối ứng với bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thỏa thuận giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo
lãnh và các bên có liên quan (nếu có) về việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
7


hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bảo lãnh
đối ứng, xác nhận bảo lãnh thì hợp đồng bảo lãnh bao gồm cả văn bản thỏa thuận giữa
bên bảo lãnh đối ứng với bên bảo lãnh và các bên liên quan khác (nếu có), giữa bên

xác nhận bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh và các bên liên quan khác (nếu có). Khái
niệm về bảo lãnh ngân hàng có nhiều tài liệu đề cập đến, tuy nhiên bảo lãnh ngân hàng
đều được hiểu là một hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn
bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh
khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam
kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo
lãnh theo thỏa thuận.
Bảo lãnh ngân hàng có nhiều khái niệm, tuy nhiên bảo lãnh ngân hàng đều được
hiểu là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên
nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo
thỏa thuận.
1.2.2. Đặc điểm bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
Trong khái niệm bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh ngân hàng bao gồm ít nhất ba bên
tham gia dựa trên ba mối quan hệ bởi ba hợp đồng. Hợp đồng giữa bên bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh (được gọi là “thư bảo lãnh”), Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và
bên bảo lãnh (được gọi là “hợp đồng phát hành bảo lãnh”), hợp đồng giữa bên nhận
bảo lãnh và bên được bảo lãnh (đây có thể là hợp đồng mua bán, hợp đồng thi công, hồ
sơ vay vốn,..). Tuy có sự phân chia, nhưng ba hợp đồng của ba mối quan hệ giữa bên
bảo lãnh, bảo nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh có mối quan hệ gắn kết nhau và có
ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh cần
thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong hợp đồng đã ký kết.
1.2.2.2. Tính độc lập của thư bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng mang mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau, tuy nhiên
thư bảo lãnh có tính độc lập tương đối với hợp đồng cơ sở bởi việc thanh toán một thư
bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều kiện và điều khoản quy định trong hợp đồng bảo lãnh.
Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của các bên tham gia không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố
nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng có trách nhiệm thanh toán cho bên thụ hưởng

bảo lãnh khi bên thụ hưởng yêu cầu và có bằng chứng chứng minh vi phạm hợp đồng
8

Thang Long University Library


của bên được bảo lãnh. Đồng thời, ngân hàng không được trì hoãn thanh toán cho bên
thụ hưởng bảo lãnh.
Thư bảo lãnh có tính độc lập tương đối bởi trong từng trường hợp mà tính độc
lập cao hoặc tính độc lập thấp. Điều này phụ thuộc vào điều kiện đi kèm, trong trường
hợp bảo lãnh yêu cầu đi kèm phán quyết của trọng tài hay tòa án, tính độc lập của bảo
lãnh là tương đối.
1.2.2.3. Giao dịch bằng chứng từ và chỉ dựa trên chứng từ
Các hoạt động của ngân hàng mang đặc thù là dựa trên cơ sở chứng từ và hoạt
động bảo lãnh cũng dựa trên chứng từ. Bảo lãnh ngân hàng là một cam kết bằng văn
bản, người thụ hưởng đòi tiền cũng dựa trên chứng từ và ngân hàng bồi thường cũng
dựa trên chứng từ. Như vậy, thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng chỉ dựa trên
chứng từ mà không có sự kiểm tra, giám sát của người xin bảo lãnh. Khi người thụ
hưởng bảo lãnh yêu cầu ngân hàng thanh toán, ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra bề
mặt chứng từ chứng từ do người thụ hưởng xuất trình có tuân thủ điều kiện và điều
khoản hay không. Ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán với chứng từ bất
hợp lệ hoặc với điều kiện hay điều khoản không đáp ứng. Trong trường hợp ngân hàng
không thực hiện đúng trách nhiệm, ngân hàng tự chịu rủi ro và không nhận được bồi
hoàn của người được bảo lãnh. Do vậy, thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với tình
hình thực tế của hai bên: Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh, và chỉ dựa trên
chứng từ.
1.2.2.4. Bảo lãnh Ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tín dụng (tín dụng chữ ký), là hoạt động
sinh lời mà không phải bỏ vốn của ngân hàng. Khi tiến hành cam kết phát hành thư
bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng không xuất quỹ tiền ngay, do vậy bảo lãnh thuộc

một trong các hoạt động ngoại bảng của ngân hàng, hoạt động chưa làm thay đổi bảng
cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, khi có rủi ro xảy ra, ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán cho bên thụ hưởng, khoản chi này được xếp vào nợ quá hạn,
là một bộ phận cấu thành nên nợ xấu. Khi đó, hoạt động bảo lãnh được chuyển từ tài
sản ngoại bảng sang tài sản nội bảng do khoản chi cho bảo lãnh làm thay đổi bảng cân
đối kế toán của ngân hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế
Bảo lãnh ngân hàng tồn tại xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế phát triển,
do đó mang lại nhiều lợi ích, không chỉ với ngân hàng mà còn đóng vai trò to lớn trong
9


sự phát triển kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như chất xúc tác cho các hợp đồng
kinh tế, xây dựng thương mại, các giao dịch hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế
được ký kết một cách nhanh chóng và thuận lợi, giúp các hoạt động kinh tế ngày càng
phát triển.
Ngoài ra bảo lãnh ngân hàng còn có vai trò thu hút vốn cho sản xuất kinh doanh
trong và ngoài nước. Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn Công nghiệp hóa – hiện
đại hóa, nguồn vốn là một điều kiện vô cùng quan trọng nhưng hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam chưa tạo ra được sự tin tưởng cần thiết đối với các chủ đầu tư nước
ngoài. Khi đó, bảo lãnh tham gia với vai trò giúp tiếp cận nguồn vốn, bảo lãnh giúp thu
hút các nguồn vốn đầu tư dài hạn và chi phí tương đối thấp từ nước ngoài. Bảo lãnh
ngân hàng góp phần thiết lập các mối quan hệ kinh doanh, trở thành đối tác tin cậy,
tăng cường mối quan hệ quốc tế.
1.2.3.2. Đối với doanh nghiệp
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ quan trọng cho
các doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm, giao thương quốc tế… Với
vai trò như vậy, bảo lãnh trở thành loại hình dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích
cực trong nền kinh tế.

Đối với doanh nghiệp xin bảo lãnh: bảo lãnh giúp doanh nghiệp xin bảo lãnh có
đủ điều kiện hay nói cách khác là có đủ uy tín trong các giao dịch với khách hàng khi
họ chưa tạo được niềm tin với đối tác. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp mới thành lập, nhờ có sự bảo lãnh uy tín từ ngân hàng mà doanh nghiệp
có cơ hội tìm được nguồn vốn, nguồn tài trợ khác hoặc tham gia đấu thầu, được ứng
trước tiền hàng,… giúp doanh nghiệp có cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và tạo niềm tin, uy tín
với đối tác. Ngoài ra, bảo lãnh còn thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
nghiêm túc và tuân thủ pháp luật. Hơn nữa, doanh nghiệp khi đến xin bảo lãnh, ngân
hàng có trách nhiệm tư vấn trong việc thực hiện hợp đồng hiệu quả, hợp pháp và mang
lại lợi nhuận tối đa. Mặt khác, hoạt động bảo lãnh ngân hàng có thu phí, từ đó giúp
doanh nghiệp ý thức trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với doanh nghiệp nhận bảo lãnh: bảo lãnh giúp doanh nghiệp thụ hưởng bảo
lãnh đảm bảo không xảy ra rủi ro về phía mình khi tham gia giao dịch, giúp tiết kiệm
thời gian, chi phí tìm hiểu đối tác, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Bảo lãnh đảm bảo
bù đắp rủi ro kịp thời cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Doanh nghiệp thụ hưởng
xuất trình với ngân hàng những giấy tờ chứng minh vi phạm hợp đồng, căn cứ vào
10

Thang Long University Library


điều kiện thanh toán của thư bảo lãnh, ngân hàng có trách nhiệm bồi thường cho doanh
nghiệp thụ hưởng.
1.2.3.3. Đối với ngân hàng bảo lãnh
Ngân hàng với vị trí là người đứng ra bảo lãnh cho khách hàng, ta thấy vai trò
của bảo lãnh là thu phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh giúp ngân hàng có một khoản doanh thu
không nhỏ và ngân hàng không cần xuất tiền hay bất kỳ chi phí khác ngay khi đứng ra
cam kết bảo lãnh cho khách hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh giúp ngân hàng đa dạng hóa sản

phẩm dịch vụ để phục vụ khách hàng, tăng tính cạnh tranh và chia sẻ rủi ro trong danh
mục sản phẩm kinh doanh. Ngoài ra, khi cam kết bảo lãnh cho khách hàng, thông
thường ngân hàng yêu cầu khách hàng ký quỹ một khoản tiền tại ngân hàng để đảm
bảo cho ngân hàng trong trường hợp rủi ro xảy ra, khoản ký quỹ không có lãi suất là
nguồn vốn ổn định mà ngân hàng có khả năng tạm thời sử dụng để cho vay. Hơn nữa,
bảo lãnh giúp ngân hàng tăng vị thế, mở rộng quan hệ đại lý, đặc biệt là trên thị trường
quốc tế, bởi việc chấp nhận bảo lãnh của ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp
nhận mức độ uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng.
1.2.4. Chức năng của nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Bảo lãnh cung cấp đảm bảo cho người thụ hưởng
Mục đích của bảo lãnh ngân hàng là phải bồi hoàn tài chính cho người thụ hưởng
bảo lãnh những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra.
Do đó bảo lãnh mang chức năng bảo đảm hơn là thanh toán. Điều này được thể hiện
rất rõ trong bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh bảo
đảm chất lượng công trình… Do vậy bảo lãnh được dùng cho mục đích an toàn cho
người thụ hưởng khi có sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
1.2.4.2. Bảo lãnh là một công cụ tài trợ
Trong các hợp đồng thi công và các hợp đồng sản xuất hàng hoá lớn cần phải có
một thời gian dài để thực hiện hợp đồng. Thực tế này đặt ra nhu cầu cần phải được tạm
ứng trước một số tiền để thực hiện hợp đồng. Ví dụ công ty xây dựng sẽ yêu cầu chủ
công trình ứng trước một số tiền để mua nguyên vật liệu cho công trình và trả lương
cho công nhân. Ngân hàng của công ty xây dựng sẽ phát hành "Bảo lãnh hoàn thanh
toán" như là một công cụ tài trợ để công ty xây dựng nhận được một khoản tiền ứng
trước từ chủ đầu tư. Nhờ hoạt động bảo lãnh của ngân hàng mà hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng được thực hiện đúng tiến độ và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt
trong thương mại quốc tế, bảo lãnh được biết đến như một công cụ tài trợ cho xuất
nhập khẩu.
11



1.2.4.3. Bảo lãnh có chức năng thúc đẩy hoàn thành hợp đồng
Chức năng này xuất phát từ người được bảo lãnh, có thể bị người thụ hưởng bảo
lãnh yêu cầu thanh toán bầt kỳ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh nếu như
họ vi phạm hợp đồng, ở bất kể mức độ nào, là bao nhiêu. Người được bảo lãnh luôn
phải chịu áp lực của việc phải bồi hoàn bảo lãnh. Chính vì vậy bảo lãnh như có tác
dụng thúc đẩy người được bảo lãnh hoàn tất hợp đồng đã được ký kết và hoạt động
kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2.5. Các hình thức bảo lãnh tại ngân hàng
1.2.5.1. Phân loại theo mục đích
Bảo lãnh ngân hàng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, theo mục
đích bao gồm các loại bảo lãnh sau:
- Bão lãnh vay vốn:
Bảo lãnh vay vốn là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho
bên thụ hưởng, cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng
không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, đúng hạn. Loại bảo lãnh này thường được sử
dụng trong các giao dịch vay vốn mà qui mô khoản vay lớn, thời hạn vay dài và vay
của người nước ngoài. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm toàn bộ nợ gốc, lãi và các chi phí
phát sinh liên quan đến khoản vay (nếu có). Bảo lãnh vay vốn gồm có hai loại: Bảo
lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài mà trong đó chủ yếu dưới
hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm. Trong đó theo UCP600 Điều 2 định nghĩa L/C
(thư tín dụng) là bất cứ thỏa thuận nào, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào,
nhưng không thể hủy bỏ và do đó là một cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành
về việc thanh tóan cho một bộ chứng từ hợp lệ. L/C trả chậm là loại thư tín dụng
không hủy ngang trong đó quy định ngân hàng mở L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ
thanh toán toàn bộ số tiền L/C vào thời hạn cụ thể trong tương lai ghi trên L/C sau khi
nhận được chứng từ và không cần hối phiếu. Khi chỉ định một ngân hàng thanh toán
trả chậm, ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh toán bộ chứng
từ được xuất trình phù hợp với quy định trong Thư tín dụng vào một thời điểm xác
định trong tương lai đã nêu trong thư tín dụng. Đồng thời, ngân hàng phát hành cũng
cam kết bồi hoàn cho ngân hàng thanh toán đúng thời hạn.

- Bảo lãnh thanh toán:
Bảo lãnh thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành
cho bên thụ hưởng, cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
12

Thang Long University Library


Bảo lãnh thanh toán thường được áp dụng trong các trường hợp như: mua bán trả
chậm; chậm nộp thuế cho Nhà nước trong thời hạn được phép; các hợp đồng thuê tài
sản, các hợp đồng thương mại, các hợp đồng cung cấp dịch vụ… Đây là một trong
những loại hình bảo lãnh rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
- Bảo lãnh dự thầu:
Thông thường đối với những hợp đồng lớn, chủ yếu là hợp đồng xây dựng, thiết
kế hay cung cấp thiết bị thì người chủ công trình phải lựa chọn đối tác thi công qua
đấu thầu. Để tổ chức đấu thầu và thẩm định các phương án dự thầu, chủ đầu tư phải bỏ
ra một chi phí khá lớn và rủi ro sẽ xảy ra nếu bên dự thầu rút lui, không ký hợp đồng
khi đã được trúng thầu. Vì vậy chủ đầu tư yêu cầu những bên tham gia đấu thầu phải
có bảo lãnh ngân hàng để hạn chế rủi ro. Mục đích của loại bảo lãnh này là nhằm bù
đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đầu thầu do những vi
phạm của bên đối tác liên quan (người tham gia dự thầu) như trường hợp rút đơn dự
thầu, không ký tiếp hợp đồng sau khi trúng thầu, bổ sung thêm các điều kiện khi ký
hợp đồng so với bản dự thầu,… Mức bảo lãnh theo thông lệ là từ 2% đến 5% giá trị
hợp đồng.
Bảo lãnh dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho
bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của của khách hàng. Trường hợp
khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy
đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam
kết trong thư bảo lãnh. Loại bảo lãnh này thực chất là một phương tiện thay thế cho

việc ký quĩ của người tham gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được quy định
theo mức ký quĩ chuẩn do người tổ chức đầu thầu đưa ra. Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động
mất hiệu lực khi người được bảo lãnh không trúng thầu. Trong trường hợp xảy ra rủi
ro, chủ công trình sẽ dùng tiền thanh toán từ bảo lãnh để trang trải những chi phí đấu
thầu, thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức lại cuộc đấu thầu
khác.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát
hành cho bên thụ hưởng bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng
với bên thụ hưởng theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực
hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng (giao hàng chậm trễ, không đúng
quy cách, số lượng…) thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng sử dụng thay thế cho yêu cầu ký quĩ mà người đặt hàng
đề nghị đối với người cung ứng để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng. Giá trị tối
13


đa của bảo lãnh tương đương với mức bồi thường (tính theo % giá trị của hợp đồng,
dao động ở mức 10 – 15%). Thời hạn bảo lãnh thực hiện hợp đồng có thể kéo dài sau
thời điểm hoàn thành công trình hay giao hàng. Loại bảo lãnh này được sử dụng nhiều
nhất trong thực tế như trong các hợp đồng xây dựng, cung ứng thiết bị công nghệ…
trong nước cũng như ngoài nước trừ hợp đồng vay vốn và được xem như một công cụ
đối ứng với tín dụng chứng từ.
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm:
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh NH do tổ chức tín dụng
phát hành cho bên thụ hưởng bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về
chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên thụ hưởng. Trong trường
hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng
về chất lượng sản phẩm với bên thụ hưởng mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt
cho bên thụ hưởng thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.

Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm thường được áp dụng cho các nghĩa vụ bảo
hành sản phẩm hàng hoá, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm tăng tính trách nhiệm
của bên được bảo lãnh trong thực hiện các hợp đồng cung cấp sản phẩm, hàng hoá.
- Bảo lãnh hoàn thanh toán:
Bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát
hành cho bên thụ hưởng về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả số tiền ứng trước của
khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên thụ hưởng. Trường hợp khách hàng vi
phạm các cam kết với bên thụ hưởng và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không
hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số
tiền ứng trước cho bên thụ hưởng. Ví dụ khi ký kết những hợp đồng có giá trị lớn,
thông thường người bán yêu cầu người mua ứng trước một phần tiền nhằm tài trợ cho
người bán thực hiện hợp đồng. Khi đó người mua sẽ yêu cầu người bán phải có bảo
lãnh hoàn thanh toán của ngân hàng.
Bảo lãnh hoàn thanh toán thường được áp dụng cho các nghĩa vụ bảo lãnh tiền
tạm ứng (trong thi công công trình), bảo lãnh tiền đặt cọc (trong hợp đồng mua bán
lớn); giúp cho các doanh nghiệp (người bán) ký được hợp đồng với người mua trong
trường hợp người mua yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng; tạo thuận lợi cho
người bán thực hiện hợp đồng đã ký kết; làm tăng tính tự giác của người bán trong
việc thực hiện hợp đồng mua bán đã ký kết.
Ngoài ra còn có các loại hình bảo lãnh khác như:

14

Thang Long University Library


- Bảo lãnh tài chính:
Những loại bảo lãnh này được sử dụng để đảm bảo thanh toán những nghĩa vụ tài
chính của khách hàng trong trường hợp vi phạm. Người hưởng bảo lãnh thường là các
cơ quan Nhà nước (Hải quan, Tòa án, Cơ quan thuế…). Bảo lãnh tài chính có nhiều

loại như: bảo lãnh về thuế quan, thuế môn bài, thuế thu nhập trong thời gian khiếu nại,
thuế giá trị gia tăng đầu vào trong lúc chưa tiêu thụ được hàng, các loại tiền ký quỹ
cho tòa án để được tại ngoại,… Nhìn chung các loại bảo lãnh tài chính giúp khách
hàng được miễn phải chi trả tiền ngay. Việc kéo dài thời gian chi tiền như vậy giúp
khách hàng thoát khỏi những khó khăn nhất thời về ngân quỹ.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán:
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với
tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua
một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số
chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ
chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng. NHTM được Uỷ ban
chứng khoán chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài chính
quy định sẽ đứng ra bảo lãnh cho chứng khoán của các công ty đang muốn huy động
vốn để sản xuất kinh doanh nhưng đủ uy tín để chứng khoán của họ được chấp nhận
trên thị trường. Khi nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ gặp rủi ro do việc mất giá chứng
khoán trên thị trường. Họ sẽ nhận chứng khoán từ công ty, chuyển cho công ty trong
đợt phát hành sau khi đã trừ đi một phần hoa hồng và phí rồi bán lại cho công chúng.
1.2.5.2. Phân loại theo phương thức phát hành
Bảo lãnh ngân hàng phân theo phương thức phát hành bao gồm thành bảo lãnh
trực tiếp, bảo lãnh gián tiếp và đồng bảo lãnh. Dưới đây xin trình bày cụ thể từng loại
bảo lãnh ngân hàng.
- Bảo lãnh trực tiếp:
Là một hình thức bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách
nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn
trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Để thoả thuận với người thụ hưởng, người
được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh với những điều
kiện và những điều khoản đã thoả thuận của thư bảo lãnh. Khi ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì sau đó người được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn lại
cho ngân hàng số tiền ngân hàng đã trả thay. Mối quan hệ giữa người được bảo lãnh và
ngân hàng được coi là sự uỷ nhiệm. Khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng phải

thực hiện và người được bảo lãnh phải có trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng. Bảo
15


lãnh trực tiếp thường có các hoạt động như: bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng…
Trong trường hợp người bảo lãnh là người nước ngoài, ngân hàng phục vụ người
được bảo lãnh sẽ thông qua mối quan hệ đại lý của mình, yêu cầu một ngân hàng
đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng chuyển thư bảo lãnh (ngân hàng phục vụ người
được bảo lãnh gọi là ngân hàng phát hành; ngân hàng có trụ sở tại nước người thụ
hưởng là ngân hàng thông báo). Vai trò của ngân hàng thông báo là thông báo và
chuyển nội dung các giao dịch giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành. Ngân
hàng thông báo hầu như không có nghĩa vụ đối với người thụ hưởng liên quan đến bảo
lãnh. Ngân hàng thông báo phải có trách nhiệm đảm bảo tính trung thực của các thông
báo nhận được từ ngân hàng phát hành.
Như vậy trong bảo lãnh trực tiếp gồm có 3 văn bản:
- Hợp đồng thương mại giữa Bên thụ hưởng và Bên được bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng phát hành và Bên được bảo lãnh.
- Cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành gửi cho Bên thụ hưởng.
Sơ đồ 1.1. Quy trình bảo lãnh trực tiếp
Ngân hàng phát hành

Ngân hàng thông báo

(4)

(3)

(4)


(2)

Người xin bảo lãnh

Người thụ hưởng bảo
lãnh

(1)

(Nguồn: [9])
Trong đó:
(1) Người xin bảo lãnh (người mua) và người thụ hưởng bảo lãnh (người bán) ký
kết hợp đồng giao dịch trong đó có điều kiện yêu cầu người xin bảo lãnh phải có bảo
lãnh thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh.
(2) Trên cơ sở hợp đồng này, người xin bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ
mình phát hành thư bảo lãnh theo điều kiện trao đổi với người thụ hưởng bảo lãnh và
cam kết hoàn trả theo quy định của thư bảo lãnh.
16

Thang Long University Library


(3) Ngân hàng phát hành bảo lãnh giao thư bảo lãnh cho người thụ hưởng bảo
lãnh.
(4) Trường hợp có ngân hàng đại lý, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển
cho người thụ hưởng bảo lãnh thông qua ngân hàng đại lý.
- Bảo lãnh gián tiếp:
Là loại bảo lãnh mà trong đó người bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng thứ nhất (gọi
là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ hai (được gọi là ngân hàng phát hành bảo
lãnh) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này,

người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh, mà
chính ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành thông
qua cam kết gọi là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng
cũng có những nội dung và các điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính. Sau khi
đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình, ngân hàng chỉ thị
lại có thể truy đòi từ người được hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng
trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay
tại nước người thụ hưởng. Do vậy quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ.
Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 thành phần tham gia: Ngân hàng
phát hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, bên được bảo lãnh, bên xin bảo lãnh.
Sơ đồ 1.2. Quy trình bảo lãnh gián tiếp
Ngân hàng chỉ thị

(3)

(2)

Ngân hàng
phát hành
(4)

Người xin
bảo lãnh

Người được
bảo lãnh
(1)
(Nguồn: [9] )

Trong đó:

(1) Người mua (người xin bảo lãnh) và người bán (người nhận bảo lãnh) thoả
thuận ký kết hợp đồng mua – bán (hợp đồng gốc) trong đó có điều kiện yêu cầu người
mua phải có bảo lãnh thanh toán cho người bán và bảo lãnh phải do ngân hàng mà
người bán (người nhận bảo lãnh) chỉ định phát hành.

17


(2) Người xin bảo lãnh đề nghị ngân hàng chỉ thị cho ngân hàng mà người nhận
bảo lãnh chỉ định phát hành một bảo lãnh theo mẫu hay theo những điều khoản và điều
kiện đã thoả thuận với người nhận bảo lãnh. Người xin bảo lãnh có thể sẽ phải ký quỹ
hoặc hay thế chấp tài sản của mình theo yêu cầu của ngân hàng chỉ thị để được thực
hiện đề nghị trên.
(3) Ngân hàng chỉ thị phát hành bảo lãnh đối ứng gồm những nội dung như đề
nghị của người nhận bảo lãnh và đề nghị phát hành thư bảo lãnh cho người nhận bảo
lãnh. Ngân hàng phát hành nhận được bảo lãnh đối ứng từ ngân hàng chỉ thị và nội
dung đề nghị phát hành thư bảo lãnh. Bảo lãnh đối ứng là một cam kết của ngân hàng
chỉ thị thanh toán cho ngân hàng phát hành (Bên thụ hưởng của bảo lãnh đối ứng) khi
ngân hàng phát hành thực hiện đúng những điều khoản được quy định trong bảo lãnh
đối ứng.
(4) Ngân hàng phát hành gửi thư bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh. Ngân hàng
phát hành cam kết thanh toán cho bên thụ hưởng nếu người nhận bảo lãnh xuất trình
những chứng từ theo yêu cầu trong thư bảo lãnh.
1.2.5.3. Đồng bảo lãnh
Với những dự án có giá trị lớn, nhằm giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng có thể
thực hiện đồng bảo lãnh. Trong trường hợp này, một ngân hàng sẽ đóng vai trò là đầu
mối phát hành bảo lãnh, nhưng có sự tham gia của các ngân hàng đồng minh khác.
Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bão lãnh đã lập, ngân hàng chính có thể đòi
bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa vào các bảo lãnh
đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến

hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
1.2.6. Điều kiện bảo lãnh Ngân hàng thương mại
Bảo lãnh là một trong các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng, do đó muốn
được ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh, thì khách hàng (người được bảo lãnh)
phải đáp ứng được các điều kiện cấp tín dụng mà ngân hàng yêu cầu. Các tài liệu mà
khách hàng phải xuất trình làm căn cứ để ngân hàng xét duyệt bao gồm:
- Giấy đề nghị phát hành bảo lãnh: Trong đó khách hàng nêu các điều kiện và
điều khoản cần thiết phải có trong văn bản bảo lãnh, phù hợp với hợp đồng giữa
họ và người thụ hưởng bảo lãnh. Đồng thời, phải có cam kết hoàn trả lại cho
ngân hàng phát hành sau khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho người thụ
hưởng.

18

Thang Long University Library


- Các tài liệu chứng minh khả năng tài chính của khách hàng, ví dụ như bảng cân
đối tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ…
- Các tài liệu liên quan đến giao dịch được yêu cầu bảo lãnh như phương án sản
xuất kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng thương mại
dịch vụ…
- Các tài liệu liên quan đến bảo đảm cho việc phát hành bảo lãnh (các giấy tờ thế
chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ 3).
Ngoài ra về mặt pháp lý, khách hàng cần phải có đủ năng lực theo Thông tư
07/2015/TT-NHNN như sau:
- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật.
- Nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ tài chính hợp pháp.
- Được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp bảo lãnh đánh giá

có khả năng hoàn trả lại số tiền mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài phải trả thay khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự mở rộng hoạt động bảo lãnh
1.3.1. Chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính cung cấp cho ngân hàng sự đánh giá từ những góc độ khác
nhau về sự tăng trưởng của hoạt động bảo lãnh. Bản thân ngân hàng không thể tự hoàn
thiện mình nếu như không có sự phản hồi của nền kinh tế và khách hàng.
Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng: khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng trong hoạt động bảo lãnh được cho là tốt khi ngân hàng đáp ứng đầy đủ
các nhu cầu của khách hàng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với đó là nhu cầu
của khách hàng ngày càng phức tạp, điều này đòi hỏi ngân hàng phải duy trì và nâng
cao chất lượng bảo lãnh, quy mô bảo lãnh, đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh…nhằm
tăng trưởng cho hoạt động của ngân hàng.
Trình độ chuyên môn của cán bộ phụ trách hoạt động bảo lãnh: đội ngũ cán bộ
bảo lãnh có chuyên môn, năng lực làm việc cao và chất lượng phục vụ khách hàng tốt
sẽ giúp ngân hàng duy trì và thu hút thêm nhiều khách hàng. Từ đó, hoạt động bảo
lãnh tại ngân hàng ngày càng được mở rộng.
Quy trình bảo lãnh chặt chẽ và tuân thủ các chuẩn mực pháp lý: đây là yếu tố
đặc biệt quan trọng trong hoạt động bảo lãnh. Mỗi ngân hàng có quy trình bảo lãnh
cho riêng mình, tuy nhiên, quy trình bảo lãnh phù hợp với tình hình hoạt động bảo
lãnh và có trình tự chặt chẽ giúp hoạt động bảo lãnh diễn ra liên tục, không gián đoạn
19


tạo nên sự tăng trưởng trong hoạt động bảo lãnh. Đồng thời, hoạt động bảo lãnh của
ngân hàng luôn chú trọng tuân thủ các chuẩn mực pháp lý để hạn chế rủi ro nhưng vẫn
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng.
1.3.2. Chỉ tiêu định lượng
- Doanh thu từ dịch vụ bảo lãnh:
Chỉ tiêu này cho biết tổng số tiền phí mà ngân hàng thu được từ các hợp đồng

bảo lãnh, chất lượng bảo lãnh tốt đồng nghĩa với việc nó mang lại doanh thu lớn cho
ngân hàng. Mở rộng hoạt động bảo lãnh sẽ đem lại nguồn thu nhập ngày càng cao cho
ngân hàng và qua đó vị thế của ngân hàng cũng được nâng cao.
Phí thu được từ hoạt động bảo lãnh được tính theo công thức sau:
Phí bảo lãnh = Tỷ lệ % x Số tiền bảo lãnh x thời gian bảo lãnh
Trong đó tỷ lệ% là mức phí do khách hàng và ngân hàng thỏa thuận, nhưng
không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh. Trường hợp mức
phí bảo lãnh tính theo tỷ lệ này thấp hơn 300.000 đồng ngân hàng thu mức phí tối
thiểu là 300.000 đồng.
Thông tư 07/2015/TT-NHNN của NHNN quy định về thu phí bảo lãnh như sau:
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thỏa thuận mức bảo lãnh đối
với khách hàng. Trong trường hợp bảo lãnh đối ứng hoặc xác nhận bảo lãnh, mức phí
bảo lãnh do các bên thỏa thuận trên cơ sở mức phí bảo lãnh được bên được bảo lãnh
chấp thuận.
Trường hợp thực hiện đồng bảo lãnh, trên cơ sở thỏa thuận về tỷ lệ tham gia
đồng bảo lãnh và mức phí thu được của bên được bảo lãnh, các bên tham gia đồng bảo
lãnh thỏa thuận mức phí bảo lãnh cho mỗi bên đồng bảo lãnh.
Trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh cho một
nghĩa vụ liên đới thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thỏa thuận với
từng khách hàng về mức phí phải trả trên cơ sở nghĩa vụ liên đới tương ứng của mỗi
khách hàng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Trường hợp đồng tiền bảo lãnh là ngoại tệ, các bên thỏa thuận thu phí bảo lãnh
bằng ngoại tệ hoặc quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bán của bên bảo lãnh tại thời
điểm thu phí hoặc tại thời điểm thông báo thu phí.
Các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh mức phí bảo lãnh.
Ngoài ra, ngân hàng còn thu một số phụ phí như: phí phát hành thư bảo lãnh, phí
hủy thư bảo lãnh, phí thông báo thư bảo lãnh do ngân hàng nước ngoài phát hành, điện
phí... Phí thu được từ hoạt động bảo lãnh ngày càng tăng sẽ tạo thêm một khoản thu
20


Thang Long University Library


nhập không nhỏ cho ngân hàng, đồng thời thể hiện hoạt động bảo lãnh ngày càng được
mở rộng.
- Chỉ tiêu doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh:
Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong năm, dư nợ
bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh hiện hành của ngân hàng tại một thời điểm
(thường là cuối kỳ). Doanh số bảo lãnh (hoặc dư nợ bảo lãnh) được so sánh trong cùng
một thời điểm nếu tăng lên qua các năm sẽ thể hiện quy mô bảo lãnh tăng, cho thấy
hoạt động bảo lãnh ngày càng mở rộng. Kết hợp hai chỉ tiêu trên cùng với chỉ tiêu phụ
như: số món bảo lãnh phát hành trong kỳ, số khách hàng bảo lãnh sẽ đánh giá một
cách chính xác hơn về mức độ mở rộng quy mô của hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng.
 Doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm:
Doanh số bảo lãnh phát
sinh trong năm

=

Dư nợ bảo lãnh
đầu năm

+

Phát sinh bảo lãnh tăng

Chỉ tiêu doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm thể hiện tổng số tiền bảo lãnh
phát sinh trong năm, doanh số bảo lãnh năm sau cao hơn năm trước thể hiện quy mô
hoạt động bảo lãnh tăng lên. Mặt khác phí thu được từ hoạt động bảo lãnh cũng tăng
theo thể hiện quy mô và tỷ trọng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng.

 Dư nợ bảo lãnh cuối năm:
Dư nợ bảo
=
lãnh cuối năm

Dư nợ bảo lãnh
đầu năm

+

Phát sinh bảo
lãnh tăng

-

Phát sinh bảo lãnh
giảm

Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh cuối năm giúp cho lãnh đạo ngân hàng nắm bắt được
thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng để từ đó có những định hướng cụ thể cho
năm tài chính tiếp theo. Vì vậy mở rộng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng không chỉ
là tăng doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm mà còn tăng dư nợ bảo lãnh, tập trung
vào những loại hình bảo lãnh là thế mạnh của ngân hàng, tăng dư nợ với những khách
hàng truyền thống và tăng dư nợ những hợp đồng bảo lãnh có tính an toàn và hiệu quả
cao. Ngoài ra, chỉ tiêu số món bảo lãnh phát hành giúp ngân hàng nắm bắt được thực
trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng đặc biệt trong công tác duy trì khách hàng cũ
và thu hút khách hàng mới, số món bảo lãnh phát hành tăng lên qua từng năm thể hiện
sự mở rộng của hoạt động bảo lãnh có hiệu quả.

- Chỉ tiêu nợ bảo lãnh quá hạn:

Tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn thể hiện phần trăm dư nợ bảo lãnh quá hạn trong tổng
doanh số bảo lãnh đến hạn. Tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn cao thể hiện khả năng thu nợ từ
21


khách hàng là rất thấp, việc đòi nợ có thể gây ra những tổn thất cho ngân hàng. Qua đó
đánh giá được việc mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng là không hiệu quả.
Tỷ lệ nợ bảo lãnh
quá hạn

Dư nợ bảo lãnh quá hạn* 100%
=

Tổng doanh số bảo lãnh đến hạn

- Chỉ tiêu nợ xấu trong hoạt động bảo lãnh:
Tỷ lệ nợ xấu trong hoạt
động bảo lãnh

Nợ xấu bảo lãnh* 100%
=

Tổng doanh số bảo lãnh đến hạn

Tỷ lệ nợ xấu trong hoạt động bảo lãnh thể hiện phần trăm nợ xấu bảo lãnh trong
tổng doanh số bảo lãnh đến hạn. Tỷ lệ nợ xấu cao thể hiện ngân hàng không kiểm soát
được chất lượng hoạt động bảo lãnh, gây tổn thất lớn cho ngân hàng và mở rộng hoạt
động bảo lãnh tại ngân hàng không có hiệu quả.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh là một hoạt động liên quan đến hoạt động của nhiều chủ thể trong nền

kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có
thể kể đến một số nhân tố cơ bản sau đây:
1.3.3.1. Nhân tố khách quan
Pháp luật và chính sách của Nhà nước
Mọi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế bao giờ cũng chịu sự điều tiết của
pháp luật. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trong của nên kinh tế,
các ngân hàng càng phải quan tâm đến vấn đề này, bởi hoạt động của ngân hàng liên
quan đến hầu hết các hoạt động khác trong nền kinh tế. Một hệ thống pháp luật đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng có điều kiện xây dựng kế hoạch kinh doanh
tốt và tến hành các nghiệp vụ chức năng của mình một cách thuận lợi nhất. Nghiệp vụ
bảo lãnh cũng vậy, khi mới ra đời, bảo lãnh hầu như không có văn bản pháp luật nào
điều chỉnh, ngân hàng đã gặp phải không ít khó khăn khi phát sinh các tranh chấp, mà
không có những pháp chuẩn mực pháp quy để xử lý, mọi thứ đều phải dựa vào quan
hệ hợp đồng. Từ khi xuất hiện Luật các tổ chức tín dụng và các điều khoản quy định
có liên quan và một loạt các văn bản khác ra đời như: Quyết định 196 ban hành ngày
16/9/1994 của thống đốc NHNN, Quyết định 263/QĐ - NHNN ngày 19/9/1995, Quyết
định của Thống đốc NHNN Việt Nam số 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26/06/2006,
Thông tư 28/2012/TT-NHNN và Thông tư 07/2015/TT-NHNN về việc ban hành Quy
chế bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên không đơn thuần chỉ chịu sự điều chỉnh của những
văn bản quy phạm điều chỉnh trực tiếp nói trên, nghiệp vụ bảo lãnh còn chịu sự tác
22

Thang Long University Library


động của nhiều luật khác, liên quan đến từng nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể. Vì vậy, việc
hoàn thiện môi trường pháp lý sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng
hoạt động bảo lãnh.
Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển

hoạt động đầu tư, kích thích sự gia tăng của các hoạt động thưong mại trong nước và
quốc tế. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của bảo lãnh. Môi trường
chính trị xã hội tác động rất lớn đến tâm lý của nhà đầu tư bởi họ không thể đầu tư vào
một đất nước có tình hình chính trị bất ổn định, chiến tranh, bạo động xảy ra liên tiếp,
mà không có đầu tư, ngân hàng sẽ không thể có được những hợp đồng bảo lãnh. Môi
trường chính trị - xã hội tại Việt Nam hiện nay là ổn định, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư đầu tư vào nước ta và phát triển hoạt động kinh doanh. Nhờ đó, hoạt động bảo
lãnh càng có thêm cơ hội để mở rộng, góp phần tăng doanh thu cho ngân hàng và phát
triển kinh tế trong nước.
Môi trường kinh tế
Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời xuất phát từ sự phát triển kinh tế, vì vậy những biến
động trong nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động bảo lãnh.
Môi trường kinh tế phát triển lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch trong nền
kinh tế càng gia tăng, khiến cho hoạt động bảo lãnh càng có cơ hội phát triển, chất
lượng bảo lãnh cũng theo đó mà tăng lên.
Mặt khác, là một hoạt động xuất hiện nhiều trong giao dịch quốc tế nên bảo lãnh
chịu ảnh hưởng nhiều bởi các chính sách tỷ giá và lãi suất. Những yếu tố này là những
yếu tố thuộc về vĩ mô, do đó chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường kinh tế xã hội
và các chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng
là phải tiến hành dự báo những thay đổi, diễn biến của chúng nhằm đảm bảo khả năng
thích nghi với sự thay đổi đó, tránh bị động, gây ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh.
Năm 2013, nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động nên gây nên ảnh hưởng không tốt
đối với hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Tuy nhiên năm 2014, nền kinh tế dần ổn
định và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh được mở rộng và
tăng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh cho ngân hàng.
Những nhân tố thuộc về yếu tố khách hàng
Doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh cần phải mở rộng những mối
quan hệ giao lưu buôn bán với nhiều chủ thể khác trong nền kinh tế, vì vậy nhu cầu
bảo lãnh là tất yếu. Tuy nhiên, muốn được bảo lãnh, doanh nghiệp cần phải đáp ứng
23



được những yêu cầu của ngân hàng. Khả năng đáp ứng yêu cầu của ngân hàng được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp có năng lực tài chính ổn định sẽ khiến ngân hàng không phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ gặp ít rủi ro. Năng lực tài chính góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động bảo lãnh và hoạt động bảo lãnh ngày càng được mở rộng.
Doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay phần lớn chưa có năng lực tài chính ổn định, tuy
nhiên với các chính sách tạo điều kiện phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp của
Nhà nước đã giúp các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn và phát triển
hoạt động kinh doanh. Qua đó, hoạt động bảo lãnh ngày càng được mở rộng và doanh
thu từ hoạt động bảo lãnh ngày càng tăng.
- Đạo đức của khách hàng:
Cũng giống như hoạt động cho vay, trước khi ra quyết định bảo lãnh ngân hàng
phải xem xet cả đạo đức khách hàng, các mối quan hệ của khách hàng, lịch sử giao
dịch của họ, xem các khoản nợ cũ với ngân hàng mình và với các tổ chức tín dụng
khác mà khách hàng có quan hệ. Khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng, tuân
thủ đầy đủ các điều kiện về pháp lý sẽ giúp ngân hàng có quyết định bảo lãnh nhanh
chóng hơn và hoạt động bảo lãnh được mở rộng ngày càng hiệu quả.
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Nền kinh tế trong nước ngày càng phát triển tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở
rộng hoạt động kinh doanh cả về số lượng và phạm vi, các thương vụ có giá trị hợp
đồng lớn và có sự tham gia của yếu tố nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều. Để hạn
chế rủi ro trong những thương vụ như vậy và nâng cao uy tín với phía đối tác, các
doanh nghiệp thường lựa chọn công cụ bảo đảm quốc tế là bảo lãnh ngân hàng. Bao
gồm các chiến lược như chiến lược Marketing, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới cơ
cấu tổ chức… Đây là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bảo lãnh của
ngân hàng. Do đó hoạt động bảo lãnh cần phải thực hiện theo các định hướng chung

đó. Ngân hàng cần đưa ra các chính sách cụ thể về quy mô, tính chất, phương thức
hoạt động bảo lãnh, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ, bảo đảm phát
triển đúng theo định hướng đã đề ra.
Mặt khác, để thu hút khách hàng và cạnh tranh với những ngân hàng khác, ngân
hàng phải có mức phí bảo lãnh hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Ngân hàng thu hút thêm được nhiều khách hàng và có khả năng cạnh tranh
24

Thang Long University Library


cao so với các NHTM khác sẽ giúp hoạt động bảo lãnh được mở rộng và ngày càng
hiệu quả, góp phần tăng doanh thu cho ngân hàng.
Uy tín của Ngân hàng
Uy tín ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng, tới việc
tăng số lượng khách hàng đến với ngân hàng và làm tăng doanh thu cho ngân hàng.
Những khách hàng lần đầu tìm đến ngân hàng, họ sẽ tìm đến các ngân hàng có uy tín.
Còn đối với những khách hàng đã thực hiện hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thì uy
tín đóng vai trò giữ chân họ ở lại sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng cần nâng
cao uy tín cho mình để làm tăng niềm tin của khách hàng khi lựa chọn sử dụng dịch vụ
bảo lãnh tại ngân hàng và giữ chân các khách hàng đã sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Ngân
hàng có uy tín càng cao, hoạt động bảo lãnh sẽ ngày càng được mở rộng và hoạt động
có hiệu quả càng lớn.
Chất lượng thẩm định khách hàng
Bảo lãnh là nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó chất lượng thẩm định
khách hàng của ngân hàng là yếu tố không thể thiếu trước khi ra quyết định bảo lãnh
của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro. Trước khi kí hợp đồng bảo lãnh với khách hàng,
ngân hàng cần xem xét khả năng tài chính của khách hàng, khả năng thực hiện hợp
đồng với bên nhận bảo lãnh, khả năng thanh toán của khách hàng nếu nghĩa vụ bảo
lãnh được phát sinh…

Khả năng đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm của bảo lãnh cũng như bất kỳ một
hoạt động tín dụng nào, cũng cần có tài sản đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp
các loại tài sản thuộc sở hữu của khách hàng… Đây là biện pháp làm giảm bớt những
rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Hạn mức bảo lãnh được quyết
định dựa vào tỷ lệ % giá trị tài sản, thông thường 70% giá trị tài sản. Do đó các ngân
hàng cần đánh giá tài sản một cách chính xác, khách quan, đảm bảo quyền lợi cho cả
hai bên.
Phẩm chất, trình độ cán bộ thực hiện bảo lãnh
Con người là yếu tố quan trọng nhất trong bất cứ hoạt đông kinh doanh nào. Do
đó, để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh các cán bộ thực hiện cần nâng cao trình độ nghiệp
vụ nhằm thích ứng kịp thời với công việc. Bên cạnh đó các cán bộ phải có được những
phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần làm việc sáng tạo, hăng hái, có trách nhiệm góp
phần thúc đẩy sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh
được mở rộng cũng đồng nghĩa với việc các loại hình bảo lãnh ngày càng đa dạng, nhu
cầu của khách hàng ngày phức tạp, đòi hỏi cán bộ bảo lãnh luôn chú trọng cập nhật
kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn cho mình.
25


×