Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN GMO RUNSYSTEM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 67 trang )

CHƯƠNG 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN
HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan về doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Hiện nay trên phương diện lý thuyết có nhiều định nghĩa thế nào là một doanh
nghiệp. Vì mỗi tác giả đứng trên một quan điểm khác nhau nên mỗi định nghĩa đều
mang trong nó một nội dung nhất định với một giá trị nhất định. Chẳng hạn:
Xét theo quan điểm luật pháp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (Điều 4, Luật Doanh nghiệp
Việt Nam năm 2005)
Xét theo quan điểm chức năng, doanh nghiệp được định nghĩa như sau: "Doanh
nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất
(có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực
hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được
khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy.” (theo
nhà kinh tế học người Pháp M.Francois Peroux)
Xét theo quan điểm phát triển: Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra
những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc
vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu
vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được. (trích từ sách "Kinh tế doanh
nghiệp” của D.Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992 )
Xét theo quan điểm hệ thống: Doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ phận
được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu. Các bộ phận tập
hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất, thương mại, tổ chức,
nhân sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét doanh
nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh nghiệp đều


có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn bao quát có thể
phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp như sau:
“Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện
tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng,
tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng,
thông qua đó tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các
mục tiêu xã hội.”

1


1.1.2 Phân loại doanh nghiệp
Theo bản chất kinh tế của của chủ sở hữu: Có thể chia các tổ chức doanh
nghiệp ra làm 3 loại hình chính dựa trên hình thức và giới hạn trách nhiệm của chủ sở
hữu:
Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship).
Doanh nghiệp hợp danh (Partnership).
Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation).
Thông thường doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số các
doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn lại chiếm tỷ trọng lớn nhất về
doanh thu, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn như sản xuất hàng hóa, tài
chính,…
Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp: Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp
2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà các
thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh

nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh).
Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành
viên góp vốn.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân
chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Hợp tác xã là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các tổ chức
có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện
hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải thiện đời sống, góp
phần phát triển kinh tế xã hội.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư
nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
2

Thang Long University Library


Căn cứ vào chế độ trách nhiệm: Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại
các doanh nghiệp thành có chế độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn: Doanh nghiệp có chế độ trách
nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ
phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp
không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam,
có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh.

Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế độ trách
nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của thành viên hợp danh công
ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh sẽ chịu trách
nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài
sản chủ doanh nghiệp, các thành viên hợp danh đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh
nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp
tư nhân và công ty hợp danh không đủ để thực hện các nghĩa vụ về tài chính của doanh
nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ tục phá sản,
chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử dụng cả tài sản riêng
không đầu tư vào doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn: Theo pháp luật Việt Nam, các
doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn cụ thể gồm: công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài không tiến hành đăng ký lại theo Nghị định 101/2006/NĐ-CP.
Những doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là những doanh nghiệp mà ở
đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi
số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải
trả nợ thay cho doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là chế độ
trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư - thành viên/chủ sở hữu công ty.
Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp: Theo tiêu thức quy mô, các doanh
nghiệp được phân làm ba loại:
Doanh nghiệp quy mô lớn.
Doanh nghiệp quy mô vừa.
Doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô như trên, hầu hết ở các nước người
ta dựa vào những tiêu chuẩn như: Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp, số lượng lao
động trong doanh nghiệp, doanh thu của doanh nghiệp, lợi nhuận hàng năm. Trong đó
3



tiêu chuẩn tổng số vốn và số lao động được chú trong nhiều hơn, còn doanh thu và lợi
nhuận được dùng kết hợp để phân loại. Tuy nhiên, khi lượng hóa những tiêu chuẩn nói
trên thì tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất ở mỗi quốc gia, tùy thuộc từng ngành
cụ thể, ở các thời kỳ khác nhau mà số lượng được lượng hóa theo từng tiêu chuẩn giữa
các quốc gia không giống nhau.
1.1.3 Tài sản của doanh nghiệp
Khái niệm:
“Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh
tế trong tương lai.”
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn tiền
và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các khoản tiền mà
doanh nghiệp phải chi ra. Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản được thực
hiện trong các trường hợp như:
+ Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác trong sản xuất
sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
+ Để bán hoặc trao đổi với các tài sản khác.
+ Để thanh toán các khoản nợ phải trả.
+ Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Tài sản được biểu hiện dưới hình thái vật chất như tiền, hàng tồn kho, nhà xưởng,
máy móc, thiết bị, … hoặc không thể hiện dưới hình thái vật chất như bản quyền, bằng
sáng chế… nhưng phải thu được lợi ích kinh tế trong tương lai và thuộc quyền kiểm
soát của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp còn bao gồm các loại tài sản không thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp kiểm soát được và thu được lợi ích kinh tế
trong tương lai, như tài sản thuê tài chính; hoặc có những tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp và thu được lợi ích kinh tế trong tương lai nhưng có thể không kiểm
soát được về mặt pháp lý, như bí quyết kỹ thuật thu được từ hoạt động triển khai có thể
thoả mãn các điều kiện trong định nghĩa về tài sản khi các bí quyết đó còn giữ được bí

mật và doanh nghiệp còn thu được lợi ích kinh tế.
Tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ các giao dịch hoặc các sự kiện đã
qua, như góp vốn, mua sắm, tự sản xuất, được cấp, được biếu tặng. Các giao dịch hoặc
các sự kiện dự kiến sẽ phát sinh trong tương lai không làm tăng tài sản.
Thông thường, khi các khoản chi phí phát sinh sẽ tạo ra tài sản. Đối với các
khoản chi phí không tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai thì không tạo ra tài sản; hoặc
có trường hợp không phát sinh chi phí nhưng vẫn tạo ra tài sản, như nhận vốn góp liên
doanh, tài sản được cấp, được biếu tặng.
4

Thang Long University Library


Phân loại:
Khi sử dụng những tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại tài sản theo các cách
khác nhau. Chẳng hạn như:
- Phân loại theo tính chất tuần hoàn và luân chuyển của tài sản, ta có tài sản cố
định và tài sản lưu động.
Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn do doanh nghiệp nắm giữ, được sử
dụng trong quá trình sản xuất hay lưu thông của một hàng hóa, dịch vụ và có thời gian
sử dụng dài. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó sẽ bị hao mòn dần và giá trị của
nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu cho đến khi bị hư hỏng.
Tài sản lưu động là những tài sản có thời gian luân chuyển hoặc thu hồi vốn
trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản lưu động
thường trực tiếp tham gia cấu tạo nên nó sẽ thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo
thành thực thể sản phẩm, giá trị của nó sẽ được luân chuyển toàn bộ một lần vào chi
phí sản xuất kinh doanh.
-Phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài
sản vô hình:

Tài sản hữu hình là những tài sản mang thuộc tính vật chất, có thể dùng giác
quan nhận biết được, hay có thể dùng các đại lượng vật lý để cân đong đo đếm được,
mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
sản phẩm được sản xuất ra. Tài sản hữu hình dễ dàng được định giá và thường được
định giá theo nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại.
Tài sản vô hình là tài sản không có hình dáng vật chất, không nhìn thấy được,
không cầm nắm được nhưng có thể mang lại lợi thế, quyền hạn để tạo ra lợi ích kinh tế
cho doanh nghiệp. Giá trị của tài sản vô hình phụ thuộc nhiều vào yếu tố tâm lý nên
giá trị của nó thường biến động khôn lường và khó có thể định giá được giá trị của loại
tài sản này.
-Phân loại theo nguồn hình thành tài sản, ta có tài sản được tài trợ bởi vốn chủ sở
hữu và tài sản được tài trợ bởi vốn nợ:
Tài sản được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu là tài sản được hình thành từ nguồn vốn
của bản thân doanh nghiệp như vốn góp của cổ đông, lợi nhuận để lại,… Chi phí tạo
nên loại tài sản này thường cao nhưng lại không gây áp lực trả nợ đồng thời không tạo
nên rủi ro mất khả năng trả nợ.
Tài sản được tài trợ bởi vốn nợ là tài sản được hình thành từ những nguồn vốn
như nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, phải trả người bán, phải trả người lao động, các khoản ký
quỹ, ký cược,… Chi phí hình thành loại tài sản này thường nhỏ hơn chi phí của tài sản
được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu bởi quyền lợi của các chủ nợ được ưu tiên trước quyền
5


lợi của các cổ đông nên tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của họ thấp hơn, đồng thời chi phí
lãi vay cũng mang lại cho doanh nghiệp lá chắn thuế. Tuy nhiên áp lực trả nợ là lý do
khiến doanh nghiệp cần cân nhắc khi đầu tư vào loại tài sản này.
-Phân loại theo thời gian sử dụng, ta có tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn:
Tài sản ngắn hạn là biểu hiện bằng tiền những giá trị thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển thường là trong một năm
hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Tài sản dài hạn là tài sản của doanh nghiệp có thời gian đầu tư, sử dụng và thu
hồi trên một năm, thường có giá trị lớn.
1.2 Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Đối với mỗi doanh nghiệp, để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh cần có đủ
3 yếu tố: đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Bất kỳ các hoạt động
sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các tài sản ngắn hạn, lượng tiền cung ứng
trước để thỏa mãn nhu cầu về tài sản ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn thường được luân
chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm tài sản bằng tiền, các chứng
khoán có tính thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho. Như vậy, ta có
thể định nghĩa tài sản ngắn hạn như sau:
“Tài sản ngắn hạn là biểu hiện bằng tiền những giá trị thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển thường là trong một năm
hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.”
Đặc điểm của tài sản ngắn hạn là vận động không ngừng, luôn thay đổi hình thái
thể hiện qua từng khâu trong sản xuất kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dịch
một lần vào giá trị hàng hóa khi kết thúc một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ chu chuyển của tài sản ngắn hạn, tức là thời gian
để tài sản ngắn hạn từ giai đoạn khởi đầu, qua các giai đoạn khác nhau đến giai đoạn
cuối rồi trở lại với hình thái ban đầu, phản ánh tình hình sử dụng tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp. Trong thực tế sản xuất kinh doanh, sự vận động của tài sản ngắn hạn
không diễn ra tuần tự mà các giai đoạn được đan xen vào nhau, vì vậy cùng một lúc,
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp đồng thời tồn tại ở hai hình thái hiện vật và giá trị.
Ở doanh nghiệp thương mại, tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản
và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
không bị gián đoạn.
1.2.2 Phân loại tài sản ngắn hạn
Căn cứ vào các khâu của quá trình kinh doanh, tài sản ngắn hạn được chia làm
ba loại tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ, sản xuất và lưu thông.
6


Thang Long University Library


Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ: Bao gồm quỹ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,
tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên vật liệu trong kho, công cụ dụng
cụ, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán,…
Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất: Bao gồm bán thành phẩm, các chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang, các chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, chi phí khác
phục vụ sản xuất kinh doanh,…
Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông: Bao gồm thành phẩm tồn kho, hàng gửi
đi bán, khoản phải thu khách hàng,…
Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán, tài sản ngắn hạn bao
gồm: tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản
ngắn hạn khác.
Tiền mặt: Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua
sắm tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ... Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không
sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ là
mục tiêu quan trọng nhất. Công việc của nhà quản lý tài chính là trả lời được câu hỏi:
doanh nghiệp nên giữ một lượng tiền mặt bao nhiêu là hợp lý, phù hợp với yêu cầu sản
xuất kinh doanh của từng thời kỳ.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử
dụng các loại tài sản sao cho hiệu quả nhất. Bởi chứng khoán ngắn hạn có tính lỏng
cao, lại có khả năng sinh lời nên thường được doanh nghiệp lựa chọn đầu tư. Các loại
chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số
dự tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh toán
cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng
và ít tốn kém chi phí. Do đó trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng khoán có
khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.

Ta thấy tiền mặt là một hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc biệt – một tài sản
có tính lỏng nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải
dùng nó để trả cho các hóa đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt này hết, doanh
nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để có lượng tiền như
ban đầu.
Các khoản phải thu: Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc
không thể thiếu. Các doanh nghiệp bán hàng tuy nhiên có thể không nhận được tiền
hàng ngay lúc bán mà nhận sau một thời gian xác định mà hai bên thỏa thuận hình
thành nên các khoản phải thu của doanh nghiệp. Các hóa đơn mua chịu, chưa được
thanh toán thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và chúng tạo nên khoản mục “phải
thu khách hàng”. Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín
7


dụng thương mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị
trường và phát triển mạnh mẽ nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro tài chính
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khoản phải thu giữ một vai trò quan
trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp
sẽ gặp phải những khó khăn, tình trạng nợ khó đòi tăng cao, thậm chí dễ dẫn đến tình
trạng mất khả năng thanh toán. Quy mô của các khoản phải thu không chỉ phụ thuộc
vào quy mô của DN mà còn phụ thuộc vào chính sách tín dụng của DN đó. Do vậy
nhiệm vụ của các nhà tài chính là đưa ra quyết định có nên bán chịu hay không? Nên
bán chịu cho những đối tượng nào? Điều khoản của việc bán chịu ra sao?... Ngoài
“phải thu khách hàng” DN còn có các khoản phải thu khác như thu tiền trả trước cho
người bán, thu nội bộ… nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ, không làm ảnh hưởng nhiều tới
tình hình tài chính của DN.
Hàng tồn kho: Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản
xuất, kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ, tồn kho là những bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng hóa tồn kho có
ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở

dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua
hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực
tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh
tiến hành được bình thường. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém
chi phí, ứ đọng vốn thậm chí nếu sản phẩm khó bảo quản có thể bị hư hỏng. Ngược lại
nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp
theo sẽ không thể tiếp tục được nữa đồng thời không hoàn thành được kế hoạch sản
xuất đề ra, bỏ lỡ cơ hội bán hàng.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn
của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được
chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán
thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nêu dây
truyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong quá trình sản
xuất sẽ càng lớn. Khi tiến hành sản xuất xong hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu
thụ hết sản phẩm. Phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu dùng,
phần phải có đủ lô hàng mới xuất được…Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính
thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn.
Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng hàng
tồn kho dự trữ an toàn và tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà mức dự trữ an toàn
khác nhau.
8

Thang Long University Library


Tài sản ngắn hạn khác: Bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước và các
khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn,… Các khoản tạm ứng là các khoản tiền
hoặc vật tư do doanh nghiệp giao cho người nhận tạm ứng để thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh nào đó hoặc giải quyết một công việc đã được phê duyệt. Chi phí trả
trước là khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác động đến kết quả hoạt động

của nhiều kỳ thanh toán, cho nên chưa thể tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một kỳ
mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán.
1.2.3 Vai trò của tài sản ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn là một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tài sản của doanh
nghiệp. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài tài sản dài hạn như: máy
móc, nhà xưởng… doanh nghiệp còn bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng
hóa, nguyên nhiên vật liệu… phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy tài
sản ngắn hạn là điều kiện cần để một doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tài sản ngắn hạn cần được phân bố hợp lý trong tất cả các khâu, các công đoạn
nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, ổn định,
tranh lãng phí, gây tổn thất do trì trệ sản xuất gây ra. Do đặc điểm của đối tượng lao
động là giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm nên trong chu
kỳ sau lại phải thường xuyên mua sắm dự trữ vật tư hàng hóa để đảm bảo quá tình tái
sản xuất được diễn ra thường xuyên liên tục. Lượng tài sản ngắn hạn có hợp lý, đồng
bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình sản xuất.
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá
trình vận động của vật tư cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ,
sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhu cầu lượng vật tư dự trữ ở từng khâu nhiều
hay ít, tiêu thụ nhanh hay chậm sẽ phản ánh việc tiêu dùng vật tư tiết kiệm hay lãng
phí, thời gian cung cấp ở các khâu đạt yêu cầu hay chưa. Bởi vậy, thông qua sự vận
động của tài sản ngắn hạn có thể đánh giá được tình hình dự trữ, tiêu thụ sản phẩm,
tình hình sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Điều này chúng ta không thể nhận
thấy qua sự vận động của tài sản dài hạn.
Tài sản ngắn hạn còn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp một
cách đắc lực thanh toán và duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, giúp cho
doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và chặn đứng nguy cơ phá
sản của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể nói tài sản ngắn hạn góp phần vô cùng quan
trọng giúp doanh nghiệp hoạt động bình thường và đứng vững. Ta có thể khẳng định

tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là không thể thay thế được trong bất cứ loại hình
doanh nghiệp nào.
9


1.3 Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.3.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả theo nghĩa chung nhất được hiểu là những lợi ích về mặt kinh tế và xã
hội do một hoạt động nào đó mang lại hay nói cách khác, hiệu quả gồm hai mặt: hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội là những lợi ích đạt được về mặt xã hội do một hoạt động nào đó
đem lại. Ví dụ như hiệu quả xã hội của hoạt động thương mại chính là việc thỏa mãn
nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh thần cho xã hội, là góp phần cân đối cung cầu, ổn định
giá cả và thị trường, là mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa giữa các vùng và tạo thêm
việc làm, tăng thu nhập cho người dân.
Hiệu quả kinh tế (hiệu quả kinh doanh) là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp hoặc xã hội để đạt được
kết quả kinh doanh cao nhất với chi phí thấp nhất, hay nói cách khác: hiệu quả kinh tế
là sự so sánh giữa kết quả đầu ra với yếu tố đầu vào hoặc giữa kết quả với chi phí của
cùng một hoạt động kinh doanh.
Từ đó ta đưa ra khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn: “Hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất, hay nói cách khác
hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ
ra để đạt được kết quả ấy.”
1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn đóng vai trò tối quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát
triển cũng phải quan tâm tới việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn sao cho có hiệu
quả. Việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn có tác động rất lớn đến việc tăng hay

giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận
của doanh nghiệp. Quản lý tài sản ngắn hạn là việc sử dụng tổng hợp các biện pháp
duy trì một khối lượng các tài sản ngắn hạn với cơ cấu hợp lý để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, là tiền đề nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho người lao động,
mặt khác giúp giải quyết một phần vấn đề việc làm cho xã hội. Hiện nay, công tác sử
dụng tài sản ngắn hạn của một số doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn chưa cao. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
trong các doanh nghiệp là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng, nó quyết định đến sự
sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng
để đánh giá chất lượng công tác quản lý và sử dụng tài sản kinh doanh nói chung của
doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cho
10

Thang Long University Library


phép các nhà quản lý tài chính của doanh nghiệp đề ra các biện pháp, các chính sách
quyết định đúng đắn, phù hợp.
1.3.3 Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Chính sách quản lý tiền mặt và chứng khoán có tính thanh khoản cao:
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy, tiền gửi ngân hàng và liên
quan chặt chẽ đến việc quản lý các tài sản gắn liền với tiền mặt như các loại chứng
khoán có khả năng thanh khoản cao. Tiền giấy là loại tài sản không sinh lãi, do vậy
trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hóa lượng tiền giấy phải giữ là mục tiêu quan
trọng nhất. Tuy nhiên doanh nghiệp vẫn luôn phải giữ tiền giấy để đảm bảo cho việc
giao dịch trong kinh doanh hàng ngày, để đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp
biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra. Đồng thời doanh
nghiệp cũng phải duy trì tiền gửi trong ngân hàng ở một mức thích hợp để bù đắp cho
ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp (Số dư bù đắp)

cũng như để tạo cho mình lợi thế trong thương lượng mua bán.
Quản lý tiền mặt trong doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được
luồng tiền ra vào, các khoản phải thu, phải trả phát sinh trong kỳ, đồng thời lập kế
hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo các luồng thu, chi bằng tiền phát sinh trong các
tháng, nhu cầu và khả năng tiền mặt, để chủ động trong đầu tư hoặc huy động vốn tài
trợ. Để thực hiện thành công việc quản lý tiền mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành
các bước trong nội dung quản lý ngân quỹ theo một trình tự có tính khoa học.
Quản lý thu tiền mặt:
-Thực thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Thu tiền bán hàng trong kỳ: Do thực thu tiền hàng kỳ này là khoản tiền khách
hàng thực thanh toán cho doanh nghiệp nên thực thu tiền hàng của doanh nghiệp sẽ
bao gồm: giá thành sản phẩm và thuế gián thu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia
tăng, thuế xuất nhập khẩu...)
Thu tiền nợ tiền hàng kỳ trước của khách hàng: Xuất phát từ việc áp dụng chính
sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp nên những khoản tín dụng mà doanh
nghiệp cấp cho khách hàng kỳ trước kỳ này sẽ được khách hàng thanh toán. Những
khoản đó mặc dù phát sinh từ những hoạt động mua bán của kỳ trước nhưng do kỳ này
mới được khách hàng thanh toán nên nó được coi là một khoản thực thu ngân quỹ của
kỳ này.
Thu tiền từ những hoạt động sản xuất kinh doanh khác: Trên bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp, trong mục các khoản phải thu, ngoài các khoản phải thu của
khách hàng doanh nghiệp còn có các khoản phải thu nội bộ và các khoản phải thu
khác. Những khoản tiền thu được từ các khoản trên cũng được coi là thực thu tiền mặt
từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

11


-Thực thu từ hoạt động tài chính: thu vốn gốc và lãi đầu tư vào các đơn vị khác;
thu tiền lãi hoặc tiền bán chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Tiền thu từ khoản cho vay

của ngân hàng; thu lãi hoặc vốn gốc của các khoản doanh nghiệp cho vay bằng các
quỹ nhàn rỗi; thu lãi hoặc gốc tiền gửi trong kỳ; thu tiền lãi từ chênh lệch tỷ giá hoặc
từ việc thực hiện các nghiệp vụ gia tăng ngân quỹ nhàn rỗi và các khoản thu khác có
liên quan đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp đều được coi là các khoản thực thu
từ hoạt động tài chính.
-Thực thu từ hoạt động bất thường của doanh nghiệp là các khoản thu nhập bất
thường mà doanh nghiệp thực thu được, bao gồm: Các khoản nợ phải trả nhưng không
còn chủ nợ, tài sản thừa doanh nghiệp được hưởng, hoàn nhập dự phòng phải thu khó
đòi và giảm giá hàng tồn kho, tiền thu do khách hàng hay đối tác vi phạm hợp đồng,
tiền thu nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, các khoản nợ khó đòi nay đòi được và
các khoản thu nhập bất thường khác.
Quản lý chi tiền mặt:
-Thực chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm:
Chi tiền mua hàng trong kỳ: tức là khoản thực chi mua hàng hay trả trước tiền
hàng trong kỳ.
Chi mua hàng kỳ trước: nếu trong kỳ trước doanh nghiệp được nhà cung cấp cấp
cho một khoản tín dụng thương mại thì kỳ này khi đến hạn doanh nghiệp phải thanh
toán cho nhà cung cấp khoản tiền đó.
Chi đầu tư cơ bản, trả lãi vay ngân hàng, chi thanh toán tiền lương, các chi phí
quản lý, chi phí bán hàng và chi phí thuê ngoài, chi thực hiện nghĩa vụ đối với nhà
nước (thuế, phí và lệ phí)
-Thực chi cho hoạt động tài chính: Chi hoạt động đầu tư, tiền lỗ do kinh doanh,
mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, chi trả vốn gốc ngân hàng, lỗ do
chênh lệch tỷ giá, chi phí tham gia góp vốn liên doanh và tiền về lỗ góp vốn liên
doanh, chi phí khác của hoạt động tài chính
-Thực chi cho hoạt động bất thường: Hoạt động bất thường là những hoạt động
mà doanh nghiệp không dự kiến trước được thực hiện trong kỳ kinh doanh, trong
doanh nghiệp phát sinh những khoản thực chi bất thường sau: Chi phí thanh lý nhượng
bán tài sản cố định kể cả giá trị còn lại. tiền doanh nghiệp phải nộp phạt do vi phạm
cam kết hợp đồng, tiền phải nộp phạt và bị truy thu thuế, các khoản mất tài sản doanh

nghiệp chịu,…
Hoạch định lượng dự trữ tiền tối ưu
Hiểu được nội dung các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ chỉ là bước đầu của
công tác quản lý tiền mặt và nó giúp cho doanh nghiệp dự toán được các khoản thực
thu và thực chi, từ đó, giúp các nhà quản lý tài chính trong doanh nghiệp dự toán được
mức dự trữ tối ưu.
12

Thang Long University Library


Sử dụng mô hình Miller-orr sẽ giúp doanh nghiệp có thể xác định mức dự trữ
tiền mặt tối ưu trong trường hợp doanh nghiệp không dự đoán được chính xác các
khoản thực thu và thực chi.
Biểu đồ 1.1 Mô hình Miller-orr trong xác định mức tồn quỹ tối ƣu

Dựa vào sơ đồ trên, ta thấy số dư tiền mặt dao động lên xuống và không thể dự
toán được cho đến khi đạt được giới hạn trên. Doanh nghiệp sẽ can thiệp bằng cách sử
dụng số tiền vượt quá mức so với mức tiền mặt theo thiết kế để đầu tư vào các chứng
khoán hay đầu tư ngắn hạn khác và lúc đó, cân đối tiền trở về mức thiết kế.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cân đối tiền lại
tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới là lúc doanh nghiệp phải có
sự bổ sung tiền để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, chẳng hạn việc bán một
lượng chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tiền của mình.
Ta có thể thấy rõ vai trò “bước đệm” của các chứng khoán có tính thanh khoản
cao trong việc duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn qua sơ đồ luân chuyển sau:
Sơ đồ 1.1 Mô hình luân chuyển tiền mặt
Các chứng khoán thanh
khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng cách

mua chứng khoán có tính

Bán những chứng khoán
thanh khoản cao để bổ sung

thanh khoản cao

cho tiền mặt

Dòng thu tiền mặt

Tiền mặt

13

Dòng chi tiền mặt


Như vậy, mô hình này cho phép quản lý lượng tiền mặt ở mức độ hoàn toàn tự
do. Khi số dư tiền mặt thực tế lớn hơn số dư tiền mặt thiết kế nhưng khi nó chưa đạt
được giới hạn trên thì doanh nghiệp chưa cần mua chứng khoán. Ngược lại, khi số dư
tiền mặt thực tế nhỏ hơn số dư tiền mặt thiết kế nhưng chưa đạt đến giới hạn dưới của
doanh nghiệp cũng chưa cần phải bán chứng khoán để bổ xung ngân quỹ.
Theo mô hình Miller-orr, khoảng dao động của mức cân đối tiền phụ thuộc vào
ba yếu tố được chỉ ra trong công thức sau:

Nhìn vào sơ đồ ta thấy mức ngân quỹ theo thiết kế không nằm chính giữa giới
hạn trên và giới hạn dưới. Các doanh nghiệp thường xác định mức tồn quỹ theo thiết
kế ở điểm một phần ba khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên:


Như vậy, nếu doanh nghiệp duy trì được mức cân đối tiền theo thiết kế, doanh
nghiệp luôn tối thiểu hoá được tổng chi phí liên quan đến tiền trong ngân quỹ là chi
phí cơ hội (lãi suất) và chi phí giao dịch.
Sau khi đã dự toán được nhu cầu tiền và xác định được mức tồn quỹ tối ưu hay
với khoảng biến động mức tồn quỹ (theo mô hình Miller-Orr). Từ đó, lập ra kế hoạch
quản lý ngân quỹ cho tháng tới.
Quản lý dự trữ tồn kho
Hàng hóa tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản
xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu
dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò rất lớn để cho quá trình sản
xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Do đó mỗi doanh nghiệp phải tính toán
duy trì một lượng dự trữ với cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
được liên tục và có hiệu quả.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến lượng tồn kho dự trữ tối ưu là: Quy mô sản xuất
và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu, chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp; khả năng sẵn
14

Thang Long University Library


sàng cung ứng của thị trường; thời gian vận chuyển hàng từ nhà cung cấp; xu hướng
biến động giá cả; trình độ tổ chức sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm; khả năng
xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm…
Khi thực hiện dự trữ những hàng hóa tồn kho này sẽ tiêu tốn của doanh nghiệp
những loại chi phí sau:
+Chi phí hoạt động: chi phí bốc xếp hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa, chi phí do
giảm giá trị hàng hóa, chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản…
+Chi phí tài chính: chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế, khấu
hao,...

+Chi phí đặt hàng hay chi phí hợp đồng: chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển
hàng hóa.
Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất EOQ
Đầu tiên, xét các giả thiết của mô hình EOQ: lượng hàng đặt mua trong mỗi lần
đặt hàng là như nhau; nhu cầu, chi phí đặt hàng, chi phí bảo quản và thời gian mua
hàng là xác định; chi phí mua của mỗi đơn vị không bị ảnh hưởng bởi số lượng hàng
được đặt; không xảy ra hiện tượng hết hàng.
Tiếp theo, xét mô hình EOQ:
Gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hóa là Q thì dự trữ trung bình là Q/2. Gọi C1
là chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa thì tổng chi phí lưu kho của doanh nghiệp là:
TC1 = C1  Q
2

Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng mỗi lần cung ứng tăng. Gọi D là
toàn bộ lượng hàng hóa cần sử dụng trong một đơn vị thời gian thì số lượng lần cung
ứng hàng hóa là:

n=

D
Q

Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng là: TC2 = C2 

D
Q

Tổng chi phí đặt hàng tăng nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm. Gọi TC là tổng chi
phí tồn trữ hàng hóa thì:


TC = TC1 + TC2 = C1  Q + C2 
2

D
Q

*

Gọi Q là khối lượng hàng cung ứng mỗi lần tối ưu tức là ứng với tổng chi phí
dự trữ là thấp nhất. Lấy vi phân TC theo Q ta sẽ được: Q* =

2 DC 2
C1

Trong thực tế các doanh nghiệp còn cần xác định điểm đặt hàng mới phù hợp
để kịp bổ sung nguyên vật liệu đồng thời không làm phát sinh nhiều chi phí tồn trữ.
15


Thời điểm đặt hàng mới = Số lượng nguyên liệu sử dụng trong một đơn vị thời
gian (x) Độ dài thời gian giao hàng
Tuy nhiên, nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng
biến động không ngừng đặc biệt với doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ hoặc
hàng hóa nhạy cảm với thị trường. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất,
doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng hàng tồn
kho dự trữ an toàn là lượng hàng hóa dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt
hàng, nên thực tế:
Thời điểm đặt hàng mới = Số lượng nguyên liệu sử dụng trong một đơn vị thời
gian (x) Độ dài thời gian giao hàng (+) Lượng dự trữ an toàn
Quản lý các khoản phải thu

Chính sách tín dụng thương mại được coi là một công cụ cạnh tranh sắc bén của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Bán hàng tín dụng là một vũ khí cạnh
tranh không bằng giá, việc bán hàng tín dụng làm tăng doanh số và làm tăng tốc độ
chuyển hóa hàng tồn kho, tăng cường mối quan hệ với khách hàng. Chính sự tồn tại
của tín dụng thương mại đã dẫn đến sự xuất hiện của các khoản phải thu. Vì vậy, muốn
quản lý tốt các khoản phải thu thì trước đó ta hoàn thiện chính sách tín dụng thương
mại của doanh nghiệp.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức
mua bán chịu hàng hóa. Đối với doanh nghiệp, tín dụng thương mại có thể làm cho họ
đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro
cho hoạt động kinh doanh. Điều đó thể hiện qua những nét cơ bản sau:
+TDTM tác động đến doanh thu bán hàng. Doanh thu có khuynh hướng tăng lên
khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng.
+TDTM làm giảm được chi phí tồn kho của hàng hóa.
+TDTM làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và hạn chế phần
nào về hao mòn vô hình.
+TDTM làm tăng chi phí trong hoạt động DN, tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho
nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời gian cấp tín dụng càng dài thì
chi phí ròng càng lớn đồng thời rủi ro cũng càng lớn.
Những tác động trên buộc các nhà quản lý phải cân nhắc thu chi từ đó quyết định
nên có TDTM không, các điều khoản như thế nào là phù hợp. Sau khi xây dựng được
một chính sách tín dụng hợp lý, doanh nghiệp cần đi vào phân tích khả năng tín dụng
của từng đối tượng khách hàng. Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có
thể là kiểm tra bảng cân đối kế toán, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp,
xuống tận nơi để kiểm tra, tìm hiểu qua các khách hàng khác.... Phương pháp phân tích
16

Thang Long University Library



có thể là: Dựa vào các tiêu chuẩn tín dụng để phán đoán (phẩm chất, tư cách tín dụng,
năng lực trả nợ, vốn của khách hàng, thế chấp, điều kiện kinh tế…)
Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị để quyết định có nên cấp hay
không được dựa vào việc tính NPV của dòng tiền bằng công thức:
NPV =
Trong đó: NPV: Giá trị hiện tại thuần của dòng tiền
CFi: Dòng tiền phát sinh kỳ thứ i
CFo: Chi phí đầu tư ban đầu
n: Số kỳ đầu tư
k: Lãi suất chiết khấu
Thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp cho thấy khi bán chịu sẽ phát sinh rủi
ro vỡ nợ của khách hàng, tức là doanh nghiệp không thu được tiền. Khi đó doanh
nghiệp sẽ quy định giá bán cao hơn giá bán chịu khi trả tiền ngay. Như vậy, khi thực
hiện bán chịu vừa đồng thời tăng được khối lượng tiêu thụ và vừa tăng được giá cả.
Tuy nhiên, chi phí cũng được tăng thêm do phải tăng thêm chi phí cho đòi nợ và tài trợ
cho khoản phải thu cũng như cho rủi ro có thể xảy ra. Đó chính là lý do mà nhà tài
chính cần tiến hành theo dõi khoản phải thu. Thông thường người ta dựa vào các chỉ
tiêu tài chính để tính kỳ thu tiền bình quân theo công thức:

Qua công thức trên ta có thể nhận thấy kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh
số bán và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở
khâu thanh toán, doanh nghiệp cần có biện pháp can thiệp kịp thời. Doanh nghiệp cần
sắp xếp “tuổi” của các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp
giải quyết thu nợ đến hạn và phải xác định số dư khoản phải thu để có thể thấy được
nợ tồn đọng mà khách hàng đang nợ doanh nghiệp.
1.3.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.3.4.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) phản ánh khoản thu nhập ròng (lợi nhuận
sau thuế) của một công ty so với doanh thu của nó. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối
cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, cho ta biết trong 100 đồng doanh thu thuần

có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Trên thực tế, tỷ suất sinh lời trên doanh thu giữa
các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử
dụng các yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ có hệ số này cao hơn. Xét từ góc độ nhà đầu tư,
một công ty có điều kiện phát triển thuận lợi sẽ có mức lợi nhuận ròng cao hơn lợi
17


nhuận ròng trung bình của ngành và có thể liên tục tăng. Ngoài ra, một công ty càng
giảm chi phí của mình một cách hiệu quả thì tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao.
ROS =
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận
của vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ
tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích thì 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu
đồng thu nhập, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng
tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của doanh nghiệp. Có thể nói, bên cạnh các hệ
số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra
tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là một chỉ số đáng tin cậy về khả năng một công
ty có thể sinh lời trong tương lai. Thông thường, ROE cao chứng tỏ công ty sử dụng
hiệu quả vốn chủ sở hữu tốt, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn
cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy
động vốn, mở rộng quy mô.
ROE =
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA): Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ kinh
doanh thì 100 đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập, chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tốt, đó là nhân tố giúp nhà quản trị đầu tư theo chiều
rộng như xây dựng nhà xưởng, mua thêm máy móc thiết bị. Một công ty đầu tư tài sản
ít nhưng thu được lợi nhuận cao sẽ là tốt hơn so với công ty đầu tư nhiều vào tài sản
mà lợi nhuận thu được lại thấp. Hệ số ROA thường có chênh lệch giữa các ngành.
Những ngành đòi hỏi phải có đầu tư tài sản lớn vào dây chuyền sản xuất, máy móc
thiết bị, công nghệ như các ngành vận tải, xây dựng, sản xuất kim loại,… thường có

ROA nhỏ hơn so với các ngành không cần phải đầu tư nhiều vào tài sản như ngành
dịch vụ, quảng cáo, phần mềm,… Trong cùng một ngành thì công ty nào có chỉ số
ROA cao hơn được đánh giá là sử dụng tài sản một cách hiệu quả hơn.
ROA =
1.3.4.2 Nhóm các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán hiện hành cho biết khả năng của một công ty trong việc
dùng các tài sản ngắn hạn như tiền mặt, hàng tồn kho hay các khoản phải thu để chi trả
cho các khoản nợ ngắn hạn của mình. Tỷ số này càng cao chứng tỏ công ty càng có
nhiều khả năng sẽ hoàn trả được hết các khoản nợ. Tỷ số thanh toán hiện hành nhỏ hơn
1 cho thấy công ty đang ở trong tình trạng tài chính tiêu cực, có khả năng không trả
18

Thang Long University Library


được các khoản nợ khi đáo hạn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là công ty sẽ phá
sản bởi vì có rất nhiều cách để huy động thêm vốn. Mặt khác, nếu tỷ số này quá cao
cũng không phải là một dấu hiệu tốt bởi vì nó cho thấy doanh nghiệp đang sử dụng tài
sản chưa được hiệu quả.
Tỷ số thanh toán hiện hành =
Khả năng thanh toán nhanh: thông qua tỷ số thanh toán nhanh mà ta biết liệu
công ty có đủ các tài sản ngắn hạn để trả cho các khoản nợ ngắn hạn mà không cần
phải bán hàng tồn kho hay không. Tỷ số này phản ánh chính xác hơn tỷ số thanh toán
hiện hành. Một công ty có tỷ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1 sẽ khó có khả năng hoàn
trả các khoản nợ ngắn hạn và phải được xem xét cẩn thận. Ngoài ra, nếu tỷ số này nhỏ
hơn hẳn so với tỷ số thanh toán hiện hành thì điều đó có nghĩa là tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào hàng tồn kho.
Tỷ số thanh toán nhanh =
Khả năng thanh toán tức thời: Tỷ số thanh toán tiền mặt cho biết một công ty có
thể trả được các khoản nợ của mình nhanh đến đâu, vì tiền và các khoản tương đương

tiền là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng
thanh toán tức thì ( ngay lập tức) khi nợ ngắn hạn đến kỳ thanh toán mà không phụ
thuộc vào việc thu hồi các khoản phải thu và việc giải phóng hàng tồn kho. Khi hệ số
này cao thì cho thấy doanh nghiệp có khả năng sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến
hạn và ngược lại.
Khả năng thanh toán tức thời =
1.3.4.3 Nhóm các chỉ tiêu hoạt động
Vòng quay tài sản ngắn hạn trong kỳ là chỉ tiêu phản ánh số vòng quay của tài
sản ngắn hạn trong một thời kỳ nhất định và thường là một năm. Chỉ tiêu này bị ảnh
hưởng bởi kết quả sản xuất kinh doanh và tài sản ngắn hạn bỏ ra trong kỳ, đánh giá
hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất
(doanh thu thuần) và số tài sản ngắn hạn bỏ ra trong một kỳ. Nói cách khác, chỉ tiêu
vòng quay tài sản ngắn hạn cho biết trong một năm tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
luân chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản ngắn hạn tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu. Số vòng quay càng cao thì càng tốt đối với doanh nghiệp,
chứng tỏ công ty sử dụng tài sản ngắn hạn có hiệu quả, tạo ra nhiều doanh thu.
Vòng quay tài sản ngắn hạn trong kỳ =
19


Thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn nói lên độ dài bình quân của một lần luân
chuyển của tài sản ngắn hạn hay số ngày bình quân cần thiết để tài sản ngắn hạn thực
hiện một vòng quay trong kỳ. Trái ngược với chỉ tiêu số vòng quay tài sản ngắn hạn
trong kỳ, thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn càng ngắn càng chứng tỏ tài sản ngắn
hạn được sử dụng có hiệu quả.
Thời gian luân chuyển TSNH =
Suất hao phí của tài sản ngắn hạn cho biết để doanh nghiệp có 1 đồng doanh thu
thuần trong kỳ thì cần bao nhiêu đồng giá trị tài sản ngắn hạn, đó là căn cứ để đầu tư
các tài sản ngắn hạn cho phù hợp. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn càng cao, doanh nghiệp sử dụng tài sản ngắn hạn có hiệu quả, không cần

đầu tư quá nhiều tài sản ngắn hạn nhưng lại tạo ra nhiều doanh thu.
Suất hao phí của tài sản ngắn hạn =
1.3.4.4 Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của tài sản ngắn hạn, bị ảnh hưởng bởi kết
quả sản xuất kinh doanh và tài sản ngắn hạn bỏ ra trong kỳ. Nó cho biết mỗi đơn vị giá trị
tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này
càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng tốt, tài sản ngắn hạn tạo ra càng
nhiều lợi nhuận ròng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Tỷ suất sinh lời của TSNH =
Tiến hành phân tích Dupont cho chỉ tiêu này, ta thấy:
Tỷ suất sinh lời TSNH =

*

=

= Hệ số sinh lời của DTT * Số vòng quay TSNH bình quân
Xét số vòng quay TSNH bình quân: số vòng quay TSNH bình quân càng cao
chứng tỏ sức sản xuất của các TSNH càng nhanh, đó chính là nhân tố làm tăng tỷ suất
sinh lời TSNH. Số vòng quay TSNH bình quân lại bị ảnh hưởng bởi 2 nhân tố: Doanh
thu thuần càng lớn, số vòng quay càng nhiều và TSNH bình quân càng nhỏ, số vòng
quay càng nhiều. Song doanh thu thuần và TSNH bình quân thường có quan hệ cùng
chiều với nhau, tức là tổng TSNH tăng thì tổng doanh thu thuần cũng tăng. Trên cơ sở
đó, nếu doanh nghiệp muốn tăng vòng quay TSNH thì cần phân tích các nhân tố có
20

Thang Long University Library


liên quan, xác định những mặt tích cực, tiêu cực của từng nhân tố để có biện pháp

nâng cao số vòng quay của TSNH, góp phần nâng cao tỷ suất sinh lời TSNH.
Xét hệ số sinh lời của DTT: DTT trừ đi tổng chi phí bằng lãi thuần. Lãi thuần
chia cho DTT bằng hệ số sinh lời của DTT. Vì vậy, doanh nghiệp muốn tăng khả năng
sinh lời của DTT cần có các biện pháp giảm chi phí bằng cách phân tích các yếu tố cấu
thành đến tổng chi phí để có biện pháp phù hợp. Đồng thời tìm biện pháp để nâng cao
doanh thu, giảm đến mức tối thiểu các khoản giảm trừ doanh thu
1.3.4.5 Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu: Đây là một chỉ tiêu cho thấy tính hiệu quả của
chính sách tín dụng mà doanh nghiệp đã áp dụng với khách hàng. Chỉ số vòng quay
càng cao cho thấy doanh nghiệp được khách hàng trả nợ càng nhanh. Nhưng nếu so
với các doanh nghiệp cùng ngành mà chỉ số này vẫn quá cao thì doanh nghiệp có thể
bị mất khách hàng do họ sẽ chuyển sang tiêu dùng các hàng hóa của đối thủ cạnh tranh
mà có thời gian tín dụng dài hơn. Do đó doanh số bán hàng của doanh nghiệp sẽ bị sụt
giảm.
Vòng quay các khoản phải thu =
Thời gian thu tiền trung bình: Chỉ số này cho biết bình quân trong bao nhiêu
ngày doanh nghiệp có thể thu hồi các khoản phải thu của mình. Vòng quay các khoản
phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Kỳ thu tiền bình
quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết luận chắc chắn mà còn phải
xem xét các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường
và chính sách tín dụng.
Thời gian thu tiền trung bình =
1.3.4.6 Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho: Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị
hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh
giá năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này lớn cho thấy tốc
độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ
quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh
doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.

Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro hơn
nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua các năm. Tuy
21


nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự trữ trong
kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp
bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên liệu
vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị
ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản
xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Hệ số quay vòng hàng tồn kho
hoặc =
Thời gian luân chuyển kho trung bình: Đây là thước đo thể hiện khả năng về mặt tài
chính của công ty. Chỉ số này cho các nhà đầu tư biết về khoảng thời gian cần thiết để
công ty có thể thanh lý được hết số lượng hàng tồn kho của mình (bao gồm cả hàng hoá
còn đang trong quá trình sản xuất). Thông thường nếu chỉ số này ở mức thấp thì có nghĩa
là công ty hoạt động khá tốt, tuy nhiên cũng cần phải chú ý rằng chỉ số thời gian luân
chuyển kho trung bình là rất khác nhau giữa các ngành. Đôi khi chỉ số này còn được gọi
là số ngày lưu thông hàng tồn kho DIO (Days inventory outstanding)
Thời gian luân chuyển kho trung bình =
1.3.4.7 Chỉ tiêu thời gian quay vòng tiền
Chỉ tiêu này phản ánh khoảng thời gian để doanh nghiệp chuyển hóa các nguyên vật
liệu sản xuất thành tiền mặt. Con số này càng cao, thì lượng tiền mặt của doanh nghiệp
càng khan hiếm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cho các hoạt động khác như đầu
tư. Chu kỳ tiền mặt được tính từ khi chi trả cho các nguyên liệu thô tới khi nhận được tiền mặt
trong bán hàng. Nếu con số này nhỏ sẽ được coi là khả năng quản lý vốn lưu động tốt. Ngược
lại, con số này lớn có thể được giải thích là: doanh nghiệp phải thuê thêm vốn trong khi vẫn
phải chờ khách hàng trả nợ tiền hàng cho mình. Quá trình sản xuất càng dài, lượng tiền mặt

mà doanh nghiệp phải thuê thêm để đầu tư càng lớn. Tương tự, thời gian khách hàng thanh
toán các hóa đơn càng lâu, thì giá trị của các hóa đơn càng giảm. Hay nói cách khác, tài khoản
có thể thu hồi về được làm giảm vốn lưu động của doanh nghiệp.
Thời gian quay vòng tiền = Thời gian thu nợ + Thời gian luân chuyển kho – Thời
gian trả nợ
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp luôn vận động chuyển hóa không ngừng và
tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó, tài sản ngắn hạn

22

Thang Long University Library


chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp.
1.4.1 Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan được xuất phát từ bản thân doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cũng như toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh. Chúng ta có thể kể đến một số nhân tố như sau:
Mặt hàng kinh doanh: đây là nhân tố đóng vai trò quyết định trong việc phân
phối tài sản, đặc biệt là chu kỳ sản xuất kinh doanh. Sản phẩm của mỗi doanh
nghiệp là khác nhau do vậy mà có những doanh nghiệp chu kỳ sản xuất dài, những
doanh nghiệp khác chu kỳ sản xuất lại ngắn, điều đó có ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Đồng thời, nếu sản
phẩm là phù hợp với thị trường và khả năng của doanh nghiệp thì sản phẩm sản xuất
ra sẽ được tiêu thụ mạnh, từ đó làm tăng vòng quay tài sản ngắn hạn và ngược lại
nếu lựa chọn sản phẩm không phù hợp thì tài sản ngắn hạn sẽ bị ứ đọng, không tạo
ra hiệu quả kinh tế.
Chính sách và trình độ quản lý: tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp trong cùng

một thời điểm được phân bổ trên khắp các giai đoạn sản xuất, luân chuyển từ khi
mua sắm nguyên vật liệu dự trữ đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm. Nếu không có
chính sách quản lý phù hợp, chặt chẽ cùng với trình độ quản lý cao thì sẽ làm thất
thoát tài sản ngắn hạn và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp.
Tầm nhìn của nhà quản trị: Nếu nhà quản trị không có cái nhìn bao quát, xác
định không chính xác nhu cầu tài sản ngắn hạn thì sẽ dẫn đến tình trạng thừa hoặc
thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Nếu thừa vốn sẽ gây lãng phí còn nếu thiếu
vốn thì không đảm bảo được cung cấp đủ các yếu tố cho quá trình sản xuất. Điều
này sẽ ảnh hưởng không tốt tới quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.2 Nhân tố khách quan
Khi nhà nước thay đổi chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật hay chính sách thuế,
chính sách xuất nhập khẩu,… sẽ gây ảnh hưởng lớn và vô cùng nhanh chóng tới điều
kiện hoạt động của doanh nghiệp, và kéo theo đó, tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
cũng bị ảnh hưởng.
Tình hình lạm phát trên thị trường luôn biến đổi khôn lường. Khi lạm phát tăng
cao, đồng tiền sẽ mất giá, sức mua của đồng tiền bị sụt giảm mạnh, dẫn tới sự tăng giá
của các nguyên vật liệu đầu vào. Nếu doanh nghiệp không có các khoản dự phòng đủ
lớn cũng như không có biện pháp xử lý kịp thời thì tài sản ngắn hạn sẽ không còn đủ
để hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định.
23


Tình hình kinh tế văn hóa xã hội chính trị mà ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại nếu tồn tại nhiều khó khăn như thiên
tai, lũ lụt, hỏa hoạn, hạn hán hay chiến tranh gây nên sự bất ổn thì sẽ tạo nhiều cản trở
cho các doanh nghiệp.
Trên đây là các nhân tố chính tác đông tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn,
nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú ý tới các yếu tố khác nữa như tỷ giá, thiên
tai, dịch bệnh,… cũng ít nhiều tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp.

24

Thang Long University Library


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp là loại tài sản quan trọng, phục vụ trực tiếp
cho quá trình sản xuất kinh doanh, lưu chuyển hàng hóa và luôn chiếm một tỷ trọng
lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp mà quản lý tốt, sử dụng tốt tài sản ngắn hạn thì sẽ tiết kiệm được
chi phí (chi phí lưu kho, chi phí cơ hội,…) mà vẫn đảm bảo sản xuất thông suốt.
Ngược lại, nếu sự quản lý mà yếu kém sẽ gây lãng phí, tốn kém khi dự trữ quá nhiều
tài sản ngắn hạn; hoặc làm đình trệ, gián đoạn quá trình thi công nếu dự trữ thiếu tài
sản ngắn hạn. Vì thế sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả có vai trò lớn trong
hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị
trường mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, việc nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh cạnh
tranh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bứt phá. Để đưa ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và tài sản nói riêng, bản thân
doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa lý luận và điều kiện thực tế của công ty mình cũng
như điều kiện kinh tế xã hội và các quy định của nhà nước.

25


×