Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Khoá luận tốt nghiệp pháp luật về thuế thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.71 KB, 37 trang )

TÓM LƯỢC
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống các quy phạm pháp luật về thuế của nước ta khóa
luận đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động pháp lý của thuế trong một doanh
nghiệp. Đồng thời, bằng việc phân tích, đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các quy
định pháp luật hiện hành về điều chỉnh vấn đề thuế để thông qua đó đề xuất một số ý
kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả khi áp
dụng vào thực tiễn. Bài khóa luận phân tích nội dụng quy phạm pháp luật thực tại hiện
nay nói chung và tại công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH nói
riêng đểphản ánh thực tiễn việc thực hiện pháp luật về thuế và đưa ra hướng hoàn thiện
để giải quyết những vướng mắc trong quy định của pháp luật về thuế với đề tài: “Pháp
luật về thuế. Thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH thương mại và chế biến thực
phẩm xanh TH”. Kết cấu khóa luận gồm 3 chương với các nội dung cơ bản sau đây:
Chương I: Những lý luận cơ bản điều chỉnh chính sách thuế: Chương này tập trung
đưa ra những khái niệm cơ bản về chính sách thuế theo nhiều góc độ khác nhau để có cái
nhìn đa chiều về cách thức hình thành của thuế. Đồng thời đưa ra các đặc điểm nói chung
của thuế, cơ sở ban hành cũng như nội dung trọng tâm mà khóa luận nghiên cứu. Thêm
vào đó, bộ nguyên tắc điều chỉnh pháp luật của thuế cũng được đề cập để hướng các chủ
thể của luật thuế luôn thực hiện đúng theo chuẩn mực hiện hành.
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh chính sách thuế: Cái nhìn tổng quan cũng
như nhân tố ảnh hưởng được đề cập có định hướng trong chương này đồng thời hạn chế
tồn tại của quy phạm pháp luật thuế được đưa theo sau đó là thực trạng thực thi tại doanh
nghiệp.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh chính sách thuế: Xây
dựng các giải pháp hoàn thiện dựa trên những hạn chế và quan điểm nhìn nhận của cá
nhân. Đưa ra các vấn đề thực tiễn cần nghiên cứu.



Danh mục viết tắt

TNHH



Trách nhiệm hữu hạn

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

GTGT

Giá trị gia tăng

XK

Xuất khẩu

NK

Nhập khẩu

XNK

Xuất nhập khẩu

BVMT

Bảo vệ môi trường


NSNN

Ngân sách nhà nước

AEC

Cộng đồng kinh tế ASIAN


LỜI NÓI ĐẦU
Thuế là một chính sách quan trọng của nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, hệ thống chính sách thuế
gồm có thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu như thuế GTGT, Thuế Tiêu thụ đặc
biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu. Thuế trực thu như thuế Thu nhập cá nhân, Thuế
Thu nhập doanh nghiệp. Trước nền kinh tế đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế
quốc tế và tiến trình chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng các chính sách thuế không ngừng
thay đổi theo thực tiễn phát triển. Mỗi doanh nghiệp đều tuân thủ nghiêm ngặt quy định
về các chính sách thuế trong quá trình hoạt động kinh doanh đảm bảo nghĩa vụ của mình
đối với nhà nước, xã hội. Trong những năm tới, việc hiệp định TPP được ký kết và thành
lập cộng đồng kinh tế ASIAN (AEC) với sức mạnh của 10 quốc gia Đông Nam Á cùng
với hàng rào thuế quan và phi thuế quan được gỡ bỏ, một thị trường rộng lớn đã mở ra
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong trao đổi hàng hóa, thương mại, thu hút đầu tư và
tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất, cung ứng khu vực. Lao động có sự phát triển mạnh
mẽ, xuất hiện khái niệm “di chuyển thể nhân” cho phép và khuyến khích người nước
ngoài hoạt động kinh tế tại Việt Nam cũng như người Việt Nam hoạt động những ngành
nghề quy định tại các nước AEC đã ký kết nhằm thu hút lượng chất xám đồng thời kéo
theo sự đa dạng đối với yêu cầu quản lý thuế TNCN. Cùng với đó, các chính sách này
phát triển đòi hỏi hàng rào thuế quan của Việt Nam mở rộng đối với một số nước, nguồn
thu thuế và các chính sách thuế không ngừng thay đổi. Đối với thuế TNDN, thuế xuất

nhập khẩu nhà nước vẫn luôn chú trọng quản lý chặt chẽ bởi vị trí quan trọng của nó
trong các loại thuế mà mỗi doanh nghiệp phải nộp. Doanh nghiệp mới không ngừng
thành lập, các chính sách thuế được đặt ra đòi hỏi phải bao quát tình hình quản lý thuế
của doanh nghiệp đang hoạt động cũng như doanh nghiệp sắp hoạt động trong hàng
nghìn, hàng chục nghìn doanh nghiệp mới mỗi năm. Việc các chính sách thuế không
ngừng thay đổi theo thực tiễn phát triển là một thuận lợi đảm bảo phù hợp với thực tiễn
đồng thời cũng là khó khăn thách thức với các doanh nghiệp để cập nhật kịp thời và đầy
đủ, đúng theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong cả nước nói
chung cũng như công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH nói riêng
phải có những hiểu biết đối với pháp luật về chính sách thuế nhằm áp dụng vào quá trình
sản xuất và hoạt động kinh doanh.
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này em xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn
nhiệt tình của cô Tạ Thị Thùy Trang – giảng viên khoa Kinh tế - Luật, chuyên ngành Luật
thương mại, Trường Đại học Thương Mại cùng với sự hỗ trợ thông tin từ công ty TNHH
thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH. Với kiến thức và kinh nghiệm tích lũy còn
hạn chế, đề tài không khỏi còn có những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy
cô giáo và các bạn.


Em xin chân thành cảm ơn!


1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, chính vì vậy mà trong những năm
qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm hoàn thiện chính sách và cơ chế thu thuế đối với
các doanh nghiệp trong cả nước để đáp yêu cầu mới của sự phát triển đất nước trong giai
đoạn hiện nay, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước ổn định tình hình kinh tế, xã hội.
Đồng thời tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát
triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Sau nhiều năm ra đời các đạo Luật thuế, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn

tồn tại nhiều vấn đề bất cập, thuế đã dần đi vào đời sống và có những tác động tích cực
đến tình hình kinh tế xã hội đất nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp
dụng luật thuế trên thực tế vẫn là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp
luật dẫn đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm
pháp luật khác. Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về thuế ở
Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thuế trong thời gian tới.
Công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH là một trong vô vàn công
ty đã đang và sẽ hoạt động kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy đi vào hoạt động chưa lâu
nhưng công ty có nhiều hoạt động thuế quan trọng, đồng thời trong quá trình hoạt động
xuất hiện nhiều vướng mắc về quy định của luật thuế. Những vướng mắc này thường là
những vướng mắc phổ biến liên quan đến chính sách thuế không chỉ ở riêng công ty
TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH mà còn có nhiều doanh nghiệp trong
cả nước gặp phải. Dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước các vẫn đề liên quan đến thuế
diễn ra như một đặc trưng vốn có, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều có bóng dáng của
luật thuế. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về thuế. Thực tiễn thực
hiện tại công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH” để đáp ứng được
yêu cầu cấp thiết từ thực tế về chính sách thuế tại doanh nghiệp nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Cũng bởi tầm quan trọng của mình đề tài về chính sách thuế nói chung đã và đang
được nhiều tổ chức, cá nhân liên quan nghiên cứu đến ở nhiều góc độ khác nhau như: Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tổng cục thuế về “Chiến lược cải cách hệ thống
thuế giai đoạn 2001-2010”; Đề tài “Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập trong hoạch
định chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp cổ phần” - Báo Phát triển và hội nhập Số 21
(31) - Tháng 03-04/2015; Đề tài “Quan hệ giữa chính sách thuế và tăng trưởng kinh tế
tại các quốc gia Đông Nam Á và hàm ý đối với Việt Nam” – Ban thông tin - thư viện
Trường đại học Ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh cơ sở II; Đề tài: “Đổi mới quản lý



thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay”, Luận án thạc sỹ Kinh
tế của Trần Thành Tô, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006. Nhìn chung,
các đề tài và tài liệu trên đều có cung cấp kiến thức về Thuế, quản lý thuế, chống thất thu
thuế nhà nước. Các khái niệm về chính sách thuế, đặc điểm về thuế và thực trạng diễn ra
trong xã hội về các chính sách thuế. Ví dụ, trong đề tài của mình Thạc sĩ kinh tế Trần
Thành Tô có chỉ ra một số quan điểm về quản lý thuế trong ngành hải quan một trong
những kiến nghị đó là: “Đề nghị Bộ Tài chính khi xây dựng Biểu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu nên định hướng xây dựng với ít mức thuế hơn, giảm bớt sự chênh lệch mức thuế đối
với cùng một chủng loại hàng hoá; điều chỉnh các qui định liên quan đến phương pháp
tính thuế theo thuế tuyệt đối”. Hay trong Báo Phát triển và hội nhập Số 21 (31) - Tháng
03-04/2015 về đề tài “Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập trong hoạch định chi phí sử
dụng vốn của doanh nghiệp cổ phần” tác giả Trần Tấn Hùng và Ngô Thị Mỹ Thúy đã chỉ
ra: “Bộ Tài chính cần nghiên cứu và sửa đổi bổ sung chính sách thuế TNCN về thu nhập
từ lãi trái phiếu doanh nghiệp và cổ tức của cổ phiếu ưu đãi hoàn lại của các nhà đầu tư
cá nhân, tạo động lực cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào các loại chứng khoán này”.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về đề tài chính sách
thuế hiện nay ở góc độ kinh tế chính trị tại các doanh nghiệp. Đa phần chính sách thuế
được nhìn nhận dưới một cái nhìn chi tiết trong một phạm trù rộng lớn. Thêm vào đó,
thuế ở từng giai đoạn có những nét đặt trưng riêng đòi hỏi nhà nghiên cứu phải không
ngừng phân tích kĩ lưỡng và bám sát vào từng bước đi của luật thuế để đưa ra phương
pháp đúng đắn. Cũng là nghiên cứu thuế, cùng một đề tài nhưng dưới cái nhìn của những
đối tượng khác nhau, thời điểm khác nhau sẽ cho ra kết qủa khác nhau. Chính vì vậy, với
đề tài của này, luật thuế sẽ được trình bày chi tiết liên quan đến các loại thuế đang được
doanh nghiệp sử dụng phổ biến và có nhiều biến động thay đổi theo tình hình thực tiễn.
2.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.
Sách “Taxes in the United States: History, Fairness, and Current Political Issues” dịch
“Thuế tại Hoa Kỳ: Lịch sử, sự công bằng, và Các vấn đề chính trị hiện tại” được viết bởi
Brian Roach thuộc Phát triển toàn cầu và Viện Môi trường, Đại học Tufts. Nghiên cứu

này được thiết kế để cung cấp một sự hiểu biết cơ bản về kinh tế, chính trị, và bối cảnh xã
hội của toàn bộ hệ thống thuế của Hoa Kỳ cũng như cơ cấu thuế ở đây. Đồng thời, đưa ra
dữ liệu điện tử chi tiết về thuế để minh chứng cho tình hình phát triển kinh tế nước Mỹ.
Bài “Nghiên cứu thuế của Australia” trên trang hệ thống thuế, kinh nghiệm thị trường.
Đóng góp có giá trị cho sự hiểu biết và cải thiện hệ thống thuế của Úc, các nghiên cứu về
thuế, tổ chức các hội nghị, hội thảo và sau đó xuất bản nhiều bài viết và bài báo, là công
cụ trong việc xây dựng một hồ chứa trí tuệ của các đề xuất cải cách thuế với hy vọng tạo
ra một "Tầm nhìn của thuế" đối với Australia. Mục đích của bài viết này là để kiểm tra


các quy định đặc biệt của luật thuế đánh giá liên quan đến việc miễn thu nhập của các tổ
chức từ thiện và trích tiền đóng góp cho tổ chức từ thiện.
Bài viết “Bước phát triển của chính sách thuế các nước trên thế giới” viết bởi Javad
KhazadShi A Anwar Shah trên A World Bad posium nêu lên lịch sử phát triển chính sách
thuế của các nước trên thế giới, đặc trưng bởi các nhóm chính sách thuế của từng hệ
thống pháp luật riêng biệt nhằm đưa ra nét đặc trưng trong chính sách thuế của từng hệ
thống khác nhau. Đó là nguồn văn bản rất quan trọng để tham khảo, đối chiếu, so sánh
và có các kiến nghị vận dụng phù hợp đối với hệ thống pháp luật về chính sách thuế
nước ta.
Mặc dù đối với với quốc gia khác nhau việc kiến giải và đề xuất áp dụng chính
sách thuế là khác nhau nhưng khi tìm hiểu nghiên cứu chính sách thuế của các quốc gia
tiêu biểu trên thế giới giúp ta có cái nhìn đa chiều cùng với những kiến giải đa dạng về
hướng đi trong nghiên cứu chính sách thuế. Từ đó, giúp xây dựng và hoàn thiện cũng
như mở rộng tầm nhìn trong việc nghiên cứu bài khóa luận được chi tiết rõ ràng, có sự
đối chiếu so sánh cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế.
3.Xác lập và tuyên bố về chính sách thuế được nghiên cứu
Nghiên cứu về thuế đã đang và sẽ là đề tài mới trong vô vàn nghiên cứu về thuế, còn
nhà nước, còn duy trì hoạt động của bộ máy hành chính là còn tồn tại thuế. Chính sách
thuế đi theo con người từ thời điểm xuất hiện nhà nước đầu tiên và chỉ kết thúc khi nào
con người không còn tồn tại hình thức nhà nước. Tầm quan trọng của thuế luôn được

quan tâm bởi chính sách pháp luật, bởi hệ thống thu nộp thuế, bởi các khẩu hiệu trong
quần chúng nhân dân. Đề tài chọn lọc và hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về chính
sách thuế đưa đến một cái nhìn đa chiều thống nhất về một lĩnh vực ăn sâu vào từng ngóc
ngách của nền kinh tế. Bất kỳ một đối tượng nào khi có đủ điều kiện đều phải tham gia
nghĩa vụ thuế. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý, thu thuế, tuân thủ luật thuế tại các
doanh nghiệp thời gian qua và từ đó đề xuất giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả
chính sách thuế tại các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước. Dựa trên việc áp dụng chính
sách thuế có thể thấy được khó khăn trong việc thực thi, thuận lợi của chính sách thuế
cần phát huy cũng như những thay đổi phù hợp trong tình hình thực tiễn để doanh nghiệp
hoạt động kinh tế suôn xẻ nhất.
Làm rõ vai trò của chính sách thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội và nội dung của
quản lý thuế, thu thuế và tuân thủ luật thuế của các đối tượng. Từ đó đánh giá đúng sức
ảnh hưởng để có sự đầu tư thích đáng trong công tác quản lý cũng như ý thức việc thu
nộp thuế của các đối tượng chịu thuế. Chính ta đều biết thuế quan trọng nhưng để tự
nguyện thực hiện trách nhiệm nộp thuế thì ở từng mức độ theo cảm quan mà nhân dân có
thể đầu tư, nộp thuế đúng quy định mà không có sự phản kháng.


Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách thuế, rút ra những thành công, hạn
chế và nguyên nhân. Xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế đảm bảo nguyên tắc cơ bản
trong thu nộp thuế, hướng tới giảm việc chống thuế, chốn thuế trên phạm vi cả nước. Đề
xuất những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách thuế hiệu quả.
4.Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa xác định rõ chủ thể với những đặc tính nhất định liên
quan đến chính sách thuế nhằm làm rõ ta phải nghiên cứu cái gì và trọng tâm nghiên cứu
sẽ xoay quanh đối tượng đó. Theo đó, ta xác định nhóm đối tượng được nghiên cứu liên
quan đến thuế cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhóm quản lý thuế. Quản lý thuế là một trong những nội dung quan trọng
không thể tách rời hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động quản lý thuế của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền là hoạt động tuân thủ đúng theo quy định của luật thuế, luật hành
chính và pháp luật có liên quan đảm bảo thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ quyền hạn
của mình trong công tác giám sát, kiểm tra, tuân thủ và đánh giá theo đúng luật thuế.
Thứ hai, các tổ chức, cá nhân trực tiếp hay gián tiếp tuân thủ nghĩa vụ thuế với nhà
nước. Đảm bảo nộp thuế đầy đủ, công bằng và đúng hạn trong công tác nộp thuế, thực
hiện chính sách thuế.
Thứ ba, các chính sách pháp luật về thuế, đây là đối tượng được chú trọng nghiên cứu
xem xét. Bởi vì, mọi hành vi của các đối tượng trong xã hội đều phải dựa trên pháp luật.
Khi pháp luật có quy định về các hành vi liên quan đến chính sách thuế các chủ thể của
luật thuế bắt buộc phải thực hiện. Tuy nhiên, đề tài chủ yếu nghiên cứu về các chính sách
thuế mà một doanh nghiệp thường sử dụng như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,.. để làm nổi bật đi sâu về sự ảnh hưởng của các luật thuế
này đối với doanh nghiệp, thực tiễn áp dụng và bất cập khó khăn để từ đó có các kiến
nghị phù hợp.
4.2.Mục tiêu nghiên cứu
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào ngân
sách Nhà nước.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được
hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà
nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và
phân phối lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình
thức tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập.
Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều hơn.
Số tiền này sau đó được Nhà nước chi nhằm thực hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra
tính công bằng tương đối cho xã hội.


Việc nghiên cứu đề tài giúp hiểu biết chính sách thuế thông qua việc quy định các hình
thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế;
xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp

thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của
nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang
cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được nâng cao. Nhà
nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh
tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh
lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự
lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh.
4.3.Phạm vi nghiên cứu.
Thuế là một tất yếu khách quan đã đang và sẽ diễn ra trong đời sống xã hội trừng nào
còn có nhà nước, còn có cơ chế quản lý và còn có hoạt động kinh tế phát sinh trong đời
sống xã hội. Để hiểu rõ về các chính sách thuế cũng như giúp cơ quan nhà nướcquản lý
thuế một cách hiệu quả đề tài tập trung nghiên cứu về hai khía cạnh:
Thứ nhất là không gian nghiên cứu: bài nghiên cứu đi sâu tìm hiểu pháp luật về các
chính sách thuế tại Việt Nam. Cụ thể đề tài đi sâu tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật
trong đời sống kinh tế, chính tri, xã hội như cơ chế ban hành luật của quốc hội, cơ chế
quản lý về chính sách thuế của nhà nước cũng như sự chấp hành của cá nhân tổ chức
tham gia quan hệ thu và nộp thuế. Điều này giúp hiểu rõ sự vận hành của cơ chế pháp
luật nhằm pháp huy tính tốt đẹp cũng như hạn chế những thiếu sót gặp phải nhờ nhìn
nhận lại hoạt động thực tiễn đang diễn ra.
Thứ hai là thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các sắc thuế mới nhất
được ban hành để điều chỉnh pháp luật về thuế. Việc xem xét quá trình hình thành cũng
như những đòi hỏi cần thiết về sự sửa đổi bổ sung pháp luật qua đó cho thấy sự trưởng
thành không chỉ trong lập pháp về chế định pháp luật lao động cũng như những thay đổi
tiến bộ, phù hợp với xã hội mới.
5.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà nước về quản lý nhà
nước về chính sách thuế.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng đồng bộ các phương pháp tổng hợp, thống
kê, so sánh, phân tích. Lý luận kết hợp với thực tiễn để nghiên cứu, gắn nghiên cứu lý

luận với tổng kết thực tiễn, bám sát quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước.
Đồng thời tham khảo có chọn lọc, kế thừa các công trình khoa học đã công bố của các tác
giả có liên quan đến đề tài.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.


Ngoài Lời nói đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài nghiên cứu gồm có 03 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản điều chỉnh chính sách thuế
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh chính sách thuế
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh chính sách thuế


CHƯƠNG I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
1.1 Một số vấn đề cơ bản về pháp luật về thuế thuế
1.1.1 Khái niệm về thuế
Thuế là hiện tượng tất yếu xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế xã hội.
Sự phát triển của thuế gắn với lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết
nguồn thu kinh tế. Khái niệm về thuế đã được nghiên cứu và đưa ra bởi nhiều quá trình
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau do nhiều nhà khoa học, luật học được ra. Cụ
thể, theo đánh giá của mình, Các Mác viết: “thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước,
là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào
việc chi tiêu của nhà nước”.Trong sự đánh giá của mình, Các Mác chỉ ra tính bắt buộc
trong nghĩa vụ nộp thuế của các nhân đối với nhà nước đồng thời chỉ ra tầm quan trọng
của nguồn thu thứ đối với ngân sách và việc chi tiêu quốc gia. Bằng khái niệm này, thuế
được tập chung nghiên cứu dưới góc độ hình thái nhà nước thu tiền phục vụ chi tiêu.
Dưới góc độ kinh tế, trong cuốn sách Đại từ điển kinh tế thị trường của viên nghiên
cứu và phổ biến tri thức bách khoa cho rằng: “thuế là một hình thức phân phối thu nhập
tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị,
tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn

lại”. Với khái niệm này, vai trò của nguồn thu thuế được nêu bật đó là việc phân phối thu
nhập cưỡng chế gắn chặt nhà nước với người nộp thuế. Tính bắt buộc của các sắc thuế và
mục đích sử dụng nguồn thu thuế không chỉ dừng lại ở việc chi tiêu cho nhà nước mà còn
hướng tới cân bằng thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, khái niệm này có phần thiên vị
dưới cái nhìn của một nhà kinh tế đồng thời việc quản lý nhà nước cũng chưa thể hiện rõ.
Dưới góc độ luật học, các luật gia cũng chỉ ra rằng: “thuế là một trật tự đã được thiết
lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu,
nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay
vùng lãnh thổ”- theo quy định về thuế ở nước Úc.
Dù có nhiều cách định nghĩa như vậy nhưng nhìn chung ta có thể thấy: thuế là một
khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với
Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang
tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một
hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn
liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
1.1.2 Đặc điểm của thuế.
Với mục đích và cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu sẽ đưa cho mình khái
niệm khác nhau về thuế. Tuy nhiên, thuế bao giờ cũng mang những đặc tính nhất định
giúp ta nhận diện thuế. Việc nghiên cứu đặc điểm thuế giúp các nhà làm luật điều chỉnh
thuế một cách phù hợp mặt khác giúp các đối tượng khác nhau thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ trách nhiệm của mình đúng trách nhiệm và quyền hạn.


Thứ nhất, thuế là khoản thu mang tính chất bắt buộc nộp vào ngân sách nhà nước.
Nghĩa là khi có đủ điều kiện theo luật định người nộp thuế phải nộp tiền hay tài sản vào
ngân sách nhà nước dù không có nghĩa vụ thanh toán như hợp đồng kinh tế, dân sự hay
ngoài hợp đồng. Đối với cơ quan thuế cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện thu thuế mà phải áp dụng theo đúng quy định của pháp luật. Đây cũng là
đặc điểm nhằm phân biệt thuế với các khoản nộp tự nguyện nộp vào ngân sách nhà nước.
Đồng thời cũng là quy định nhằm có các quy định thu thuế và xây dựng luật thuế phù hợp

tránh thất thoát thuế. Thêm vào đó, do tính không hoàn trả của các khoản thuế hay nói
cách khác thông thường khi bỏ tiền ra mọi người luôn hướng tới thu lại lợi nhuận nhưng
khi nộp thuế người nộp thuế sẽ không được hoàn lại số tiền đã nộp và không được trả bất
cứ khoản lợi tức nào một cách trực tiếp. Chính vì vậy, đa phần thuế sẽ không được tự
nguyện nộp vào ngân sách nhà nước mà phải có tính bắt buộc, cưỡng chế.
Thứ hai, thuế gắn với tính chất quyền lực. Thuế xuất hiện cùng với chiều dài lịch sử
của nhà nước chính vì vậy, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình nhà nước cần có
nguồn thu. Các nhà kinh tế chính trị pháp luật đều thống nhất cho rằng thuế chính là biện
pháp can thiệp điều tiết của nhà nước vào nền kinh tế. Bằng quyền lực của mình nhà
nước tạo cho thuế tính bắt buộc, tính cố định và tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ khi
có quyền lực việc thu thuế mới đảm bảo đúng đầy đủ vào theo luật. Để hiện thực hóa và
mang tính chất quyền lực rõ nét nhất tất cả các quốc gia bất kể phát triển hay đang phát
triển đều quy định các sắc thuế trong các văn bản do bộ máy đứng đầu nhà nước ban
hành nhằm có giúp chính sách thuế có hiệu lực cao nhất. Đồng thời giám tiếp đảm bảo
tính ổn định thu nhập của Ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Không giống như tiêu
dùng hay trao đổi thông thường, dù không nhận được lợi ích, quyền lợi nào từ phía nhà
nước nhưng các đối tượng khi đủ điều kiện vẫn phải tham gia nộp thuế đúng quy định.
Các lợi ích công cộng được nhà nước dùng ngân sách để chi tiêu không nhất thiết phải
phục vụ cho tất cả cá đối tượng đã nộp thuế. Điều này giúp phân biệt với lệ phí và phí,
đối tượng được nhận lợi trực tiếp từ phía nhà nước khi tham gia. Thuế xuất hiện do như
cầu chi tiêu của nhà nước và các chủ thể quản lý xã hội. Thuế sử dụng chủ yếu vào mục
đích công điều đó giải thích vì sao thuế không có tính chất hoàn trả nhưng các chủ thể
gián tiếp là người hưởng lợi khi hưởng một nền hòa bình, một môi trường sống an toàn,
được chăm sóc sức khỏe và giáo dục tốt, chế độ phúc lợi đảm bảo…
1.1.3 Phân loại thuế.
Nghiên cứu thuế không chỉ có ý nghĩa học thuật mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan
trọng. Hệ thống thuế quốc gia do nhiều loại thuế hợp thành, mỗi loại có đặc điểm và chức
năng riêng. Khi phân tích và cân nhắc theo tiêu chí nhất định thì một số loại thuế có đặc
điểm, chức năng tương tự. Dựa vào đó, các nhà lập pháp có thể phân loại để dễ dàng



quản lý và sử dụng chính sách thuế. Theo mục đích điều tiết, thuế gồm có hai loại là thuế
trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu bao gồm thuế thu nhập gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu
nhập cá nhân đánh vào của cải của đối tượng lao động có mức thu nhập nhất định và
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Chúng gọi là thuế trực thu vì
người chịu thuế chính là người có nghĩa vụ nộp thuế. Khi đó, người nộp thuế không thể
chuyển rời nghĩa vụ mình phải chịu cho người khác trước nhà nước và pháp luật. Thuế
trực thu đảm bảo tính công bằng khi xác định được đối tượng phải chịu thuế nhằm điều
tiết giá trị thặng dư của chủ thể chịu thế giúp giảm chênh lệch giàu nghèo và đảm bảo
chắc chắn nghĩa vụ nộp tiền của người chịu thuế.
Thuế gián thu bao gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế sản xuất và bán hàng. Thuế gián thu
là các loại thuế đánh vào người tiêu dùng cuối cùng các sản phẩm hàng hóa. Người chịu
thuế là khách hàng tuy nhiên người nộp thuế lại là các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu. Thuế
gián thu giúp hạn chế sự phản ứng từ đối tượng chịu thuế nhưng không tạo ra sự bình
đẳng trong sự điều tiết thu nhập với các đối tượng chịu thuế.
Ngoài ra còn có cách phân loại dựa vào đối tượng tính thuế có thuế đánh vào tài sản,
thuế đánh vào thu nhập và thuế tiêu dùng. Tùy mục đích mà nhà nghiên cứu có thể phân
loại thuế dựa trên các tiêu chí khác nhau để kịp thời tiếp cận phản ánh.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật.
1.2.1 Cơ sở ban hành
Pháp luật thuế phải được xây dựng dựa vào những tiêu chuẩn nhất định và điều chỉnh
tổng thể các loại thuế khác nhau nhưng có mối liên hệ với nhau. Yêu cầu đặt ra cho luật
thuế là đảm bảo tính trung lập của thuế, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, cân
đối ngân sách và đảm bảo sự chấp thuận từ phía người nộp thuế. Những yêu cầu này giúp
có được nguồn thu vật chất phục vụ chức năng nhà nước vào ngân sách và không có tình
trạng chống lại các chính sách thuế mới. Luật thuế số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế được quốc hội khóa XIII thông qua ngày 26/11/2014 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 ra đời sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một loạt chính

sách thuế.
Luật Thuế TNCN đã thay thế Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Đây là một đạo luật được ban hành tại Việt Nam và được áp dụng các quy định tiên tiến
về phương pháp tính thuế, cơ chế quản lý thuế; chú trọng kiểm tra, kiểm soát thu nhập và
điều tiết, phân phối lại thu nhập; thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư; quy định mới về giảm trừ gia cảnh, giảm trừ một số phụ cấp, trợ cấp, các
khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo trước khi tính thuế...
Ngày 10/05/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế TNDN (có hiệu lực từ
ngày 01/01/1999) thay thế cho Luật Thuế lợi tức. Để khắc phục một số nhược điểm của
Luật Thuế TNDN 1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế TNDN 2003 vào ngày


17/06/2003, có hiệu lực vào ngày 01/01/2004 bao gồm 8 chương với 32 điều. Đến năm
2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế TNDN mới thay thế Luật Thế TNDN 2003 (có
hiệu lực vào ngày 01/01/2009) gồm 4 chương với 20 điều. Và đến năm 2013, nhằm đáp
ứng tình hình phát triển của đất nước và khắc phục một số thiếu sót trong luật thuế
TNDN 2008, Quốc hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung luật thuế TNDN 2013, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2014, thể hiện một bước tiến mới trong cải cách pháp luật thuế với
những thay đổi căn bản và quan trọng.
Ngày 05-07-1993,theo quyết định số 486TC/QĐ/BTC của Bộ tài chính,thực hiện thí
điểm thuế GTGT ở một số doanh nghiệp quốc doanh thuộc các ngành có quá trình
chuyển từ sản xuất đến tiêu dùng thường xuyên phải trải qua nhiều công đoạn. Có tất cả
11 doanh nghiệp đăng kí và thực hiện thí điểm.Tiếp theo,Nhà nước liên tục thực hiện cải
cách thuế bước 1(1990-1996) và cải cải cách thuế bước 2. Sau một thời gian tổ chức triển
khai thực hiện luật thuế GTGT,tại kỳ họp Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 dự thảo luật
thuế GTGT đã được thông qua. Đến ngày 31-12-1998 (trước ngày luật thuế GTGT có
hiệu lực thi hành) về cơ bản đã có đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế này.
Ngày 1-1-1999, luật thuế GTGT chính thức được áp dụng trên toàn quốc theo Nghị định
số18/1998/NĐ-CP ngày 11-5-98 và thông tư số 89/1998/TT-BTC. Gần đây nhất quốc hội
ban hành luật thuế GTGT số 31/2013/QH13. Việc ban hành Luật sửa đổi bổ sung luật

Thuế TNDN mới này đã góp phần củng cố chính sách về thuế của nước ta nhằm đáp ứng
nhu cầu hội nhập và phát triển hiện nay.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh
Khóa luận chỉ đi sâu tìm hiểu đề tài về những chính sách thuế được áp dụng phổ biến
trong công ty TNHH thương mại và chế biến thực phẩm xanh TH cụ thể là vướng mắc
tồn tại trong luật thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân, thuế GTGT như về thuế suất thuế
TNDN, tỷ lệ chịu thuế TNCN.. mà không đi sâu tìm hiểu tất cả các sắc thuế được nhà
nước ta ban hành quy định doanh nghệp phải áp dụng. Nhằm có cái nhìn đa chiều sâu sắc
về chính sách thuế nhằm vận dụng tốt nhất các sắc thuế mà các doanh nghiệp vẫn kê
khai, hướng tới xóa bỏ những khó khăn gặp phải với việc thay đổi thường xuyên, liên tục
các quy định về thuế. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế -xã hội để phát
huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế tối đa những nhược điểm của
chúng. Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ
như: Kế hoạch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính tiền tệ… Thuế là một công cụ
quan trọng trong chính sách tài chính, thuế được nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò
quản lý vĩ mô kinh tế xã hội. Việc nghiên cứu chính sách thuế, đặc biệt là các chính sách
thuế được áp dụng trong doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Đối với doanh
nghiệp là người thực thi các luật thuế, mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh có thể liên quan
đến một hoặc nhiều sắc thuế. Hơn nữa, một điểm rất cơ bản để xem xét ảnh hưởng của
thuế tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là chính sách, thủ tục thuế được áp dụng


và bộ hóa đơn, chứng từ kèm theo. Việc có những chính sách thuế chưa đồng nhất, cách
hiểu về những quy định thuế hiện tại ở một số địa phương cũng khác nhau, do vậy nghiên
cứu chính sách thuế giúp doanh nghiệp vận dụng giải thích và thống nhất quan điểm xử
lý với cơ quan thuế một cách hài hòa, đảm bảo doanh nghiệp thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ
của mình, mà không ảnh hưởng đến lợi ích mà doanh nghiệp được hưởng. Đối với thủ tục
hành chính về thuế, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn khi chưa nắm rõ các quy định liên
quan và mất thêm thời gian khi phải hoàn chỉnh hồ sơ, kê khai thông tin theo yêu cầu.
1.3.Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh

Thuế liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân trong một đất nước và bộ máy
nhà nước. Việc đưa ra yêu cầu, nguyên tắc điều chỉnh đối với thuế có vai trò quyết định
trong việc vận hành hệ thống thuế quốc gia. Thuế mang tính chất không đối giá và không
hoàn lại, lợi ích người nộp thuế là lợi ích gián tiếp khi sử dụng các tiện ích công cộng. Vì
vậy, khi đề ra các quy định nộp thuế nhà nước cần có các nguyên tắc nhất định đảm bảo
cả người nộp thuế và nhà nước có thể chấp nhận được. Điều này giúp giảm tỷ lệ trống
thuế hoặc chống lại các sắc thuế trong quá trình tham gia nộp thuế theo quy định của
doanh nghiệp. Cụ thể các đối tượng của luật thuế phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản
như sau:
Thứ nhất, đánh thuế phải đảm bảo công bằng, bình đẳng. Nguyên tắc này được hiểu
là mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên
quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau. Ở đây là công bằng theo
khả năng nộp thuế chứ không phải theo mức thụ hưởng. Công bằng theo khả năng nộp
thuế có nghĩa là số thuế phải tỉ lệ với thu nhập. Như vậy thu nhập cao thì nộp nhiều, thu
nhập thấp thì nộp ít và thu nhập chưa vượt qua ngưỡng thì tạm thời chưa nộp. Sử dụng
nguyên tắc này trong thực tiễn, chính phủ buộc người có thu nhập càng cao càng phải hy
sinh mức hữu dụng từ thu nhập theo một tỷ lệ nhiều hơn. Tính công bằng vẫn được đảm
bảo trong cả trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, thể hiện ở việc nếu có điều kiện
khác nhau thì những đối tượng khác nhau nhưng cùng loại thì phải được đối xử với nhau
tương ứng. Các đối tượng có điều kiện như nhau phải nộp những loại thuế giống nhau và
những đối tượng khi có đủ điều kiện để được khuyến khích, ưu đãi về thuế cũng được
hưởng sự đối xử tương ứng. Nguyên tắc bình đẳng đòi hỏi địa vị thuế của mỗi chủ thể
phải ngang nhau hoặc mỗi đối tượng nộp thuế phải được đối xử không thiên vị. Đóng
thuế là trách nhiệm công dân, là nghĩa vụ của mọi người bất kể giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp và địa vị xã hội.
Thứ hai, đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế.
Việc đánh thuế vừa phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa phải đảm bảo
người nộp thuế không phải nộp số thuế quá lớn. Nếu tổng số thuế phải trả quá lớn, đời
sống nhân dân lao động không được đảm bảo, nền kinh tế sẽ bị trì trệ một cách gián tiếp;
tình trạng trốn thuế sẽ xảy ra. Còn nếu thuế thu được quá ít sẽ ảnh hưởng đến hoạt động



của Nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Do vậy cần có sự hài hòa giữa
lợi ích nhà nước và người nộp thuế. Cân bằng sao cho không gây phản ứng thuế của
người dân mà Nhà nước vẫn duy trì được hoạt động của mình. Khi ban hành một loại
thuế, không những xem xét nhu càu chi tiêu của Chính phủ mà còn cần tính toán đến khả
năng tài chính của người nộp thuế, cụ thể số thuế phải nộp đó sẽ chiếm bao nhiêu phần
trong thu nhập, doanh thu của người nộp thuế hay mức thuế đưa ra có gây ảnh hưởng quá
lớn đến thu nhập hay không…
Thứ ba, đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả. Nội dung của nguyên tắc này
là các loại thuế phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu cho mọi đối tượng và có tính ổn định đồng
thời hệ thống thuế phải được tổ chức sao cho chi phí quản lí thuế không cao hơn mức mà
mục tiêu đề ra cho phép. Cũng như những văn bản pháp luật khác, văn bản pháp luật về
thuế khi được ban hành cần phải rõ ràng, dễ hiểu để các đối tượng có liên quan dễ dàng
thực hiện, nhất là việc quy định về các loại thuế và cách tính thuế. Đồng thời, khi ban
hành một loại thuế cũng cần phải cân nhắc và tính toán đến mối tương quan giữa tổng thu
dự tính đạt được và chi phí dự tính chi trả cho việc thu và quản lí thuế. Tránh không được
để xảy ra việc mức phí bỏ ra cho hoạt động thu một loại thuế nào đấy cao hơn mức thuế
thu được.
Thứ tư, đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải
chịu một loại thuế nhiều lần. Khi ban hành một loại thuế cần tránh tình trạng thuế chồng
lên thuế. Để đảm bảo được nguyên tắc này thì hệ thống pháp luật thuế của một quốc gia
phải xác định những phần của đối tượng tính thuế đã nằm trong diện chịu loại thuế đó ở
giai đoạn trước. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật thuế giữa các quốc gia cũng cần tính tới
khả năng các nhà đầu tư, công dân của quốc gia này nhưng có đối tượng tính thuế ở một
quốc gia khác, để tránh cho việc trùng lặp không xảy ra khi xây dựng hệ thống pháp luật
thuế, cần tham khảo, tìm hiểu về pháp luật thuế ở các quốc gia khác trước khi xây dựng
pháp luật ở nước mình.



CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ CHẾ BIẾN
THỰC PHẨM XANH TH.
2.1Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng.
2.1.1 Tổng quan tình hình
Thuế vừa là một pham trù kinh tế vừa là một phạm trù lịch sử, lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh thuế ra đời là một tất yếu khách quan. Để duy trì sự tồn tại đồng
thời thực hiện các chứng năng nhà nước phải có nguồn vật chất để chi tiêu. Vì lẽ đó, bằng
quyền lực chính trị, nhà nước thu một phần của cải vật chất trong xã hội. Quan hệ thu nộp
nguồn vật chất này hình thành nên thuế. Điều này cho thấy ban đầu thuế xuất hiện dưới
hình thức biểu hiện đơn giản. Sự phát triển của nhà nước kéo theo sự phát triển của thuế
như cống nạp, phục dịch yêu cầu dân chúng có thể sử dụng sức lao động hoặc nộp tài sản
vào ngân sách nhà nước. Sự xuất hiện của tiền làm giảm nhẹ sự khó khăn khi nộp thuế. Ở
Việt Nam, thuế xuất hiện thời kỳ đầu chế độ phong kiến để tập trung ngân quỹ cho nhà
vua và chủ yếu dưới dạng cống vật. Tuy nhiên đến năm 1013 việc đánh thuế vào đời vua
Lý Thái Tổ mới có tổ chức và hệ thống. Đến thế ký thứ XVI, việc thu thuế mới cơ bản ổn
định với nhiều loại thuế như thuế mỏ, thuế muối, thuế chợ… Trong thời vua Lý, Trần, Lê
sơ, các chính sách thuế quy định hợp lòng dân và phù hợp với chuẩn mực đạo đức và
pháp lý. Bên cạnh đó, các triều đại phong kiến đều thực thi các chính sách thuế chưa thực
thi được yêu cầu và lợi ích của nhân dân. Trong thời kỳ pháp thuộc, nhiều loại thuế vô lý
ra đời nhằm vơ vét bóc lột của cải của nhân dân lao động một cách trắng trợn dẫn đến
nghèo đói kham khổ và uất ức trong quần chúng. Cùng với sự phát triển của lịch sử hệ
thống chính sách thuế không ngừng hoàn thiện và ổn định tiến kịp bước phát triển không
ngừng của nền kinh tế xã hội đổi mới và hội nhập.
Giai đoạn 1945-1955:Trong những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, trước yêu cầu chi cho nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và ổn định đời sống nhân dân,
nhà nước quyết định xoá bỏ những chính sách nô dịch của chế độ thực dân phong kiến
khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất. Đồng thời xây dựng hệ thống chính sách thuế
mới phù hợp.
Giai đoạn 1956-1975: Chính phủ ban hành một hệ thống thuế hoàn chỉnh và áp dụng

thống nhất trên toàn miền Bắc gồm có thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật và 12 loại thuế
thu bằng tiền như: thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức, thuế buôn chuyến, thuế hàng hóa, thuế
sát sinh, thuế kinh doanh nghệ thuật... Nguồn thu từ khu vực quốc doanh, tập thể và cá
thể góp phần động viên cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện
cho miền Nam. Giai đoạn này phải kể đến các nguồn thu từ ngoài nước như: viện trợ và
vay nước ngoài.
Giai đoạn 1976-1989: Ngành Thuế đã tham mưu sửa đổi, cải tiến chính sách động viên
và tạo nguồn thu trong nước, kết hợp với tranh thủ nguồn vốn nước ngoài dưới hình thức
viện trợ, vay nợ, góp phần đóng góp cho Ngân sách nhà nước có số thu ngày càng tăng.
Giai đoạn 1990- 2000 là thời kỳ cải cách thuế bước đầu. Hệ thống thuế cả nước tổ
chức theo một hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương, trên cơ sở hợp nhất ba tổ
chức: Thuế Nông nghiệp; Thuế Công thương nghiệp và Thu Quốc doanh thành một đầu


mối thống nhất là Tổng cục Thuế, chính thức đi vào hoạt động từ 01/10/1990 Nghị định
281/HĐBT ngày 07/08/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, nay là Chính phủ. Đa phần các sắc
thuế đã được nâng lên thành luật như: Luật thuế Sử dụng đất nông nghiệp, Luật thuế
Doanh thu, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt... Từ
01/01/1999 lần đầu tiên Việt Nam đưa Luật thuế Giá trị gia tăng vào áp dụng thay cho
Thuế doanh thu tồn tại mấy chục năm, đánh dấu một bước cải cách lớn về thuế ở Việt
Nam.
Giai đoạn 2001-2015 là thời kỳ cải cách thuế bước hai. Giai đoạn này được chia ra hai
thời kỳ: thời kỳ từ 2001-2010 thực hiện cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế. Luật Quản lý thuế ra đời và có
hiệu lực từ 01/07/2007 đánh dấu một bước cải cách toàn diện về quản lý thuế theo hướng
hiện đại, minh bạch, giảm chi phí tuân thủ cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế.
2.1.2 Nhân tố ảnh hưởng
Về kinh tế: Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế
(sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân loại, cơ chế thị trường
thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích

tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản
xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất. Bên cạnh những ưu điểm đó,
cơ chế thị trường có nhược điểm là gây cho xã hội những lãng phí về lao động, tài
nguyên, vốn dẫn đến độc quyền thủ tiêu cạnh tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trường
thường khoét sâu hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, tạo sự bất ổn định về
kinh tế xã hội. Từ những ưu, nhược điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước
vào quá trình kinh tế -xã hội để phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn
chế tối đa những nhược điểm của chúng. Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội,
Nhà nước sử dụng nhiều công cụ như: Kế hoạch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính
tiền tệ..vv. Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng
nhất và Thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế được nhà
nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội. Có thể thấy rõ vai trò của
Thuế nổi bật ở các mặt sau:
Thứ nhất, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước: Một nền tài chính quốc
gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các
hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu
khác..vv. Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc
bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này
mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng
tăng. Ở nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ
năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong tổng thu ngân sách. Số thu
thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu trong tổng thu NSNN và tăng nhanh qua các năm, đã
bảo đảm về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi
ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, giành một phần để
tăng chi cho tích luỹ. Như vậy, chứng tỏ thuế là nguồn thu quan trọng nhất của NSNN.


Thứ hai, thuế là một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà
nước: Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân

sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm
soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với
tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích
cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Ngày nay,
hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm của mọi
chính phủ. Sự thành công hay thất bại của việc quản lý Nhà nước, nền kinh tế là giải
quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta
thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi.
Bốn mục tiêu đó là: Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý, tạo được
công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động, ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát và
thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ ba, thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm: Để thực hiện các
mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước sử dụng là chính sách
thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồm hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử
dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động
vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế
thị trường. Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng
đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng. Bằng
việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất ra để khuyến khích
tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất. Việc giảm thế đánh vào tiêu dùng
nhằm khuyến khích tiêu dùng. Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không
đưa vào đầu tư, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về
tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, đến
việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định
hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo
ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm
giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy
ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ
lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát ở

mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu nỗ lực của
mọi chính phủ nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về mức ổn định.
Về chính trị: Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm
bảo công bằng xã hội: Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân
hoá này có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần
phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm
lành mạnh xã hội. Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và
người nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế
thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu
nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác


của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng:
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc
giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm
bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một
bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để
điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm
giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của
đất nước.
Thuế là công cụ giúp nhà nước kiềm chế lạm phát điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế:
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên hoặc do
chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị
trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế
đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều
khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm
bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển
kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm
thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh tế thế

giới: Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên
ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông
qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất
hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất
khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu
thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản
xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã
sản xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ. Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang
phát triển mạnh mẽ ở trong khu vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế,
tính thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa
một số quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Đồng thời, thuế đảm bảo nguồn ngân sách để duy trì đầu tư công, đảm bảo an toàn xã
hội, an ninh quốc phòng đồng thời thuế chi trả cho hệ thống quản lý bộ máy nhà nước.
Nhiệm vụ thiết yếu của nhà nước và xây dựng xã hội ổn định nâng cao đời sống cho nhân
dân, giảm tỷ lệ đói nghèo và xây dựng các công trình công cộng cũng như đầu tư hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội. Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống quân đội đảm bảo an
ninh dựa trên ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị cũng
như việc chăm lo cho giáo dục đa phần đều được trích từ thuế bởi vậy, muốn đất nước
phát triển ổn định ngân sách nhà nước phải luôn được đảm bảo. Vì thế, nguồn thuế thu
được chính làm nguồn gốc cho sự phát triển ổn định của đất nước.
Về văn hóa, xã hội: Bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều có hệ thống pháp luật để
điều chỉnh. Hệ thống pháp luật khác nhau sẽ ảnh hưởng và hình thành văn hóa khác nhau
trong mỗi xã hội. Pháp luật nói chung và luật thuế nói riêng luôn có một hệ thống pháp
chế đảm bảo thi hành nhưng hoạt động của các cơ quan công quyền nếu không có văn


hóa, không tôn trọng pháp luật thì hành động đó không đúng. Bên cạnh đó, nếu chủ thể
quyền lực pháp luật thuế có ý thức thực thi pháp luật, có văn hóa nhưng các chủ thể liên
quan như doanh nghiệp, cá nhân không có văn hóa, không tuân thủ pháp luật và luật thuế
thì sẽ có các hành vi trốn thuế, chống thuế để có lợi nhuận cao hơn. Những hành vi này

làm ảnh hưởng đến xã hội nói chung cũng như lợi ích chung của cả cộng đồng. Văn hóa
bắt nguồn từ việc giáo dục, các chủ thể quyền lực có nghĩa vụ ban hành luật thuế, thực thi
luật thuế giáo dục và khuyến khích các cá nhân tổ chức thực hiện pháp luật đúng quy
định. Mối quan hệ giữa luật thuế cũng như pháp luật nói chung có liên hệ chặt chẽ với
văn hóa, đảm bảo xây dựng xã hội văn minh.
2.2 Thực trạng các quy định quy phạm pháp luật điều chỉnh chính sách thuế
2.2.1 Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
Bên cạnh những kết quả đạt được của Luật thuế TNDN hiện hành, trước yêu cầu cải
cách thuế một số tồn tại chính của Luật thuế TNDN hiện hành như sau:
Thứ nhất: Bất cập ở mức thuế suất theo Luật thuế TNDN hiện nay là 20%. Đây là
mức thuế suất trung bình so với khu vực, tuy nhiên mức thuế suất này vẫn còn khá cao so
với một số nước, vùng lãnh thổ. Điều này sẽ là một trong những rào cản để các doanh
nghiệp thực hiện tích tụ vốn và tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Áp dụng thuế
suất 20% với doanh nghiệp dưới 200 lao động làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu
dưới 20 tỷ đồng/năm. Theo tính toán của Bộ Tài chính, số thu giảm do điều chỉnh thuế
suất thuế TNDN năm 2014 khoảng 14 nghìn tỷ đồng trong ngắn hạn. Tuy nhiên thuế suất
có giảm nhưng vẫn giữ được mức động viên ngân sách. Một thực tế các chuyên gia kinh
tế chỉ ra rằng, cần phải có lộ trình giảm thuế suất TNDN xuống nhằm tăng sức cạnh tranh
cho DN. “Theo bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
Chính phủ: Nhìn vào luật thì tưởng chừng đơn giản, nhưng tại các văn bản hướng dẫn thì
vô vàn các văn bản là thông tư, công văn hướng dẫn. Theo luật thuế TNDN số
14/2008/QH12 ban hành ngày 03/06/2016 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009 về mặt
chính thức mức thuế suất thuế TNDN của Việt Nam khi đó là 25%, nhưng thực tế số tiền
thuế mà hầu hết DN phải nộp là trên 25%, thậm chí lên 30% đối với một số lĩnh vực”.
Nhìn ra các nước trên thế giới, hầu hết các nước châu Âu đã giảm thuế suất bình quân
từ 33% năm 2000 xuống 25% năm 2011, riêng lĩnh vực phi tài chính thì thuế suất chỉ là
21%. Gần đây, nhiều nước và lãnh thổ trong khu vực đang có kế hoạch giảm mạnh thuế
suất thuế TNDN xuống hơn nữa. Tại châu Á, Singapore chỉ còn 17%, Đài Loan hiện có
mức thuế 20%... Không bàn thuế suất cao hay thấp nếu chúng ta cứ mong giảm thuế hay
lãi suất rẻ, mà không cấp thiết cải tiến năng suất thì nền kinh tế Việt Nam cũng chẳng bền

vững lâu dài. Riêng về kinh tế thì ai cũng có thể hiểu rằng sản lượng kinh tế chỉ tăng khi
thêm người sản suất, đó là động lực về dân số tham gia lao động. Sản lượng chỉ có thể
tăng, nếu mỗi người lao động đạt hiệu năng cao hơn, nói “nôm na” là cùng một sức lao
động sản xuất ra nhiều của cải hơn, người ta gọi đó là năng suất. Tức là sau dân số thì còn
có dân trí, trình độ nhân công tay nghề cao hơn để làm sao thoát được cái bẫy nhân công
rẻ, làm gia công, chiếm dụng nhiều tài nguyên hiệu năng không cao. Đây mới là điểm


yếu mà nền kinh tế Việt Nam đang gặp phải. Đi sâu phân tích bản chất vấn đề, các
chuyên gia kinh tế đều nhận định đa phần các DN ở Việt Nam do mới hình thành nên đa
phần nhỏ bé, yếu ớt. Chính vì vậy, đa phần DN thiếu kinh nghiệm, thiếu công cụ sản
xuất hiện đại, đặc biệt thiếu vốn nên chỉ cần những biến động của thị trường là nhanh
chóng suy sụp, nguyên nhân cũng chỉ vì vốn là chính. Do vậy, khi thuế TNDN ở mức
20%, gần 1/3 lợi nhuận thu được của DN cộng với lãi suất ngân hàng cao khiến DN kêu
la là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một thực tế dù có hạ thuế suất bao
nhiêu, lãi suất có ưu đãi thế nào nhưng nếu không đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất
lao động thì DN Việt Nam mãi mãi gắn chặt với công nghệ “bắt vít”, làm thuê. Chính vì
vậy nhà nước cần đưa ra các quy định pháp lý phù hợp bên cạnh việc điều chỉnh thuế suất
thuế TNDN.
Thứ hai: Luật thuế TNDN hiện hành quy định về một số khoản chi cụ thể chưa hợp
lý, chẳng hạn: quy định về phần giá trị hàng hóa tổn thất; các khoản chi khấu hao tài sản
cố định; khoản chi nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa; khoản chi là
tiền lương, tiền công và các khoản phải trả cho người lao động, phần chi quảng cáo, tiếp
thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới... Đây là các khoản chi mà nhà nước cần đưa ra mức
giới hạn cụ thể phần trăm hợp lý trong tổng số chi phí doanh nghiệp bỏ ra nhằm tránh cho
việc lợi dụng thu thập chi phí này để trốn thuế. Nhiều doanh nghiệp tìm cách trốn thuế
TNDN bằng việc đưa ra một loạt các khoản chi để giảm số thuế phải nộp như: chi ma
chay hiếu hỉ, chi hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ gia đình nhân viên bị thiên tai bệnh tật, hỗ trợ
công tác, nghỉ mát, hỗ trợ người lao động trong học tập nâng cao tay nghề... Trong khi
thực tế các khoản chi này không có thật trong doanh nghiệp.

Thứ ba: Một trong những bất cập của pháp luật thuế TNDN hiện hành là liệt kê các tài
sản cố định hiện hữu được để xác định trích khấu hao tính vào chi phí được trừ khi xác
định thu nhập chịu thuế. Ngoài ra, hạn chế của Luật thuế TNDN hiện hành là chưa có
quy định cụ thể nào về việc xác định doanh thu, chi phí làm căn cứ cho thu nhập chịu
thuế của các hình thức kinh doanh như: bán hàng đa cấp, bán hàng qua mạng. Việc xác
định thu nhập chịu thuế và thu nhập được ưu đãi thuế theo quy định của Luật thuế TNDN
hiện hành là chưa hợp lý khi toàn bộ các khoản thu nhập khác đều không được ưu đãi
thuế (trong đó có nhiều khoản thu nhập khác liên quan đến hoạt động kinh doanh được
ưu đãi thuế) là bất hợp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
2.2.2 Đối với thuế thu nhập cá nhân


Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 26-11-2014 và có hiệu lực thi hành từ 1-1-2015, theo quy định
của luật này thì kể từ 1/1/2015, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm
(tương đương với 8,33 triệu đồng/tháng) trở lên phải đóng thuế TNCN. Và quy định này
không nhận được sự đồng thuận của một bộ phận cá nhân đang tham gia kinh doanh. Bởi
vì theo Luật thuế TNCN, cá nhân kinh doanh chỉ phải nộp thuế TNCN đối với phần thu
nhập còn lại được xác định bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý liên quan đến
việc tạo ra thu nhập sau khi đã trừ đi các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải
tham gia bảo hiểm bắt buộc, quỹ hưu trí tự nguyện, giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế
9 triệu đồng/tháng và giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc 3,6 triệu đồng/tháng. Với chính
sách này, trong số hơn 3 triệu hộ kinh doanh hiện chỉ có khoảng 200.000 người phải nộp
thuế TNCN. Nhưng với chính sách mới, kể từ 1/1/2015, dù có kinh doanh thua lỗ, thậm
chí chi phí bỏ ra để kinh doanh như chi trả tiền thuê nhà, điện, nước, điện thoại, tiền
lương nhân công... lớn hơn cả doanh thu, thì mỗi năm cá nhân kinh doanh đều phải nộp
thuế TNCN tối thiểu là 500.000 đồng; 1 triệu đồng; 1,5 triệu đồng; 2 triệu đồng hoặc 5
triệu đồng tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh. Và chính sách này rõ ràng là bất hợp lý vì
quay lại chính sách thuế doanh thu đã bị bãi bỏ từ năm 1995 do quá lạc hậu. Ngoài ra,

chính sách thuế mới không khuyến khích cá nhân tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh
doanh; tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người nộp thuế TNCN do cá nhân kinh doanh
không được giảm trừ gia cảnh như đối với cá nhân có thu nhập thường xuyên từ tiền
lương, tiền công...
Thêm vào đó, vòng luẩn quẩn khiến nước ta thường xuyên phải sửa luật đó là quy định
các căn cứ, định mức chịu thuế quá cứng, không thể điều chỉnh tự động theo nền kinh tế
và đời sống xã hội, thay vì quy định dựa theo chỉ số giá tiêu dùng CPI hoặc mức lương
tối thiểu, thì chúng ta vẫn xác định một con số cụ thể. Giải thích rằng nhiều nước quy
định như vậy, nhưng chúng ta lại không xét đến hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Vấn đề
này nhiều chuyên gia kinh tế đã có ý kiến, đã khuyến nghị các nhà soạn thảo và làm luật
sử dụng, nhưng dường như chưa được xem xét thỏa đáng. Giải pháp khoa học và tiện lợi
nhất là quy định theo mức lương tối thiểu đây là việc dễ thực hiện, phù hợp nhất với giá
trị của thu nhập đối với đời sống của người nộp thuế, và chúng ta cũng đang hướng tới
thống nhất về một mức lương tối thiểu chung cho cả khu vực nhà nước và doanh nghiệp.
2.2.3 Đối với thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là một trong những loại thuế quan trọng nhất trong hệ thống pháp
luật thuế của nước ta. Vì đây là loại thuế có đối tượng chịu thuế rất rộng, bao quát hầu hết
các loại hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, lưu thông và tiêu dùng phổ biến trong xã hội
nên những quy định luật pháp liên quan đến loại thuế này, khi sửa đổi, bao giờ cũng thu
hút sự chú ý lớn. Những quy định mới nhất của pháp luật thuế giá trị gia tăng đã đáp ứng
được tương đối những yêu cầu sửa đổi mà thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên, để thực hiện đúng yêu cầu sửa đổi, cải cách thuế, đáp ứng những mục tiêu
cho giai đoạn 2016 – 2020, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp để tăng hiệu


quả quản lý thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, còn có một số vấn đề mà các quy định của
pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện hành chưa rõ, chưa phù hợp với thực tiễn cụ thể:
Thứ nhất, bất cập trong quy định về dịch vụ xuất khẩu. Quy định tại khoản 1, điều 8,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế giá trị gia tăng năm 2013 và trong văn
bản mới Luật thuế số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế

được quốc hội khóa XIII thông qua ngày 26/11/2014 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2015 ra đời sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một loạt chính sách thuế chỉ định nghĩa
“hàng hóa, dịch xuất khẩu là hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong
khu phi thuế quan; hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định
của Chính phủ”. Như vậy, những khái niệm như “ngoài Việt Nam”, “khách hàng nước
ngoài”chưa được làm rõ. Nếu “khách hàng nước ngoài” đang làm ăn, sinh sống, phát sinh
thu nhập tại Việt Nam thì có được coi là đối tượng mà hoạt động xuất khẩu hướng đến
không? Rõ ràng, điểm đến của dịch vụ và tính chất của đối tượng tiếp nhận là những
điểm rất cần xác định cụ thể, nhưng các quy định của pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện
hành chưa làm rõ. Điều này gây ra sự giải thích không thống nhất giữa các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng pháp luật thuế và gây ra sự khó khăn trong việc tuân thủ đúng pháp
luật của người có nghĩa vụ liên quan đến loại thuế này.
Thứ hai, Luật hiện nay chưa quy định hợp lý về nhóm hàng xuất khẩu bị trả về.
Trường hợp doanh nghiệp chủ động nhập hàng về để tránh rủi ro về thanh toán, về các lỗi
kỹ thuật được phát hiện sau khi đã xuất hàng đi thì có thể thấy, bản chất chính là hàng
tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu, nhưng vì hiện nay chưa được xếp chính thức vào nhóm
hàng này nên thiệt hại đối với loại hình doanh nghiệp này là rất lớn, vì chi phí vận
chuyển hàng 2 chiều, tiền đọng vốn, cộng thêm với thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng mà doanh nghiệp phải nộp ngay khi về tới Việt Nam, nếu không tái xuất lại được thì
rõ ràng, thiệt hại là khó tính toán được.
Thứ ba, trong cơ cấu các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, số lượng các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ tương đối lớn. Những doanh nghiệp kiểu này chịu
ảnh hưởng rất lớn của biến động thị trường, tỷ giá, lãi suất, đặc biệt là các quy định pháp
luật. Pháp luật thuế giá trị gia tăng có vai trò quan trọng hàng đầu trong hệ thống pháp
luật thuế, có tỷ lệ thu lớn trong cơ cấu của ngành thuế, vì tầm “phủ sóng” rất rộng, bao
quát hầu hết các nhóm hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng, sử dụng, lưu thông phổ biến
trong đời sống, nên có vai trò không nhỏ trong việc kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng. Rõ
ràng, thuế suất cao thì đẩy giá hàng tăng lên, hạn chế khả năng tiêu dùng. Dường như,
mức thuế suất 10% hiện nay vẫn là khá cao.
2.2.4 Các hạn chế chung của pháp luật thuế

Quy định về các thủ tục hành chính thuế còn nhiều vướng mặc và bất cập. Cụ thể,
chưa quy định chặt chẽ công tác giám sát quản lý chính nhân viên thuế trong việc thực
hiện công việc tiếp dân, giải quyết công việc thuế của nhân dân. Cụ thể, người thu thuế là
người có quyền, doanh nghiệp phải đi nộp thuế, phải chờ đợi phải thực hiện hàng loạt các
thủ tục rắc rối rườm rà trong một thái độ phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Trong khi đó,


×