Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Hiện trạng nuôi cá lóc đầu nhím ở huyện gò quao tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.48 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG

------

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ NGÀNH: D620301

HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ LÓC ĐẦU NHÍM
Ở HUYỆN GÒ QUAO TỈNH KIÊN GIANG

Sinhviên thực hiện:
THỊ MỸ THU
MSSV: 0953040035
LỚP: NTTS6

Cần Thơ, 2015

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG

------

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ NGÀNH: D620301


HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ LÓC ĐẦU NHÍM Ở
HUYỆN GÒ QUAO TỈNH KIÊN GIANG

Cán bộ hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

PGS.Ts Nguyễn Văn Kiểm

Thị Mỹ Thu
MSSV:0953040035
Lớp: NTTS K6

Cần Thơ, 2015
ii


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin cảm ơn đến gia đình đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi suốt thời học tập và thực hiện tiểu luận trong chương trình học Đại học.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu Trường, Ban Chủ nhiệm khoa Sinh học ứng dụng, đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ và thực hiện đề
tài trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Văn Kiểm - Khoa sinh học ứng dụng đã
tận tình hướng dẫn tôi suốt thời làm tiểu luận.
Chân thành cảm ơn các anh chị, cô chú đang công tác tại Chi cục Thủy sản huyện
Gò Quao cùng quý nông hộ hoạt động sản xuất ở thị Trấn gò quao đã nhiệt tình giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập số liệu, cung cấp những thông tin về mô hình
nuôi cá lóc trong mùng cũng như truyền đạt và chia sẻ những kinh nghiệm quý báu
của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy/Cô giảng dạy trong quá trình tôi học lớp Nuôi
trồng Thủy sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và tận tâm truyền đạt
những kiến thức chuyên môn cho tôi trong suốt thời gian học tập.
Sau cũng tôi xin cảm ơn các thành viên tập thể lớp Nuôi trồng thủy sản K6 đã gắn
bó và giúp đỡ nhau trong suốt thời gian học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành!

iii


TÓM TẮT
Tiểu luận khảo sát “hiện trạng nuôi cá lóc đầu nhím ở huyện Gò Quao tỉnh Kiên
Giang”. Từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 6 năm 2015. Kết quả khảo sát đã thu được.
Qua khảo sát cho thấy nghề nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông đang được phát
triễn mạnh ở thị trấn Gò Quao. Diện tích trung bình mùng nuôi nhỏ nhất là 54m2 và
lớn nhất là 180m2. Mật độ thả là từ 220 - 250 con/m2 với cở giống là từ 6 - 8 cm.
Năng suất dao động từ 7,836 ± 1,894 kg/m2
Lợi nhuận mật độ thả 220 con/m2 có trung bình dao động từ 186,237 ± 57,317 triệu
đồng/vụ và mật độ thả 250 con/m2 trung bình dao động là 263,959 ± 90,5032 triệu
đồng /vụ.
Đề tài đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của mô hình là mật độ
thả nuôi, kinh nghiệm nuôi, lượng thức ăn và kích cỡ thu hoạch. Kết quả phân tích
cho thấy khi tăng mật độ thả nuôi, kinh nghiệm, với mức bình quân hiện nay (các
yếu tố khác không đổi) thì năng suất cũng tăng theo vì có mối tương quan thuận với
năng suất. Ngược lại, năng suất sẽ giảm khi tăng kích cỡ thu hoạch vì kích cỡ thu
hoạch có mối tương quan nghịch với năng suất. Để cải thiện năng suất cũng như lợi
nhuận của mô hình người nuôi cần phải điều chỉnh các hoạt động kỹ thuật theo
hướng thuận lợi nhất. Cụ thể là người nuôi cá lóc nên điều chỉnh nuôi ở mật độ 250
con/m2, các hộ nuôi cá lóc cần sử dụng thức ăn và cách nuôi đúng đúng kỹ thuật để
tránh sử dụng thức ăn dư làm chi phí thức ăn tăng dẫn đến lợi nhuận thấp, kích cỡ cá

nên thu hoạch 30g/con, cần cập nhật chia sẻ kinh nghiệm nhiều hơn giữa các hộ
nuôi ít kinh nghiệm với những hộ nuôi nhiều năm kinh nghiệm.
Từ Khóa: Cá lóc đầu nhím mùng trên sông huyện Gò Quao, năng suất, lợi nhuận
Kiên Giang.

iv


CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết tiểu luận này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của
tôi và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ báo cáo cùng cấp
nào khác.
Cần Thơ, ngày.….tháng.….năm 2015
(Ký tên)

Thị Mỹ Thu

v


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ......................................................................................................... i
TÓM TẮT .............................................................................................................. ii
CAM KẾT KẾT QUẢ .......................................................................................... iii
MỤC LỤC ............................................................................................................. iv
DANH SÁCH HÌNH ............................................................................................. vi
DANH SÁCH BẢNG ........................................................................................... vii
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU .................................................................................... 1
1.1 Giới thiệu ........................................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 1
1.3 Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 1
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ................................................................ 2
2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc ............................................................................. 2
2.1.1 Đặc điểm phân bố của cá lóc ........................................................................... 3
2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng của cá lóc ..................................................................... 3
2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng của cá lóc ..................................................................... 4
2.1.4 Đặc điểm sinh sản của cá lóc........................................................................... 4
2.2 Tình hình nuôi cá lóc ở ĐBSCL ......................................................................... 4
2.3 Sơ lược tổng quan về tỉnh Kiên Giang ............................................................... 5
2.4 Nguồn lợi và nuôi thủy sản ở Kiên Giang ......................................................... 6
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................... 7
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................................................... 7
3.2 Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 7
3.2.1 Phương pháp thu số liệu thứ cấp ..................................................................... 7
3.2.2 Phương pháp thu số liệu sơ cấp ....................................................................... 7
3.3 Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................... 8
3.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu .............................................................. 8
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .......................................................... 9
vi


4.1 Thông tin chung về huyện Gò Quao ................................................................... 9
4.2 Thông tin chung các hộ nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông ......................... 10
4.2.1 Độ tuổi và giới tính của nông hộ tham gia nuôi cá lóc .................................. 10
4.2.2 Trình độ văn hóa của nông hộ tham gia nuôi cá lóc ....................................... 10
4.3 Thông tin về kỹ thuật nuôi cá lóc ..................................................................... 11
4.3.1 Kích thước mùng nuôi và vị trí đặt mùng nuôi .............................................. 11
4.3.2 Nguồn giống và kích cở cá giống thả ............................................................ 12
4.3.3 Mùa vụ thả nuôi và thời thả........................................................................... 13

4.3.4 Mật độ thả, tỷ lệ sống và năng suất cá nuôi .................................................. 13
4.3.5 Chăm sóc và quản lý ..................................................................................... 13
4.3.6 Quản lý mùng nuôi cá ................................................................................... 14
4.4 Một số bệnh cá lóc thường gặp ở nuôi cá ......................................................... 15
4.5 Sơ bộ hạch toán kinh tế .................................................................................... 16
4.5.1 Mức đầu tư cho nghề nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông .......................... 16
4.5.2 Các khoản chi phí trong nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông ...................... 16
4.5.3 Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc đầu nhím ...................................... 16
4.6 Khó khăn và thuận lợi nghê nuôi cá lóc ........................................................... 17
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ SUẤT ............................................................ 19
5.1 Kết luận ........................................................................................................... 19
5.2 Đề suất ............................................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 20
PHỤ LỤC A .......................................................................................................... A
PHỤ LỤC B .......................................................................................................... E

vii


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 4.1 Tuổi và giới tính của nông hộ ................................................................. 10
Bảng 4.2 Trình độ văn hóa và nguồn tiếp nhận thông tin ....................................... 11
Bảng 4.3 Thông tin về kích thước mùng nuôi ........................................................ 12
Bảng 4.4 Nguồn giống và kích cở giống ................................................................ 12
Bảng 4.5 Mật đồ thả, tỷ lệ sống và năng suất cá nuôi ............................................. 13
Bảng 4.6 Các khoảng chi phí trong nuôi cá lóc đầu nhím (đơn vị: đồng/mùng/vụ).16
Bảng 4.7 Chi phí và lợi nhuận vụ nuôi……………………………………………17

viii



DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Hình dạng bên ngoài của cá lóc ................................................................. 2
Hình 4.1 Vị trí địa lý huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang ........................................... 9
Hình 4.5 Tỷ lệ phần trăm xuất hiện bệnh trên cá lóc .............................................. 15

ix


CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Nghề nuôi cá lóc đã có từ khá lâu ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), những năm
gần đây nghề nuôi cá lóc đang phát triển ở tỉnh Kiên Giang là cá lóc bông, nhưng gần
đây ở huyện Gò Quao đã phát triển rộng nghề nuôi cá lóc khác như (đầu nhím, môi
trề/đầu vuông) với nhiều mô hình nuôi khác nhau. Như nuôi ao đất nuôi trong vèo trên
sông và ao nổi,... Các mô hình nuôi đều khai thác cá tạp nước ngọt để sử dụng làm
thức ăn cho cá lóc, nên nuôi cá lóc mang lại lợi nhuận khá thấp. Cá lóc thương phẩm
chủ yếu được bán ra thông qua thương lái và giá cá lóc thường tăng cao vào mùa khô.
Nhiều người nuôi cá lóc nhận thức được rằng việc sử dụng cá tạp có tác động xấu đến
nguồn lợi thủy sản, ảnh hưởng tích cực đến nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên có nhiều
nguồn thức ăn có thể thay thế cá tạp nước ngọt được các hộ nuôi cá lóc đề xuất như cá
biển, ốc bươu vàng, cua đồng hay phụ phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản.
Hiện nay ngành nuôi cá lóc đang phát triển ở huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang. Do vị
trí thuận lợi về sông nước. Tỉnh Kiên Giang có đủ điều kiện để phát triển ngành ngư
nghiệp toàn diện trên cả ba vùng: ngọt, lợ - mặn. Ngoài ra, tỉnh Kiên Giang cũng có
quy hoạch vùng nuôi cá lóc đầu nhím để cung cấp cho các nhà máy chế biến thủy sản
trong tỉnh. Bên cạnh những thuận lợi cho nghề nuôi cá lóc ở Kiên Giang nói riêng thì

còn có những vấn đề khó khăn nên đề tài “Hiện trạng nuôi cá lóc đầu nhím ở Huyện
Gò Quao tỉnh Kiên Giang” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Cung cấp một số thông tin về kỹ thuật và kinh nghiệm nuôi cá lóc ở huyện Gò Quao,
tỉnh Kiên Giang, góp phần làm cơ sở để phát triển nuôi thủy sản của huyện đạt hiệu
quả hơn.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Khảo sát khía cạnh kỹ thuật và kinh tế của mô hình nuôi cá lóc tại huyện Gò Quao tỉnh
Kiên Giang.
Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi.

1


CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc
Cá lóc thuộc
Bộ cá Vược: Percifores
Họ: Ophicephalidae
Giống: Ophicephalus
Loài: Ophicephalus Bloch, 1972

Hình 2.1 Hình dạng bên ngoài của cá lóc
(Nguồn: tự chụp)

Đặc điểm hình thái:
Cá lóc có đầu lớn, đỉnh đầu rất rộng, dẹp bằng, mõm ngắn, miệng to, hướng lên, rạch
miệng xiên và kéo dài qua đường thẳng đứng kể từ bờ sau của mắt. Răng bén nhọn, cá
không có râu, mắt lớn, lỗ mang lớn. Thân dài, hình trụ, tròn ở phần trước và dẹp bên ở

phần sau. Vảy lược lớn, phủ khắp thân và đầu. Đường bên hoàn toàn gãy khúc ở hai
nơi khoảng vảy 15 – 20 và thụt xuống 2 hàng vảy, phần sau của đường bên chạy liên
tục khoảng giữa thân (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Cũng theo tác giả trên lúc cá sống có màu xanh đen, nâu đen đến đen ở phần lưng và
nhạt dần xuống bụng, bụng cá có màu trắng sữa. Ở cá nhỏ hai bên hông có từ 10-14
sọc đen lợt vắt xéo ngang thân, các sọc này lợt dần và mất hẳn ở cá lớn. Vi lưng, vi
hậu môn, vi đuôi có các đốm đen vắt ngang qua các tia vi.
Cá lóc đen: Cơ thể hình lăng trụ, đầu dẹp, đuôi tròn. Lưng và hai bên hông sậm màu
với những đốm đen và màu gạch, bụng màu trắng; đầu to như đầu rắn, gãy khúc,
miệng có đủ răng, vảy rất lớn.
Cá lóc môi trề: Cá lóc môi trề có bề ngoài tương tự như cá lóc đen nhưng đuôi có
màu phớt xanh, đặc biệt môi dưới trề ra, đặc điểm này lộ rõ ở những cá thể trưởng
thành.
2


Cá lóc đầu nhím: Những người nuôi cá lóc ở ĐBSCL cho rằng cá lóc đầu nhím là con
lai giữa cá lóc môi trề và cá lóc đen, đây là loài hình cá lóc được nuôi phổ biến và được
ưa chuộng trên thị trường.
2.1.1 Đặc điểm phân bố của cá lóc
Cá lóc sống ở nước ngọt, có thể sống được ở nước lợ với nồng độ muối nhỏ hơn 15‰,
chúng sống ở sông suối, ao đìa và đồng ruộng. Vùng phân bố rộng từ Trung Quốc đến
Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippin (Trương Thủ
Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, ngoài bốn loài cá lóc đã được phát hiện từ lâu là: cá lóc
thường (Ophicephalus striatus Bloch, 1972), cá lóc bông (Ophicephalus micropeltes
Cuvier và Valenciennes), cá chành dục (Ophicephalus gachua Hanmilton) và cá dày
(Ophicephalus lucius Cuvier và Valencienne) thì còn có cá lóc môi trề Channa sp),
được tìm ra ở tỉnh Đồng Tháp và vùng ĐBSCL vào năm 1997. Loài cá này có tốc độ
tăng trưởng rất nhanh nên người dân rất thích nuôi. Hiện nay cá lóc môi trề được nuôi

nhiều hơn cả cá lóc thường và cá lóc bông và có sinh khối lúc thu hoạch nuôi nhiều
nhất trong các loài cá lóc. Một số nơi còn nuôi cá lai giữa cá lóc thường và cá lóc môi
trề (Phạm Văn Khánh và Lý Thị Thanh Loan, 2004).
2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng của cá lóc
Cá lóc là loài cá dữ, phàm ăn (miệng rộng, răng sắc), có tính ăn rộng, cỡ cá dài 3 cm
ăn giáp xác, ấu trùng… Cỡ cá dài 3 – 8 cm ăn ấu trùng côn trùng, tôm non, nòng nọc,
các loại cá nhỏ khác, thân dài hơn 20 cm ăn cá tạp, ếch,… (Ngô Trọng Lư; Thái Bá
Hồ, 2003). Ngoài ra cá lóc có thể ăn được thức ăn chế biến (Đại học An Giang, 2003;
Huỳnh Thu Hòa, 2004).
Cá mới nở sử dụng dinh dưỡng từ khối noãn hoàng trong 3 ngày. Từ ngày thứ 4 – 5,
khi noãn hoàng đã hết, cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài là các loài động vật phù du
kích cỡ nhỏ vừa với cỡ miệng chúng (luân trùng, trứng nước) hay lòng đỏ trứng. 5 – 7
ngày sau cá có thể ăn trùn chỉ hay thức ăn tổng hợp dạng bột (Trương Thủ Khoa và
Trần Thị Thu Hương, 1993).
Khi cá lóc đạt chiều dài khoảng 5 – 6 cm thì có thể rượt bắt các loại cá, tép con có kích
cỡ nhỏ hơn. Khi cá có chiều dài trên 10 cm thì khả năng rình bắt mồi rất tốt và có tính
ăn như cá trưởng thành.
Cá lóc là động vật ăn thịt, có tập tính rình bắt mồi. Trong điều kiện nuôi, cá quen dần
với việc ăn thức ăn tĩnh, cá ăn được nhiều loại thức ăn: cá biển, phụ phế phẩm của nhà
máy chế biến, phế phẩm từ lò mổ gia súc, gia cầm và thức ăn viên tổng hợp.

3


2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng của cá lóc
Giai đoạn nhỏ, cá tăng chủ yếu về chiều dài. Cá càng lớn thì sự tăng trọng càng nhanh.
Trong tự nhiên, sức lớn của cá không đều, phụ thuộc vào thức ăn sẵn có trong thủy
vực, do vậy tỉ lệ sống trong tự nhiên của cá thấp.
Trong ao nuôi, có thức ăn đầy đủ và chăm sóc tốt thì tỉ lệ sống của cá cao và đạt trọng
lượng trung bình 0,5 – 0,8 kg/con sau 6 – 8 tháng (cá lóc đen và lóc bông); 0,6 – 0,7

kg/con sau 3,5 – 4 tháng (cá lóc môi trề và đầu nhím) (Phạm Văn Khánh, 2000).
2.1.4 Đặc điểm sinh sản của cá lóc
Cá thành thục sớm, 10 – 12 tháng tuổi đã có thể sinh sản. Mùa sinh sản tự nhiên từ
tháng 4 – 7, tập trung vào tháng 4 – 5, cá có thể đẻ 5 lần/năm. Số lượng trứng tuỳ theo
trọng lượng thân, cá nặng 0,5kg số lượng trứng 8.000 – 10.000 (cái), cá nặng 0,25kg
số lượng trứng 4.000 – 6.000 (cái).
Trong tự nhiên, cá lóc thường làm tổ đẻ trứng ở khu vực nước yên tĩnh, có nhiều cây
cỏ thực vật thủy sinh. Tổ hình tròn, được làm từ cây cỏ, thực vật trong nước, đường
kính khoảng 30 – 40cm. Ở nhiệt độ 25 – 30°C sau ba ngày nở thành con (Ngô Trọng
Lư, 2003). Cá đẻ vào sáng sớm, sau những trận mưa rào. Sau khi đẻ trứng xong, cả cá
đực và các cái sẽ ở quây quần bên tổ để bảo vệ trứng cho tới khi trứng nở thành cá
con. Khi cá con đạt kích thước 3 – 4cm sẽ tách đàn sống độc lập.
Hiện nay lượng cá con trong thiên nhiên không đủ cung cấp cho nhu cầu của người
nuôi, vì vậy người nuôi cá đã cho sản xuất giống nhân tạo để nâng cao hiệu quả khi
nuôi và chủ động thời gian nuôi.
2.2 Tình hình nuôi cá lóc ở ĐBSCL
Nguồn lợi thủy sản nước ngọt ở ĐBSCL ngày càng cạn kiệt do khai thác quá mức (Lê
Xuân Sinh, 2005) nên sản lượng cá tạp nước ngọt có thể sử dụng làm thức ăn cho
NTTS nói chung và nuôi cá lóc nói riêng ngày càng khan hiếm. Có nhiều giải pháp
thay thế nguồn thức ăn từ cá tạp nước ngọt được các hộ nuôi cá lóc đề xuất, trong đó
biện pháp thay thế hàng đầulà thay thế bằng cá tạp biển được 84,8 % số hộ đề nghị.
Các biện pháp khác là chuyển sangnuôi đối tượng khác (3,8%) hoặc không nuôi cá lóc
nữa (3,5%). Có 3,3% số hộ nuôi cho rằng nên giảm nuôi cá lóc và nuôi theo qui hoạch
cùng với việc tăng cường quản lý khai thác và BVNLTS nhằm đáp ứng được nguồn
thức ăn cho cá lóc nuôi. Các hộ nuôi cá lóc còn có thể tận dụng ốc bươu vàng, cua
đồng hay đầu, xương cá tra để thay thế nguồn cá tạp nước ngọt (3,3% số hộ). Tuy
nhiên, các giải pháp này cần lưu ý sự cạnh tranh nguồn thức ăn từ pháttriển nuôi các
đối tượng khác (cá tra, cá trê lai, tôm càng xanh, lươn,…), nguy cơ khai thác cạn kiệt
nguồn lợi thủy sản tự nhiên cũng như ảnh hưởng xấu tới việc cung cấp thực phẩm giá
rẻ của một bộ phận lớn dân cư địa phương.


4


Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ phối hợp với Trung tâm Giống cây trồng – vật nuôi –
thủy sản TP Cần Thơ, Công ty Cổ phần EWOS Việt Nam đánh giá kết quả dự án nuôi
cá lóc trong vèo sử dụng thức ăn viên EWOS tại một số hộ dân trên địa bàn TP Cần
Thơ. Từ thực tế đó, Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ rất quan tâm việc hỗ trợ nông dân
có hướng chuyển từ nuôi cá lóc sử dụng nguồn cá mồi truyền thống sang các loại thức
ăn công nghiệp. Mô hình này tạo thuận lợi hơn cho người nuôi cá lóc, đồng thời giảm
các tác động xấu đến môi trường.
Để có mô hình điểm làm cơ sở hướng dẫn và nhân rộng, tháng 4 – 2013, Chi cục Thủy
sản TP Cần Thơ phối hợp với Trung tâm Giống cây trồng – vật nuôi – thủy sản TP
Cần Thơ và Công ty cổ phần EWOS Việt Nam (thuộc Tập đoàn EWOS – NA Uy)
thực hiện. Dự án mô hình trình diễn nuôi cá lóc thâm canh trong vèo sử dụng thức ăn
công nghiệp EWOS. Mô hình chính thức triển khai thả nuôi cá từ tháng 5 – 2013, với
sự tham gia của 6 hộ dân thuộc các quận, huyện trên địa bàn TP Cần Thơ và một điểm
nuôi tại Trung tâm Giống cây trồng – vật nuôi – thủy sản TP Cần Thơ.
Tham gia dự án, Công ty cổ phần EWOS Việt Nam hỗ trợ con giống và 50% chi phí
tiền thức ăn cho các mô hình nuôi trình diễn. Kết quả cho thấy, tại các hộ dân và 1
điểm nuôi trình diễn tại Trung tâm Giống cây trồng – vật nuôi – thủy sản TP Cần Thơ,
cá lóc nuôi tăng trọng khá nhanh, khoảng 4 tháng 20 ngày (đối với cá lóc đầu nhím) là
có thể xuất bán, tỷ lệ cá bị dị tật rất ít, hệ số thức ăn chỉ ở mức 1,1 – 1,3kg thức ăn/kg
cá.
Cho kết quả cao so với cách nuôi truyền thống (sử dụng cá bổi làm mồi) và hứa hẹn cơ
hội phát triển nghề nuôi cá lóc, tạo thêm thu nhập cho các nông hộ ở nông thôn…
Thời gian qua, cá lóc được nông dân tại nhiều quận, huyện của TP Cần Thơ theo các
mô hình nuôi ao, hầm, nuôi vèo đặt trong ao, vèo đặt trên sông,… Tuy nhiên, người
dân chủ yếu sử dụng các loại cá tạp tươi sống để làm mồi nuôi cá lóc, nên việc phát
triển mô hình gặp khó do nguồn thức ăn thường bị thiếu hụt và không ổn định về chất

lượng.
Chính vì vậy, các mô hình nuôi cá lóc, nhất là nuôi cá lóc trong vèo chỉ được nông dân
phát triển mạnh vào mùa lũ – thời điểm mà nguồn cá tạp trong tự nhiên dồi dào nhất
trong năm. Song, việc khai thác đánh bắt quá mức các loại thủy sản trong tự nhiên thời
gian qua khiến lượng cá tạp mùa lũ giảm dần, nguồn cung hạn chế, giá bán cao, lợi
nhuận của người nuôi cá cũng giảm theo.
2.3 Sơ lược tổng quan về tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang có địa hình đa dạng, bờ biển dài, nhiều sông núi và hải đảo, nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo cho tỉnh
nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế phong phú, đa dạng như: kinh tế nông – lâm nghiệp,
kinh tế biển, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông –
thủy sản và du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu.
5


Ngoài ra, với vị thế là cửa ngõ ở phía tây nam thông ra Vịnh Thái Lan, Kiên Giang
còn có tiềm năng lớn về kinh tế cửa khẩu, hàng hải và mậu dịch quốc tế.
2.4 Nguồn lợi và nuôi thủy sản ở Kiên Giang
Hiện nay, tỉnh Kiên Giang đang phát triển nuôi thủy sản ven biển – đảo bền vững, từ
đó tạo ra nhiều sản phẩm thủy sản có giá trị kinh tế cao phục vụ tiêu thụ trong nước và
chế biến xuất khẩu, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống cư dân ven biển, hải đảo.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang cho biết, tỉnh hiện đang tập trung
đầu tư các hướng khai thác có hiệu quả diện tích mặt nước các bãi triều, eo vịnh ven
biển, quanh các đảo vào nuôi thủy sản mặn, lợ trên cơ sở tổ chức nhiều mô hình quản
lý cộng đồng gắn với sinh kế người dân địa phương.
Đồng thời phát triển nuôi thủy sản lồng bè trên biển, nhuyễn thể hai mảnh vỏ vùng ven
biển, bãi triều theo hướng nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, quảng canh cải tiến gắn
với tham quan du lịch; quản lý tốt môi trường nguồn nước, thức ăn, con giống đảm
bảo sản xuất sản phẩm sạch.
Mục tiêu đến năm 2015 toàn tỉnh Kiên Giang đạt 1.500 lồng bè, với thể tích nuôi

150.000m3, sản lượng 3.000 tấn và năm 2020 là 3.000 lồng bè, thể tích nuôi
300.000m3, sản lượng 6.000 tấn.
Để đạt mục tiêu, tỉnh Kiên Giang thực hiện chính sách giao đất, mặt nước khu vực ven
biển, ven đảo cho các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình thuê nuôi thủy sản ổn định,
lâu dài; đầu tư đường giao thông, lưới điện, đặc biệt là cơ sở sản xuất giống thủy sản
chất lượng cao, đảm bảo nhu cầu nguồn giống thả nuôi, nhằm giúp ngư dân chủ động
trong nuôi thủy sản ven biển, hải đảo.
Bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ ngư dân vay vốn nuôi thủy sản, tỉnh Kiên
Giang đã huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế trên cơ sở tạo môi trường
đầu tư thông thoáng, cơ chế chính sách ưu đãi ổn định và lâu dài, đảm bảo phát triển
bền vững.

6


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian thực hiện: từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 6 năm 2015.
Địa điểm thực hiện: Tại huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang.
Đối tượng nghiên cứu: Cá lóc đầu nhím.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp thu số liệu thứ cấp
Số liệu thứ cấp được thu từ trạm khuyến nông hoặc báo cáo của sở NN và PTNT,
phòng NN và PTNT cùng với các tài liệu có liên quan đến nghiên cứu từ: website, báo
chí, tạp chí,…
3.2.2 Phương pháp thu số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu bằng phiều điều tra đã soạn sẵn trước (phụ lục A), đến phỏng
vấn trực tiếp 20 hộ tại huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang để tìm hiểu kỹ thuật cũng như
hiệu quả của mô hình nuôi.

Số liệu sơ cấp được thu nhập theo các thông tin sau:
Thông tin tổng quát liên quan đến chủ hộ
Thông tin về chủ hộ như tên, tuổi, địa chỉ, số năm kinh nghiệm, trình độ văn hóa,
chuyên môn về thủy sản, mô hình nuôi.
Kỹ thuật nuôi
Kỹ thuật xây dựng và cải tạo mô hình nuôi trên sông.
Mùa vụ và các mô hình nuôi.
Con giống.
Chăm sóc và quản lý.
Thu hoạch và tiêu thụ.
Thông tin về thị trường
Tình hình cung ứng các yếu tố đầu vào, tình hình tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch.
Hiệu quả kinh tế
Tổng thu.
Tổng chi.
Lợi nhuận.
7


Thuận lợi và khó khăn
3.3 Phương pháp phân tích số liệu
Phân tích số liệu kỹ thuật
Mật độ thả giống = Số giống thả/(Thể tích/mùng) (con/m3).
Tỷ lệ sống (%) = (Số cá thể sống/ Số cá thể ban đầu) * 100%.
Hệ số chuyển hóa thức ăn FCR = Khối lượng thức ăn/ Khối lượng cá thu hoạch.
Năng suất thu hoạch = Sản lượng/ Diện tích (đvt/m3).
Phân tích hiệu quả kinh tế
Tổng chi phí (TC): TC = TFC + TVC

(3.1)


Trong đó: TFC: Tổng chi phí cố định (khấu hao, sữa chữa lớn máy móc, trang thiết bị,
thuế tài sản, tiền lãi của chi phí mua sắm, xây dựng).
TVC: Tổng chi phí biến đổi (thức ăn, con giống, hóa chất và thuốc phòng trị bệnh).
Tổng chi phí cố định (TFC): TFC = AFC.Q

(3.2)

Tổng chi phí biến đổi (TVC): TVC = AVC.Q

(3.3)

Trong đó: AFC: Chi phí cố định bình quân
AVC: Chi phí biến đổi bình quân
Q: Tổng sản lượng
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí (triệu đồng).

(3.4)

Doanh thu = giá bán * sản lượng thu hoạch.

(3.5)

Hiệu quả chi phí = (Tổng thu/ Tổng chi phí) * 100.

(3.6)

Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận/ Tổng chi phí.

(3.7)


Tỉ lệ số hộ nuôi lỗ = Số hộ lỗ/ Tổng số hộ nuôi * 100.

(3.8)

Tỉ lệ số hộ nuôi lời = Số hộ lời/ Tổng số hộ nuôi * 100.

(3.9)

3.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Phần mềm dùng để xử lý số liệu và viết báo cáo là Microsoft Word 2010, Microsoft
excel 2010.
Thông kế mô tả: các chỉ số thống kế mô tả đơn giản như giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, tần suất, tỷ lệ phần trăm được dùng để mô tả diện tích nuôi trồng, dựa vào các
chỉ số này để tiến hành phân tích và rút ra nhận xét.

8


CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thông tin chung về huyện Gò Quao
Trong những năm gần nghề nuôi cá lóc ở huyện Gò Quao - Kiên Giang phát triển chủ
yếu dưới hình thức nuôi thâm canh trên sông. Theo thông tin đi khảo sát (2015), cho
thấy đây là khu vực khá phù hợp cho việc nuôi thủy sản, có nguồn nước dồi dao. Phía
bắc giáp huyện Châu Thành và huyện Giồng Riềng, Tây Bắc giáp sông Cái Lớn, ngăn
cách với huyện An Biên, Tây Nam giáp huyện Vĩnh Thuận, phía Nam giáp tỉnh Bạc
Liêu, Đông giáp tỉnh Hậu Giang.

Hình 4.1 Vị trí địa lý huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang

Mặc dù phòng trào nuôi cá lóc ở Kiên Giang đã có từ vài năm trước đây. Nhưng ở các
huyện khác người nuôi rất rải rác và không thường xuyên. Chỉ có huyện Gò Quao, cụ
thế là thị trấn Gò Quao có lượng người nuôi tập trung nhiều hơn cả. Sở dĩ ở đây có
phong trào nuôi cá lóc phát triển mạnh hơn vì lý do sau:
Thứ nhất mô hình nuôi cá lóc đen ở thị trấn Gò Quao nuôi phổ biến hơn, có nhiều hộ
dân nuôi với mô hình lớn và chủ yếu là nuôi thương phẩm.
Thứ hai thuận lợi về phương tiện giao thông chủ yếu bán cho thương lái, còn các xã
khác thì nuôi với mô hình nhỏ đủ để phục vu đời sống cho từng hộ gia đình và khó
khăn về giao thông và ít nông hộ nuôi, thu hoạch chủ yếu bán lẻ trong địa phương.

9


4.2 Thông tin chung các hộ nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông
4.2.1 Độ tuổi và giới tính của nông hộ tham gia nuôi cá lóc
Độ tuổi phản ánh tiềm năng lao động và kinh nghiệm trong sản xuất của từng hộ nuôi.
Qua điều trả 20 hộ nuôi cá lóc mùng trên sông ở thị trấn Gò Quao cho thấy nhóm tuổi
của các hộ nuôi tương đối đa dạng với nhiều độ tuổi khác nhau dao động trong khoảng
37 – 60, chủ hộ nuôi có độ tuổi cao nhất là 60 tuổi thấp nhất là 37 tuổi được lập ở
(bảng 4.1)
Bảng 4.1 Tuổi và giới tính của nông hộ
Độ tuổi
< 40
41 – 50
51 – 60
< 60

Giới tính
Nam


Nữ

Số năm kinh
nghiệm nuôi

3
4
6
0

4
3
0
0

3 – 10
3–4
4 – 10
0

Qua bảng 4.1 cho thấy các chủ hộ nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông có độ tuổi dao
động từ 37 – 60 tuổi, trong đó độ tuổi từ 37 – 45 chiếm tỷ lệ cao nhất (60%) và độ tuổi
từ 46 – 60 tuổi có tỷ lệ (40%).
Đây cũng là độ tuổi lao động chính của gia đình cũng như ở địa phương.
Do mô hình nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông được nuôi theo hộ gia đình nên có
sự tham gia lao động của cả nam và nữ, cơ cấu lao động nam nữ trong mô hình nuôi cá
lóc đầu nhím mùng trên sông thể hiện ở (bảng 4.1). Ở mô hình nuôi khảo sát lao động
nam giới chiếm tỷ lệ là 65%, nữ chiếm tỷ lệ là 35% và tỷ lệ nam nữ tham gia lao động
biến đổi theo độ tuổi. Do nghề nuôi cá mùng trên sông thường xuyên hoạt động trên
sông và sản xuất theo hộ gia đình nên chủ yếu là nam giới làm chủ và quản lý. Nông

dân chủ yếu nuôi cá lóc theo tập quán, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và vừa học vừa
rút kinh nghiệm.
Tuy nhiên nông dân thường nuôi mùng trên sông với diện tích không lớn. Qua thời
gian khảo sát cho thấy có 7 hộ nuôi có độ tuổi dao động từ 37 – 40tuổi có kinh nghiệm
nuôi từ 3 – 10 năm chiếm (35%), 7 hộ nuôi có độ tuổi từ 41 – 50tuổi có kinh nghiệm
từ 3 – 4 năm chiếm (35%) và có 6 hộ nuôi có độ tuổi từ 51 – 60tuổi có kinh nghiệm từ
4 – 10 năm chiếm (30%).
4.2.2 Trình độ văn hóa của nông hộ tham gia nuôi cá lóc
Trình độ học vấn phản ánh khả năng tiếp nhận ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất. Qua khảo sát 20 hộ nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông kết quả
về trình độ học vấn của những hộ nuôi được thể hiện ở (bảng 4.2).
10


Bảng 4.2 Trình độ văn hóa và nguồn tiếp nhận thông tin
Tỷ lệ (%)

Trình độ văn hóa/ chuyên môn
Tiểu học
Phổ thông cở sở
Phổ thông trung học
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học

60
40
0
0
0

0

Nguồn tiếp nhận thông tin:
Tập huấn
Thông tin truyền thông
Kinh nghiệm + Học hỏi lẫn nhau

0
50
50

Qua khảo sát 20 hộ nuôi cá lóc cho thấy hầu hết các chủ hộ nuôi cá lóc đều là nông
dân không qua trường lớp đào tạo tập huấn. Các nông hộ còn hạn chế trong việc tiếp
nhận các tiến bộ về kỹ thuật nuôi cá. Nông dân nuôi cá lóc theo tập quán, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau là (50%) và tiếp nhận thông tin truyền thống như: tivi, radio,… là
(50%).
Đa phần chủ hộ nuôi cá lóc trong mùng có trình độ văn hóa tương đối thấp trong đó
60% tiểu học, 40% phổ thông cơ sở. Trình độ học vấn thấp của nông dân đã phần nào
hạn chế trong việc tiếp nhận các tiến bộ về kỹ thuật nuôi cá.
Tỷ lệ sống cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ thả nuôi, dịch
bệnh, chất lượng nước và cách chăm sóc, cho ăn. Nhưng kinh nghiệm nuôi có ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất nuôi, người nuôi có kinh nghiệm càng lâu thì càng tích
luỹ được vốn kiến thức cũng như kỹ thuật càng nhiều.
4.3 Thông tin về kỹ thuật nuôi cá lóc
4.3.1 Kích thước mùng nuôi và vị trí đặt mùng nuôi
Mỗi hộ nuôi cá mùng trên sông ở đây tùy vào điều kiện kinh tế của mình mà có số
lượng lồng bè nhiều hay ít. Số lượng mùng trung bình mỗi hộ là 111.15 ± 37.8mùng,
dao động từ 3 – 5mùng/ hộ.
Theo nguồn thông tin thể tích cá nuôi mùng trên sông là khá cao, trung bình là
54m2/hộ. Mùng nuôi được đặt ở trên sông cách bờ 0,5m và 1m, đáy mùng đặt cách

mặt đất là 0,5m, tất cả mùng đều có lưới đậy để tránh cá nhảy ra. Mắt lưới là 3 - 5mm.
Các hộ nuôi cá trong mùng trên sông, diện tích đất không lớn và rất thích hợp cho các
hộ ít đất sản xuất, đặc biệt là các hộ nghèo.

11


Bảng 4.3 Thông tin về kích thước mùng nuôi
Diện tích
mùng nuôi
(m2)
< 70
71 – 100
101 – 120
121 – 140
>140

Số hộ
nuôi

Tỷ lệ

2
9
3
3
3

10
45

15
15
15

Tỷ lệ sống
55,6
57,3
60,3
53,1
50,0

± 4,1
± 2,3
± 2,4
± 2,9
± 0,2

Ghi chú
Mô hình nuôi mùng trên sông có đa
số các hộ xây dựng bằng hình chữ
nhật, được đặt cách nhau 1m, với
kích mùng rất đa dạng có nhiều kích
thước khác nhau với các diện tích
lần lượt là 3/6, 4/6, 5/9.

Ở bảng 4.3 cho thấy trong 20 hộ chỉ 2 hộ nuôi cá trong mùng có diện tích nhỏ hơn
70m2. Đa số các hộ nuôi cá trong mùng có diện tích 71 – 100m2 (45%). Diện tích
mùng nuôi lớn hơn được phân bố đều từ 101 – 120 m2, 121 – 140m2 và lớn hơn
140m2 với trị số lần lượt (15%) cho mỗi nhóm diện tích (bảng 4.3).
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ sống của cá có liên quan tới diện tích mùng nuôi, tỷ lệ

sống của cá tăng dần theo diện tích mùng nuôi (bảng 4.3). Tuy nhiên khi diện tích
mùng nuôi quá lớn (S > 140m2) thì tỷ lệ sống của cá có xu hướng giảm do gặp khó
khăn khi quản lý và chăm sóc hàng ngày.
4.3.2 Nguồn giống và kích cở cá giống thả
Qua đợt khảo sát 20 hộ nuôi cá rô phi đỏ lồng bè ở Cồn Thới Sơn kích cỡ cá giống
trung bình là 7 ± 0,7con/kg với những kích cỡ phổ biến lần lượt là 6,7,8con/kg được
thể hiện ở (Bảng 4.4).
Bảng 4.4 Nguồn giống và kích cở giống
Nguồn giống
Tự sản xuất
Mua ở đại lý
Mua ở ngoài tỉnh

Cở Giống (cm)
5 – 10
0
0
100

L<5
0
0
0

> 10
0
0
0

Kết quả điều tra đã ghi nhận không có hộ nào thả cá giống có chiều dài nhỏ hơn 5cm.

Cá có chiều dài từ 5 – 10cm được các hộ thả nuôi 100%. Trong số đó khoảng 70% hộ
thả cá cở 7 – 8cm và khoảng 30% số hộ thả cá cở 5 – 6cm. Kinh nghiệm của người
nuôi cho biết khoảng chiều dài là 5 – 10cm là phù hợp với hình thức nuôi vì: Cá nhỏ
(L < 5cm) hoặc lớn (L > 10cm) rất dễ bị bệnh và xay sát trong quá trình nuôi và vận
chuyển. Ngoài ra có cá từ 5 – 10cm cũng là cỡ cá được nuôi phổ biến ở ĐBSCL.
Nguồn giống cá lóc. Các hộ điều tra cho biết họ không tự sản xuất được giống cá lóc
và tại địa phương cũng không có các đại lý bán lẻ giống cá lóc. Như vậy các hộ nuôi
cá lóc đều phải mua cá lóc giống ở ngoài tỉnh hoặc của các huyện lân cận. Đây cũng là
trở ngại cho nghề nuôi cá lóc ở huyện Gò Quao.
12


4.3.3 Mùa vụ thả nuôi và thời thả
Số vụ nuôi trong năm chịu tác động trực tiếp bởi yếu tố thời gian. Mùa vụ thả
nuôi/năm có thể thả 3 vụ nuôi : Vụ một từ tháng 4 đến tháng 5 và vụ hai từ tháng 8 đến
tháng 9, vụ ba thả từ tháng 12 đến tháng giiếng năm sau. Nhưng vụ ba nông hộ cho
biết là họ không nên thả nuôi vào vụ ba vì thời gian này cá nuôi chậm lớn, do nước bị
ỗ nhiễm, thức ăn khán hiếm, giá thương phẩm thấp. Qua khảo sát cho thấy hộ nuôi bắt
đầu thả giống vụ nuôi đầu diễn ra chủ yếu vào tháng 4 và tháng 5 và tháng 8 đến tháng
9 vì thời gian này thời tiết ổn định thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và hạn chế
dịch bệnh của cá. Thời gian thả cá giống chủ yếu vào khoảng 8 – 9 giờ sáng và chiều 4
– 5 giờ để tránh làm cá bị sốc nhiệt.
4.3.4 Mật độ thả, tỷ lệ sống và năng suất cá nuôi
Quan niệm của hộ thả nuôi với mật độ cao nhằm tăng năng suất, tăng lợi nhuận và tiết
kiệm diện tích nuôi. Tuy nhiên, khi nuôi với mật độ cao sẽ làm cho cá dễ nhiễm bệnh.
Khi đó người nuôi sử dụng thuốc hóa chất nhiều làm tăng chi phí thuốc hóa chất.Qua
khảo sát 20 hộ nuôi cá lóc đầu nhím ở thị trấn Gò Quao có mật độ thả nuôi trung bình
238 ± 14,7con/m3, mật độ dao động 220 –250con/m2 được trình bày ở (bảng 4.5)
Bảng 4.5 Mật độ thả, tỷ lệ sống và năng suất cá nuôi
Mật độ thả


Tỷ lệ

Tỷ lệ sống

Năng suất

220

50%

55.7 ± 3.0

7.836 ± 1.894

250

50%

56.1 ± 4.7

11.415 ± 3.145

Mật độ thả nuôi cũng ảnh hưởng khá lớn đến năng suất thu hoạch và khả năng phát
sinh dịch bệnh trong vụ nuôi. Việc nông hộ thả nuôi với mật độ cao có thể tăng lợi
nhuận và tiết kiệm diện tích nuôi nhưng sẽ làm cho nguồn nước bị ô nhiễm dễ phát
sinh dịch bệnh. Qua khảo sát cho thấy có 10 hộ thả với mật độ 220con/m2 chiếm
(50%) và 10 hộ nuôi với mật độ 250con/m2 chiếm (50%).
Với mật độ thả 220con/m2 cho tỷ lệ sống trung bình 55,7 ± 3.0%, trong khi đó những
nông hộ thả nuôi với mật độ từ 250con/m2 cho tỷ lệ sống trung bình là 56,1 ± 4.7%

4.3.5 Chăm sóc và quản lý
Khẩu phần và cách cho ăn
Kết quả khảo sát 20 hộ nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông ở thị trấn Gò Quao đều
ghi nhận thức ăn để nuôi cá hoàn toàn là thức ăn chủ yếu là cá tạp: (cá sặc rằn, óc,
tép,…) có bổ sung vitamin, UV.
Nuôi cá lóc thâm canh, thức ăn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất và
mang tính chất quyết định đến lợi nhuận sau cùng của vụ nuôi, nguyên liệu dùng làm
thức ăn ở hầu hết các hộ nuôi cá lóc địa bàn khảo sát đều sử dụng thức ăn là cá tạp
13


(100%) trong suốt quá trình nuôi. Thức ăn cá tạp giúp cho cá tăng trưởng nhanh, rút
ngắn thời gian nuôi, hạn chế ô nhiễm môi trường hơn so với việc sử dụng thức công
nghiệp. Tuy nhiên việc sử dụng hoàn toàn thức ăn cá tạp sẽ làm tăng chi phí sản xuất
tăng giá thành cao.
Thức ăn
Các nông hộ nuôi cá lóc đầu nhím ở thị trấn Gò Quao cho biết họ chỉ cho cá ăn thức ăn
cá tạp và bổ xung vitamin C và vitamin B12, Uv theo khẩu phần 30%. FCR của các hộ
nuôi được khảo sát trung bình là 1,25 ± 0,05 (hộ nuôi có hệ số FCR thấp nhất là 1.2 và
cao nhất là 1.3).
4.3.6 Quản lý mùng nuôi cá
Vì mùng nuôi được làm bằng gỗ và lưới nên công tác bảo vệ, sửa và quản lý mùng khá
đơn giản. Vì vậy, sau mỗi vụ nuôi hộ nuôi chỉ cần làm sạch hàu, rong bám trên lưới để
chuẩn bị cho vụ nuôi tiếp theo.
Phần lước đậy trên mặt mùng sau mỗi vụ nuôi được làm sạch và tẩy ra cho trắng,
nhằm làm tăng thời gian sử dụng của mùng. Các hệ thống như dây cột và gỗ được
kiểm tra thường xuyên để kịp thời sửa.
Mô hình nuôi cá lóc trên sông thường có tỷ lệ hao hụt không cao. Theo ý kiến của
người dân, nguyên nhân hao hụt chính là do cá lóc loài có tập tính ăn nhau nếu thiếu
thức ăn. Trong quá trình nuôi thì cá sẽ ăn lẫn nhau hoặc gây ra những vết thương tạo

điều kiện cho dịch bệnh xâm nhập ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và năng suất vụ nuôi.
Ngoài lý trên thì tỷ lệ sống giảm là do môi trường ao nuôi thay đổi cũng ảnh hưởng
đến sức khoẻ của cá.
Các nhà nuôi trồng thủy sản luôn luôn đặt vấn đề phòng bệnh cho động vật thủy sản
lên hàng đầu và họ cho rằng “Phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần” (Đỗ Thị Hòa,
2004). Với cách trộn thuốc vào thức ăn theo định kỳ của người dân rất tốn kém chi phí
và dễ dẫn đến tình trạng cá bị kháng thuốc và làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước
trong ao. Quan sát tình trạng sức khỏe củacá nuôi lúc cho ăn cũng là một cách dễ dàng
phát hiện cá bệnh mà có biện pháp phòng trị kịp thời. Ngày nay để đạt hiệu quả kinh tế
cao trong nuôi trồng thủy sản người dân nên áp dụng biện pháp phòng trị bệnh tổng
hợp, tức là kiểm tra kỹ về khâu lựa chọn con giống, quản lý môi trường nuôi, dinh
dưỡng cho cá nuôi.
Theo thông tin ghi nhận được từ các hộ nuôi cá cho thấy các bệnh thường xuất hiện
trong quá nuôi như: bệnh ghẻ, mỏ neo, rận cá gậy thiệt hại khá lớn cho người nuôi.

14


4.4 Một số bệnh cá lóc thường gặp ở nuôi cá
Mô hình nuôi lóc đầu nhím trên sông phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước tự nhiên
trên sông nên nguy cơ cá phải đối mặt với vi khuẩn và mầm bệnh là điều không thể
tránh khỏi.
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Bệnh ghẻ


Bệnh xuất huyết

Bệnh rận cá

Bệnh mất nhớt

Hình 4.5 Tỷ lệ phần trăm xuất hiện bệnh trên cá lóc
Động vật thủy sản sống trong nước nên quá trình phòng bệnh không giống gia súc trên
cạn. Mỗi khi cá trong ao bị bệnh không thể chữa từng con mà phải chữa theo quần
đàn. Thuốc dùng phải tính cho tổng số cá sống trong ao nên tốn kém nhiều, các loại
thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản thường phải trộn vào thức ăn,
nhưng những con bị bệnh thường không ăn, những con khỏe lại ăn nhiều, nên dù có
sử dụng loại thuốc đúng nhưng hiệu quả sẽ không cao và những con khỏe mạnh cũng
phải dùng thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của chúng (Hứa Thị Phượng Liên,
2004).
Qua kết quả khảo sát 20 hộ nuôi cá lóc cho thấy bệnh ghẻ cao nhất là (55%). Đây là
hai loại bệnh gây nguy hiểm, tốn nhiều chi phí và thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Kế
đến là bệnh xuất huyết và bệnh rận cá là (40%) và bệnh mất nhớt chiếm (20%) ảnh
hưởng khá lớn cho người nuôi.
Hai bệnh này có nguyên nhân xuất hiện bệnh theo người nuôi thì có nhiều nguyên
nhân khác nhau như mật độ thả nuôi dày, cạnh tranh về thức ăn, thiếu oxy, thức ăn dư
thừa sẽ làm ô nhiễm môi trường và nguồn nước, tạo điều kiện cho dịch bệnh xảy ra.
Ngoài ra bệnh có thể do nguồn nước và chất thải sinh hoạt của người dân.

15


4.5 Sơ bộ hạch toán kinh tế
4.5.1 Mức đầu tư cho nghề nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông

Mức đầu tư cho nghề nuôi cá lóc mùng trên sông ở đây khá cao. Do hầu hết chủ hộ
đều là những người nông dân, có ít vốn. Đây cũng là một thuận lợi cho nghề nuôi.
Qua khảo sát 20 nông hộ cho thấy chi phí cho một mùng mới hiện nay khoảng 1.350
.000 triệu đồng. Nếu đầu ra sản phẩm được bảo đảm ổn định giá thì người nuôi sẽ yên
tâm đầu tư và mở rộng việc sản xuất cá lóc đầu nhím mùng trên sông, góp phần làm
cho nghề nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông ở thị trấn Gò Quao cũng như tỉnh Kiên
Giang phát triển mạnh hơn.
4.5.2 Các khoản chi phí trong nuôi cá lóc đầu nhím mùng trên sông
Qua kết quả khảo sát cho thấy chi phí sản xuất của mô hình nuôi cá lóc đầu nhím là
thấp, trung bình chi phí sản xuất cho 1vụ nuôi bao gồm cả khấu hao tài sản khoảng
694.688 ± 236.270 đồng/mùng/vụ. Các chi phí con giống, thức ăn, thuốc/ hóa chất, chi
phí khác có mối liên quan mật thiết đến chi phí sản xuất được thể hiện qua (bảng 4.5).
Bảng 4.6 Các khoản chi phí trong nuôi cá lóc đầu nhím (đơn vị: đồng/mùng/vụ)
Các chi phí

Trung bình ± ĐLC

CP con giống
CP thức ăn
CP khác
Tổng chi phí
Giá thành sản xuất

69.167 ± 3.918
937.871 ± 164. 212
3.413 ± 5.074
1.045 ± 165
35.000 ± 000

Qua bảng 4.5 cho thấy chi phí con giống trung bình là 69.167 ± 3.918đồng/m2vụ

chiếm tỷ lệ thấp hơn chí phí thức ăn, chi phí thức ăn dao động từ 937.871 ±
164.212đồng/m2/vụ do nuôi cá theo mô hình thương phẩm nên sử dụng hoàn toàn thức
ăn cá tạp (ốc, cá, đầu cá biển…) dẫn đến chi phí thức ăn cao hơn.
Chi phí khác bao gồm chi phí điện, nước, sửa chữa công trình có chi phí trung bình
13.413 ± 5.074đồng/m2/vụ cũng khá cao.
Từ chi phí trên cho thấy chi phí thức ăn và chi phí con giống là hai chi phí chiếm tỷ lệ
cao nhất cho một mét vuông mùng nuôi cá lóc đầu nhím. Với khoảng chi phí trên thì
tổng chi phí sản xuất cho 1 m2 là 1.045 ± 165đồng/m2/vụ. Giá thành để đạt được 1kg
cá lóc đầu nhím thành phẩm là 35.000 ± 000đồng/kg.
4.5.3 Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc đầu nhím
Qua kết quả cho chi phí sản xuất của mô hình nuôi cá lóc thâm canh là rất cao, trung
bình chi phí sản xuất cho vụ nuôi khoảng 1.045 ± 165triệu đồng/m2. Các chi phí con
giống, thức ăn, thuốc/ hóa chất, chi phí khác có mối liên quan mật thiết đến chi phí sản
xuất được thể hiện qua (bảng 4.6).
16


×