Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

luận văn thạc sĩ kế toán đề tài hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng công trình 717

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.56 KB, 103 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và với chính
sách đổi mới nền kinh tế, chúng ta đã đạt được không ít những thành tựu to lớn. Đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển này không thể không nhắc đến ngành XDCB - ngành
sản xuất vật chất quan trọng tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước, các doanh nghiệp luôn phải đứng trước sự cạnh tranh gay gắt không chỉ
với những doanh nghiệp trong nước mà còn cả với những doanh nghiệp nước ngoài.
Do đó muốn tồn tại và phát triển thì nhiệm vụ của các doanh nghiệp không chỉ là
không ngừng tăng cường, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất lao động
mà còn phải chú trọng công tác quản lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng
lợi nhuận nhưng vẫn sản xuất ra được những sản phẩm có chất lượng cao.
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp XDCB không chỉ có ý nghĩa to lớn
trong phạm vi ngành mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội rất to lớn đối với các ngành
khác và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thực tế hiện nay việc quản lý và hạch toán kinh
tế ở các doanh nghiệp XDCB nói chung và các doanh nghiệp xây dựng công trình giao
thông nói riêng còn chưa tốt dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí vật tư, lao động,
tiền vốn. Vì vậy việc quản lý chặt chẽ cũng như hạch toán một cách đầy đủ, kịp thời
các chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là rất cần thiết nhằm mục đích kiểm tra,
giám sát đồng thời cung cấp thông tin kịp thời phục vụ cho việc ra quyết định của các
nhà quản trị doanh nghiệp.
Xuất phát từ các lý do trên, tôi chọn đề tài "Hoàn thiện công tác kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây
Dựng Công Trình 717" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận về chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm, đồng thời phân tích, đánh giá thực tiễn công tác kế toán, từ
đó đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện về kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình
717.




3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu vào hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận và
công tác thực tiễn về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
xây dựng công trình giao thông.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phỏng vấn trực tiếp : Giám Đốc, Kế Toán trưởng, Trưởng các phòng, Chỉ huy
trưởng công trình, nhân viên phòng kế toán để tìm hiểu việc áp dụng kế toán kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
- Quan sát, tìm hiểu những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty trong quá trình hạch toán, kiểm soát chi
phí và tính giá thành.
- Vận dụng lý thuyết về kế toán tài chính, kế toán quản trị để mô tả, giải thích và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 717.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận về công tác kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
- Khái quát và phân tích được thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông.
- Kết quả của đề tài sẽ có những đóng góp nhất định vào việc hoàn thiện công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây
dựng công trình giao thông.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây

lắp tại Công Ty Cổ Phần Đầu Tư & Xây Dựng Công Trình 717.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công Ty Cổ Phần Đầu Tư & Xây Dựng Công Trình 717.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Bản chất, phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp xây lắp
1.1.1. Bản chất của chi phí sản xuất
Hoạt động của doanh nghiệp thực chất là quá trình tiêu dùng các yếu tố sản xuất
(tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động) để tạo ra các sản phẩm, công
việc, lao vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Sự
tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất hình thành các khoản chi phí tương
ứng. Vì vậy bản chất của chi phí sản xuất là sự dịch chuyển giá trị các yếu tố của quá
trình sản xuất trong kỳ vào giá trị sản phẩm. Ngoài ra chi phí sản xuất còn bao gồm
một số khoản mà thực chất là một phần giá trị mới sáng tạo ra như: các khoản trích
theo lương như BHXH, BHYT, BHTN KPCĐ; các loại thuế không được hoàn trả như
thuế tài nguyên...
Vì vậy có thể hiểu một cách đầy đủ nhất, chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về
lao động sống cần thiết, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định, biểu hiện bằng
tiền.
Xét ở bình diện doanh nghiệp, chi phí sản xuất luôn có tính cá biệt, nó bao gồm
tất cả các chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và tiến hành các hoạt động sản
xuất, bất kể đó là các chi phí cần thiết hay không cần thiết, khách quan hay chủ quan.
Độ lớn của chi phí sản xuất là một đại lượng xác định và phụ thuộc vào hai
nhân tố chủ yếu: khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một
đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.

Nghiên cứu bản chất của chi phí giúp doanh nghiệp phân biệt được chi phí với
chi tiêu.
Chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp gắn liền với khái niệm sử dụng tiền tệ, bao
gồm chi tiêu cho các quá trình mua hàng, quá trình SXKD. Chi tiêu cho quá trình mua
hàng làm tăng tài sản của doanh nghiệp, còn chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh
làm cho các khoản tiêu dùng cho quá trình SXKD tăng lên.


Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ phần tài sản hao mòn hay
tiêu dùng hết cho quá trình SXKD trong kỳ, cụ thể bao gồm các khoản chi tiêu dùng
cho quá trình SXKD trong kỳ, các khoản chi tiêu ở các kỳ trước nhưng được phân bổ
vào chi phí trong kỳ, các khoản chi phí phải trả (chi phí trích trước) không phải là chi
tiêu trong kỳ.
Như vậy giữa chi tiêu và chi phí của doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với
nhau, đồng thời có sự khác nhau về lượng và thời điểm phát sinh.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất do nhiều yếu tố cấu thành, mỗi yếu tố của quá trình sản xuất
tác động vào quá trình sản xuất khác nhau. Do vậy chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại
chi phí có đặc điểm, nội dung, công dụng khác nhau đòi hỏi yêu cầu và cách thức quản
lý thích hợp. Để thuận tiện cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí cũng như
phục vụ cho việc ra các quyết định cần phải phân loại chi phí một cách khoa học theo
những tiêu thức nhất định.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp các chi phí sản xuất khác nhau vào
từng loại, từng khoản theo những tiêu thức phân loại nhất định.
1.1.2.1. Phân loại theo nội dung, tính chất kinh tế
Theo cách phân loại này người ta căn cứ vào tính chất kinh tế ban đầu của chi
phí để xếp những chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế vào cùng một yếu tố chi
phí, không phân biệt mục đích, công dụng của chi phí đó.
Trong doanh nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất được chia thành năm yếu tố chi
phí:

+ Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu, nhiên
liệu, công cụ dụng cụ... xuất dùng cho sản xuất xây lắp trong kỳ.
+ Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ chi phí chi trả cho người lao động về
tiền lương, tiền công, phụ cấp, các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ)
của công nhân viên ở các tổ, đội xây dựng.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: bao gồm chi phí khấu hao toàn bộ TSCĐ phục vụ
cho hoạt động sản xuất xây lắp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: là các khoản chi phí về các loại dịch vụ mua
ngoài, thuê ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất xây lắp.
+ Chi phí khác bằng tiền: là các chi phí khác bằng tiền phát sinh phục vụ cho
hoạt động sản xuất xây lắp chưa được phản ánh vào các yếu tố chi phí trên như: tiếp
khách, hội họp...


Phân loại chi phí sản xuất của doanh nghiệp theo nội dung, tính chất kinh tế của
chi phí cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại (yếu tố) chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra
trong tổng chi phí và cũng là căn cứ để lập Thuyết minh báo cáo tài chính (phần Chi
phí SXKD theo yếu tố), cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp, phục vụ cho
việc lập dự toán chi phí sản xuất và phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí...

1.1.2.2. Phân loại theo mục đích, công dụng của chi phí
Theo cách phân loại này người ta căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí
để xếp những chi phí có cùng mục đích, công dụng kinh tế vào cùng một khoản mục
chi phí.
Trong các doanh nghiệp xây lắp chi phí sản xuất được chia thành bốn khoản
mục chi phí đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình theo
phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: bao gồm chi phí về các loại nguyên
liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... sử dụng trực tiếp vào việc sản xuất, chế
tạo sản phẩm.

- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về các loại tiền lương, tiền công,
phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất.
- Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm toàn bộ các chi phí có liên quan đến
máy thi công như chi phí vật liệu cho máy hoạt động, chi phí tiền lương và các khoản
phụ cấp lương, tiền công của công nhân trực tiếp điều khiển máy...
- Chi phí sản xuất chung: bao gồm những chi phí phục vụ cho quá trình sản
xuất tại đội, công trình xây dựng như lương nhân viên quản lý đội xây dựng, các
khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội, khấu
hao TSCĐ của đội sản xuất... Chi phí sản xuất chung gồm nhiều loại chi phí có nội
dung kinh tế có nội dung kinh tế khác nhau như: chi lương nhân viên đội sản xuất, chi
phí vật liệu, chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua
ngoài, chi phí khác bằng tiền.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý của chính doanh nghiệp mà các khoản mục chi phí
này còn có thể được phân chia chi tiết hơn.
Đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn theo
phương thức bằng máy thì chia chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm thành ba khoản mục
chi phí là:


- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí là cơ sở để xác
định số chi phí đã chi ra cho từng khâu, từng lĩnh vực, từng mục đích cụ thể, là căn cứ
để tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, xây dựng kế hoạch giá thành và phân tích
tình hình thực hiện giá thành kế hoạch.
Phân loại chi phí sản xuất theo 2 cách trên liên quan trực tiếp đến việc tổ chức
kế toán tài chính tập hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp. Và được thể hiện
khái quát trên hệ thống tài khoản kế toán thống nhất hiện hành thông qua việc quy
định các tài khoản chi phí, trong đó các tài khoản cấp 1 được mở theo công dụng của

chi phí, còn các tài khoản cấp 2 được mở theo yếu tố chi phí.
Khác với kế toán tài chính, trong kế toán quản trị, chi phí được sử dụng theo
nhiều cách khác nhau tuỳ theo nhu cầu quản lý ở từng doanh nghiệp. Do vậy việc phân
loại chi phí cho các mục đích của kế toán quản trị có thể theo một số tiêu thức khác
nhau mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở các cách phân loại sau đây.
1.1.2.3. Phân loại theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên Bảng
cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Theo cách phân loại này chi phí SXKD được chia thành chi phí sản phẩm và
chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: là những khoản chi phí gắn liền với quá trình SXKD. Bao
gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy
thi công, chi phí sản xuất chung.
Khi sản phẩm chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm là giá vốn hàng tồn kho
được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán. Khi sản phẩm đã được bán ra thì chi phí sản
phẩm là giá vốn hàng bán được ghi nhận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Chi phí thời kỳ: là các chi phí cho hoạt động kinh doanh trong kỳ, không tạo
nên giá trị hàng tồn kho nên không được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán mà ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của kỳ mà chúng phát sinh nên được ghi nhận
trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Bao gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý
doanh nghiệp .
Sự vận động của chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ trong doanh nghiệp có thể
minh hoạ theo sơ đồ 1.1


Chi phí sản phẩm

Chi phí
NVL
trực tiếp


Chi phí
nhân công
trực tiếp

Chi phí sử
dụng máy
thi công

Chi phí
sản xuất
chung

Doanh thu bán hàng

Chi phí
sản xuất
dở dang

Giá trị
thành phẩm
hoàn thành


Giá vốn hàng bán

Lợi nhuận gộp


Chi phí thời kỳ


Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý DN

Lợi nhuận
thuần trước thuế

Sơ đồ 1.1: Sự vận động của chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ trong doanh
nghiệp xây lắp
1.1.2.4. Phân loại theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán chi
phí


Theo cách phân loại này, chi phí SXKD được chia thành 2 loại:
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế
toán tập hợp chi phí (như từng công trình, hạng mục công trình, đơn đặt hàng...) và có
thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp: là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí
(liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình...) nên không thể quy nạp trực
tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí, mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí,
sau đó dùng phương pháp phân bổ gián tiếp để quy nạp cho từng đối tượng theo tiêu
thức phân bổ thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật quy nạp chi phí vào đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất, khó có thể đạt được mục tiêu kiểm soát chi phí vì việc phân
bổ chi phí mặc dù đã lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp nhưng vẫn mang tính chủ
quan. Do vậy qua đây ta thấy các nhân viên kế toán cần tư vấn cho các nhà quản trị
doanh nghiệp để đưa ra một cơ cấu tổ chức SXKD hợp lý để hạn chế được càng nhiều
chi phí gián tiếp càng tốt.
1.1.2.5. Phân loại theo mối quan hệ của chi phí với quy trình công nghệ sản xuất
sản phẩm và quá trình kinh doanh
Theo cách phân loại này, chi phí SXKD gồm:

- Chi phí cơ bản: là các chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình công nghệ
sản xuất, chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí công cụ dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ dùng trực tiếp vào
sản xuất sản phẩm xây lắp...
- Chi phí chung: là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý sản xuất có
tính chất chung như chi phí quản lý ở các tổ, đội sản xuất, chi phí quản lý doanh
nghiệp...
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được
phương hướng và biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đối với chi phí
cơ bản thì không thể cắt bỏ một loại chi phí nào mà phải phấn đấu hạ thấp chi phí bằng
việc giảm các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, lao động hoặc cải tiến quy trình công
nghệ, hợp lý hoá sản xuất, tìm vật liệu thay thế...Còn đối với chi phí chung cần phải
triệt để tiết kiệm, hạn chế, thậm chí loại trừ các khoản chi phí không cần thiết, tăng
cường quản lý chi phí chung theo dự toán, theo chếđộ chi tiêu...
1.1.2.6. Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động
Trên quan điểm ngắn hạn, theo cách phân loại này chi phí SXKD bao gồm:


- Chi phí khả biến (chi phí biến đổi, biến phí): là những chi phí thay đổi về tổng
số tỷ lệ với sự thay đổi mức hoạt động của doanh nghiệp. Mức hoạt động của doanh
nghiệp có thể là số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng sản phẩm tiêu thụ, số giờ máy
hoạt động, doanh thu bán hàng thực hiện...
Sự biến động của chi phí trong mối quan hệ với mức hoạt động có thể xảy ra 2
trường hợp tương ứng với 2 loại biến phí:
+ Biến phí tỷ lệ: là loại biến phí mà tổng biến phí quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp
với mức độ hoạt động, còn biến phí của một đơn vị hoạt động thì không thay đổi.
+ Biến phí thay đổi không tỷ lệ trực tiếp: đó là trường hợp xét về tổng biến phí
thì có tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của khối lượng hoạt động, vì vậy biến phí của
một đơn vị khối lượng hoạt động cũng tăng lên khi khối lượng hoạt động tăng; hoặc
ngược lại, trường hợp tổng biến phí có tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng của khối

lượng hoạt động, khi đó biến phí tính cho một đơn vị khối lượng hoạt động lại giảm đi
khi khối lượng hoạt động tăng.
- Chi phí bất biến (chi phí cố định, định phí): là những chi phí mà về tổng số
không thay đổi khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động.
Định phí tồn tại dưới nhiều hình thức:
+ Định phí tuyệt đối: là những chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay
đổi khối lượng hoạt động, còn định phí của một đơn vị khối lượng hoạt động thì thay
đổi tỷ lệ nghịch trực tiếp với khối lượng hoạt động.
+ Định phí tương đối (Định phí cấp bậc): là những chi phí chỉ có tính chất cố
định tương đối, nó chỉ cố định trong một giới hạn mức độ nhất định, sau đó nếu khói
lượng hoạt động tăng lên thì khoản chi phí này sẽ lên một mức mới.
+ Định phí bắt buộc: là định phí không thể thay đổi một cách nhanh chóng,
chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức SXKD của doanh nghiệp.
Những khoản chi phí này tồn tại lâu dài trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp, vì
vậy khi quyết định đầu tư vào TSCĐ các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải cân nhắc
kỹ lưỡng vì quyết định đó sẽ gắn chặt cho với doanh nghiệp trong một thời gian lâu
dài; hoặc khi cắt giảm định phí bắt buộc cũng không thể tuỳ tiện dù chỉ cho một thời
gian ngắn vì nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi và mục đích lâu dài của doanh
nghiệp.
Định phí tuỳ ý (định phí không bắt buộc): là các định phí có thể được thay đổi
nhanh chóng bằng các quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Định phí không


bắt buộc thường liên quan đến kế hoạch ngắn hạn (thường là 1 năm) và có thể cắt bỏ
khi cần thiết.
Tuy nhiên việc phân chia định phí bắt buộc và không bắt buộc chỉ có tính chất
tương đối, tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan của các nhà quản trị doanh nghiệp. Một
khoản định phí nào đó được các nhà quản trị doanh nghiệp nhìn nhận là bắt buộc thì sẽ
rất ngần ngại khi đưa ra quyết định điều chỉnh, ngược lại nếu nhìn nhận là định khó
không bắt buộc thì có thể thường xuyên xem xét lại và điều chỉnh khi cần thiết.

- Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố định phí và
biến phí (như chi phí điện thoại...)
Để phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí, các
nhà quản trị doanh nghiệp cần phải phân tích chi phí hỗn hợp thành định phí và biến
phí. Có nhiều phương pháp để phân tích chi phí như: phương pháp đồ thị, phương
pháp bình phương bé nhất, phương pháp cực đại - cực tiểu...
Cách phân loại này được đặc biệt sử dụng trong việc lập kế hoạch, kiển tra và ra
quyết định. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết kế, xây dựng mô hình chi phí
trong mối quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn cũng
như các quyết định quan trọng. Mặt khác nó còn giúp các nhà quản trị doanh nghiệp
xác định đúng đắn phương hướng để nâng cao hiệu quả của chi phí:
- Đối với biến phí: cần thực hiện quản lý theo định mức, tìm biện pháp hạ thấp
mức tiêu hao chi phí, sử dụng vật liệu thay thế, tăng năng suất lao động, giảm sản
phâm hỏng...
- Đối với định phí: cần có biện pháp tận dụng tối đa công suất hoạt động.
Ngoài ra việc phân biệt định phí, biến phí còn là cơ sở để xây dựng dự toán chi
phí hợp lý, ứng với mọi mức hoạt động theo dự kiến.
1.1.2.7. Các cách phân loại khác liên quan đến việc ra quyết định
*Phân loại theo thẩm quyền ra quyết định
Theo cách phân loại này, nếu gắn quyền kiểm soát chi phí với một cấp quản lý
nào đó thì phân biệt thành: Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được.
Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là chi phí mà cấp đó có thẩm quyền
ra quyết định.
Việc xác định chi phí kiểm soát được và không kiểm soát được có ý nghĩa quan
trọng đối với các nhà quản trị ở từng cấp quản lý, giúp họ hoạch định được dự toán chi
phí đúng đắn hơn, hạn chế sự bị động về việc huy động nguồn lực để đảm bảo cho các


khoản chi phí. Mặt khác còn giúp nhà quản trị cấp cao đưa ra phương hướng để tăng
cường chi phí kiểm soát được cho từng cấp.

*Các loại chi phí được sử dụng trong lựa chọn các phương án
- Chi phí chênh lệch: là những khoản chi phí có ở phương án SXKD này nhưng
không có hoặc chỉ có một phần ở phương án SXKD khác. Chi phí chênh lệch là thông
tin thích hợp cho việc xem xét lựa chọn phương án đầu tư hoặc phương án SXKD tối
ưu.
- Chi phí cơ hội: là lợi ích bị mất đi do lựa chọn phương án SXKD này thay vì
chọn phương án SXKD khác.
- Chi phí chìm: là những chi phí đã phát sinh, nó có ở trong tất cả các phương
án SXKD được đưa ra xem xét lựa chọn. Nó luôn luôn là thông tin không thích hợp
cho việc xem xét lựa chọn phương án tối ưu.
1.1.3. Bản chất của giá thành sản phẩm
Giá thành sản xuất sản phẩm (công việc, lao vụ) là chi phí sản xuất tính cho một
khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp sản xuất đã
hoàn thành.
Như vậy về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm đều là
hao phí lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác của doanh
nghiệp. Song giữa chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm cũng có sự khác
nhau.
- Nói đến chi phí sản xuất là xét các hao phí trong một thời kỳ nhất định, không
phân biệt chi phí đó có liên quan tới giá thành sản phẩm hoàn thành hay chưa hoàn
thành, còn nói đến giá thành sản xuất sản phẩm là xác định một lượng chi phí sản xuất
liên quan tới sản phẩm đã hoàn thành. Đó là hai mặt của một quá trình hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp.
- Về mặt lượng, chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm có thể khác
nhau khi có sản phẩm dở dang đầu kỳ hoặc cuối kỳ, thể hiện qua công thức tính giá
thành sản xuất sản phẩm như sau:
Z = Dđk + C - Dck
Trong đó:

Z: Tổng giá thành sản xuất sản phẩm

Dđk: Trị giá sản phẩm dở đầu kỳ
Dck: Trị giá sản phẩm dở cuối kỳ.
C: Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ


Qua công thức này ta thấy chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm có
mối quan hệ rất mật thiết, chi phí sản xuất là căn cứ để tính giá thành sản xuất sản
phẩm.
Trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là
một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các nguồn lực trong quá trình
SXKD cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện để nhằm
nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
1.1.4. Các loại giá thành sản phẩm
Khác với giá thành sản phẩm trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác, giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp có đặc điểm riêng là mỗi công trình, hạng
mục công trình hay khối lượng xây dựng hoàn thành đều có một giá thành riêng. Khi
nhận thầu một công trình, giá bán (giá nhận thầu) đã có trước khi thi công công trình,
tức là giá bán có trước giá thành thực tế. Do đó giá thành thực tế của công trình chỉ
quyết định tới lãi, lỗ của doanh nghiệp do thi công công trình đó mà thôi.
1.1.4.1. Phân loại theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành 3 loại: giá
thành dự toán xây lắp công trình, giá thành kế hoạch xây lắp công trình, giá thành thực
tế xây lắp công trình.
- Giá thành dự toán xây lắp công trình được xác định như sau:
Giá thành dự toán
xây lắp công trình
Trong dó:

=


Giá trị dự toán

-

Thuế và lãi định mức

xây lắp công trình

- Giá trị dự toán của từng công trình, hạng mục công trình được

xác định dựa trên cơ sở các định mức, đơn giá của cơ quan có thẩm quyền ban hành và
dựa trên mặt bằng giá cả thị trường.
- Lãi định mức là số phần trăm trên giá thành từng sản phẩm
XDCB do nhà nước quy định đối với từng loại hình XDCB, từng sản phẩm xây lắp cụ
thể.
Giá thành dự toán của sản phẩm xây lắp là căn cứ để vạch ra các biện pháp tổ
chức kinh tế, kỹ thuật nhằm đảm bảo nhiệm vụ hạ giá thành được giao.
- Giá thành kế hoạch xây lắp công trình: dựa vào giá thành dự toán xây lắp công
trình và tình hình SXKD của mình mà doanh nghiệp lập giá thành kế hoạch xây lắp
công trình. Giá thành kế hoạch xây lắp công trình thường thấp hơn giá thành dự toán


xây lắp công trình. Phần chênh lệch giữa hai chỉ tiêu này gọi là mức hạ giá thành kế
hoạch.
Giá thành kế hoạch =

Giá thành dự toán

xây lắp công trình


xây lắp công trình

-

Mức hạ giá thành
kế hoạch

Doanh nghiệp phải khai thác mọi tiềm năng của mình đề ra các biện pháp tổ
chức quản lý sản xuất phù hợp với điều kiện thi công công trình cụ thể để hoàn thành
tốt kế hoạch hạ giá thành.
- Giá thành thực tế xây lắp công trình: Là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền được tổng
hợp từ thực tế phát sinh trong quá trình tổ chức SXKD của đơn vị từ khi bắt đầu xây
dựng đến khi hoàn thành bàn giao thanh toán công trình. Doanh nghiệp phải nỗ lực
trong tổ chức thi công xây lắp công trình để đạt được mức giá thành thực tế thấp hơn
giá thành kế hoạch. Phần chênh lệch giữa hai chỉ tiêu này được gọi là mức hạ vượt kế
hoạch giá thành xây lắp công trình. Nếu lấy giá thành thực tế xây lắp công trình so với
giá thành dự toán xây lắp công trình ta có mức hạ giá thành thực tế. Có thể diễn đạt
mối quan hệ giữa các loại giá thành qua sơ đồ 1.2
Giá trị dự toán xây lắp công trình
Giá thành dự toán
Thuế và lãi định mức
Giá thành kế hoạch
Mức hạ giá thành kế hoạch
Giá thành thực tế
Mức hạ giá thành vượt kế hoach
Mức hạ giá thành thực tế
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các loại giá thành
Qua đây có thể thấy, về mặt lượng, doanh nghiệp luôn phải và nên đảm bảo cho:
Giá thành dự toán >= Giá thành kế hoạch >= Giá thành thực tế

Vì đặc điểm sản phẩm xây lắp có thời gian thi công kéo dài nên để tiện cho việc
theo dõi và quản lý chi phí và giá thành, người ta phân chia giá thành thực tế xây lắp
công trình thành:
+ Giá thành thực tế công tác xây lắp: phản ánh giá thành của một khối lượng
công tác xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật nhất định và phải thoả mãn một số điều
kiện nhất định như nằm trong thiết kế và phải đảm bảo chất lượng kỹ thuật, phải xác
định một cách cụ thể và được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Chỉ tiêu này cho phép xác định, kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều


chỉnh cho phù hợp ở những giai đoạn sau và phát hiện ra những nguyên nhân làm tăng,
giảm chi phí.
+ Giá thành thực tế công trình, hạng mục công trình hoàn thành: là toàn bộ chi
phí bỏ ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công
đến khi hoàn thành, bàn giao cho bên A, đảm bảo chất lượng và kỹ thuật, đúng thiết
kế, đúng hợp đồng bàn giao và được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh
toán
1.1.4.2. Phân loại theo phạm vi chi phí trong giá thành
Theo cách phân loại này chia thành: giá thành sản xuất toàn bộ và giá thành
toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ.
Giá thành sản xuất toàn bộ bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung tính cho sản
phẩm hoàn thành. Còn giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ bao gồm giá thành sản
xuất toàn bộ và chi phí ngoài sản xuất (chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp)
tính cho sản phẩm tiêu thụ.
Thông tin về giá thành toàn bộ thường đóng vai trò chủ yếu trong các quyết
định mang tính chiến lược dài hạn như quyết định ngừng sản xuất hay tiếp tục sản
xuất. Tuy nhiên việc tính giá thành toàn bộ cho từng loại sản phẩm là không cần thiết
nếu doanh nghiệp không phải đứng trước quyết định mang tính chiến lược. Cho nên
khi phải đưa ra quyết định trong thời gian ngắn hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ

tiêu giá thành toàn bộ theo biến phí.
Giá thành toàn bộ theo biến phí bao gồm biến phí sản xuất (nguyên vật liệu,
nhân công, máy thi công, sản xuất chung) và biến phí ngoài sản xuất (bán hàng, quản
lý doanh nghiệp) tính cho sản phẩm tiêu thụ.
Nhờ có giá thành toàn bộ theo biến phí có thể thiết lập mô hình mối quan hệ chi
phí - khối lượng - lợi nhuận, từ đó phục vụ cho việc đưa ra các quyết định ngắn hạn,
mang tính sách lược.
Tuy nhiên trong doanh nghiệp việc phân biệt định phí và biến phí chỉ là tương
đối, mặt khác thông tin về biến phí thường hướng các nhà quản trị doanh nghiệp vào
mục đích ngắn hạn, sách lược mà bỏ qua chi phí cố định. Vì vậy để chuẩn hoá chi phí
cố định thay vì bỏ qua chi phí này, doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ tiêu giá thành toàn
bộ theo biến phí có phân bổ hợp lý định phí.
Giá thành toàn bộ theo biến phí có phân bổ hợp lý định phí bao gồm toàn bộ
biến phí và một phần định phí được phân bổ theo mức độ hoạt động chuẩn.


Nội dung của giá thành toàn bộ theo biến phí có phân bổ hợp lý định phí có thể
biểu diễn theo công thức:
n
Z = bp x SL + ĐP x
N
Trong đó: Z: giá thành toàn bộ theo biến phí có phân bổ hợp lý định phí
bp: biến phí đơn vị
SL: số lượng sản phẩm
ĐP: tổng định phí
N: mức hoạt động chuẩn
n: mức hoạt động thực tế
Phần định phí còn lại: ĐP x N-n gọi là chi phí hoạt động dưới công suất và
được ứng xử như chi phí thời kỳ, tức là được tham gia xác định kết quả hoạt động kinh
doanh trong kỳ.

1.1.4.3. Một số loại giá thành khác được sử dụng trong doanh nghiệp xây lắp
- Giá đấu thầu xây lắp (giá thành dự thầu công tác xây lắp): là một loại giá
thành dự toán xây lắp do chủ thầu đưa ra để doanh nghiệp xây lắp dựa vào tính toán
giá thành của mình.
- Giá hợp đồng công tác xây lắp: là một loại giá dự toán xây lắp ghi trong hợp
đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp sau khi thoả thuận giao
nhận thầu. Đây chính là giá thành của doanh nghiệp xây lắp thắng thầu và được chủ
đầu tư thoả thuận ký theo hợp đồng giao nhận thầu. Về nguyên tắc, giá hợp đồng chỉ
được nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp.
Việc áp dụng giá đấu thầu công tác xây lắp và giá hợp đồng công tác xây lắp là
yếu tố quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử
dụng quan hệ tiền - hàng tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong quan hệ giữa chủ đầu tư
và doanh nghiệp xây lắp trong việc chủ động tính giá thành sản phẩm của mình cũng
như chủ động trong kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trường, cạnh tranh lành
mạnh.
1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động xây lắp là một trong những hoạt động vật chất độc lập, tạo ra tài
sản cố định và là cơ sở vật chất - tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, không


giống như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, hoạt động xây lắp mang những
đặc trưng kinh tế - kỹ thuật riêng thể hiện rõ ở sản phẩm cũng như quá trình thi
công sản xuất sản phẩm. Những đặc trưng này, vì vậy có tác động tới công tác kế
toán nói chung, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói
riêng.

- Thứ nhất: Quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp được tính từ khi khởi công đến khi công
trình hoàn thành, bàn giao và đưa vào sử dụng. Quá trình này thường rất dài, chi phí
sản xuất lớn, tùy thuộc vào quy mô, tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công

trình, hạng mục công trình. Do đó thường được chia ra thành nhiều giai đoạn khác
nhau và thực hiện bàn giao, thanh toán đối với từng phần khối lượng công tác xây
lắp hoàn thành, tránh tình trạng ứ đọng vốn lâu dài tại công trình. Việc lập dự toán
và tập hợp chi phí trong xây dựng cơ bản do vậy cũng được lập cho từng công trình,
hạng mục công trình theo từng khoản mục chi phí. Doanh nghiệp xây lắp vì thế
cũng quan trọng phân loại chi phí theo khoản mục.

- Thứ hai: Hoạt động xây lắp thường diễn ra ngoài trời nên chịu ảnh hưởng nhiều của
yếu tố thời tiết, khí hậu,…Đặc điểm này làm cho các doanh nghiệp xây lắp khó
lường trước được những khó khăn như gián đoạn sản xuất do mưa, bão hoặc có rủi
ro bất ngờ cho sản xuất làm phát sinh nhiều chi phí ngoài dự toán.

- Thứ ba: Xây dựng cơ bản có tính lưu động cao theo lãnh thổ nên việc tổ chức sản
xuất trong doanh nghiệp xây lắp phổ biến theo phương pháp khoán gọn công trình,
hạng mục công trình hoặc khối lượng xây lắp cho các đơn vị trong nội bộ doanh
nghiệp. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vì thế
cũng được tổ chức theo hình thức khoán. Các đơn vị nội bộ tùy theo mức độ khoán
có thể tập hợp chi phí rồi gửi kết quả về công ty hoặc chỉ làm nhiệm vụ thu thập
chứng từ gốc ban đầu, toàn bộ công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm sẽ được thực hiện tại phòng kế toán công ty.

- Như vậy, đặc điểm hoạt động xây lắp ảnh hưởng rất lớn đến công tác tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. Do vậy, cần phải
nghiên cứu kỹ những đặc điểm này để tổ chức bộ máy kế toán phù hợp, đáp ứng yêu
cầu quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp xây lắp
Để tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đáp ứng



yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành ở doanh nghiệp, kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp cần thực
hiện tốt các nhiệm vụ sau :

- Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù
hợp với điều kiện thực hiện của doanh nghiệp.

- Vận dụng các tài khoản kế toán để hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho (kê khai thường xuyên hoặc kiểm
kê định kỳ) mà doanh nghiệp lựa chọn.

- Phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ và kết
chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí
sản xuất đã xác định, theo yếu tố chi phí và khoản mục giá thành.

- Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình,
từng loại sản phẩm xây lắp, chỉ ra khả năng và biện pháp hạ giá thành một cách hợp
lý, hiệu quả.

- Đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng mục
công trình, kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành xây lắp,
cung cấp chính xác, nhanh chóng thông tin về chi phí sản xuất, giá thành phục vụ
yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
1.4. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây
lắp dưới góc độ kế toán tài chính
1.4.1. Nguyên tắc ghi nhận chi phí
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp bao gồm:
Hoạt động sản xuất kinh doanh xây lắp và các hoạt động sản xuất kinh doanh phụ
trợ khác. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành công tác xây lắp, các
hoạt động sản xuất phụ trợ khác... một cách chính xác và kịp thời giúp doanh

nghiệp nắm bắt được tình hình tiết kiệm hay lãng phí vật tư, tiền vốn. Từ đó có các
biện pháp ngăn ngừa hay động viên khuyến khích nhằm đảm bảo cho công trình
hoàn thành với chất lượng cao, đúng tiến độ thi công, nâng cao năng suất lao động
và hạ giá thành sản phẩm công tác xây lắp. Mặt khác, việc tổ chức đúng đắn công
tác hoạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có tác dụng củng
cố và phát triển hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp.
Để đảm bảo tính thống nhất, các doanh nghiệp xây lắp phải thực hiện theo
những quy định chung của chế độ tài chính kế toán hiện hành. Theo chế độ về hạch


toán hiện nay, việc xác định giá thành sản phẩm công tác xây lắp chỉ hạch toán
những khoản chi phí cơ bản trực tiếp (bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất
chung).
Chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng (nếu có) không đƣợc hạch toán
để tính vào giá thành công tác xây lắp mà đƣợc hạch toán riêng trên các TK 642“Chi phí quản lý doanh nghiệp”; TK 641-“ Chi phí bán hàng”. Cuối kỳ, kết chuyển
sang TK 911 để xác định kết quả kinh doanh.
Những khoản chi phí khác như: chi phí đầu tư, chi phí hoạt động tài chính, chi
phí hoạt động bất thường và các khoản chi phí có nguồn bù đắp riêng có tính chất
phân phối lại không hạch toán vào chi phí, từ đó các khoản chi phí này không được
hạch toán vào giá thành.
Đây là nguyên tắc hạch toán chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm. Việc thực
hiện đúng nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc tính đúng, tính đủ hợp lý
các chi phí vào giá thành cũng như đảm bảo tính nhất quán trong kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm đối với doanh nghiệp xây lắp nói riêng và các
doanh nghiệp khác nói chung.
1.4.2. Nội dung kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp
1.4.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp

1.4.2.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp có thể phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau,
liên quan đến việc sản xuất, chế tạo các loại sản phẩm khác nhau. Mối quan tâm của
các nhà quản trị doanh nghiệp là các chi phí đó phát sinh ở đâu, dùng để sản xuất sản
phẩm nào. Do đó chi phí sản xuất trong kỳ phải được tập hợp theo một phạm vi, giới
hạn nhất định.
Vì vậy đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để chi phí sản
xuất được tập hợp theo đó. Thực chất của việc xác định đối tượng chi phí là xác định
nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, đội sản xuất...) hoặc đối tượng chịu chi phí (sản
phẩm, đơn đặt hàng...).


Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí trước hết phải căn cứ vào đặc điểm tổ
chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất sản phẩm, khả năng,
trình độ và yêu cầu quản lý chi phí và yêu cầu tính giá thành của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động xây lắp, nơi sản xuất thường ở nhiều địa điểm, tổ đội xây lắp
khác nhau nên chi phí sản xuất cũng phát sinh tại nhiều nơi khác nhau nhưng có thể
cùng liên quan đến một sản phẩm hay nhiều sản phẩm, nhiều công việc. Vì vậy, chi
phí sản xuất phải được tập hợp theo từng khoản mục trong phạm vi giới hạn nhất định
để phục vụ cho công việc tính giá thành sản phẩm.
Do đặc điểm tổ chức sản xuất, thi công của ngành XDCB thì đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất có thể là từng công trình, hạng mục công trình, từng đơn đặt hàng
hoặc từng đội xây dựng...
1.4.2.1.2. Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây lắp
Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp là các loại sản phẩm, công việc,
lao vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành cần phải tính tổng giá thành và giá
thành đơn vị. Việc xác định đối tượng tính giá thành cũng phải căn cứ vào đặc điểm tổ
chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất sản phẩm, khả năng,
trình độ và yêu cầu quản lý chi phí và yêu cầu tính giá thành của doanh nghiệp.
Do vậy đối tượng tính giá thành trong các doanh nghiệp xây lắp có thể là từng

công trình, hạng mục công trình hay phần khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao.
1.4.2.1.3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành sản phẩm
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành giống nhau ở
bản chất, đều là những phạm vi, giới hạn nhất định để tập hợp chi phí sản xuất. Tuy
vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau nhất định.
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để tổ chức kế toán chi
tiết chi phí sản xuất nhằm phục vụ cho việc kiểm soát chi phí và cung cấp cho việc
tính giá thành sản xuất theo đối tượng tính giá thành.
- Xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán mở phiếu tính giá thành
(Bảng tính giá thành) sản phẩm, lao vụ, dịch vụ được sản xuất đã hoàn thành.
Trong doanh nghiệp xây lắp, đối tượng tính giá và đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất có thể trùng nhau là công trình, hạng mục công trình hoặc khối lượng xây lắp
hoàn thành bàn giao.


Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành đúng và phù
hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có ý nghĩa rất to lớn trong việc tổ chức
kế toán tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm một cách trung thực, hợp lý.
1.4.2.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1.4.2.2.1. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất được sử dụng để tập hợp và phân bổ chi
phí cho từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác định. Tuỳ theo từng
loại chi phí và điều kiện cụ thể, kế toán có thể vận dụng phương pháp tập hợp trực
tiếp hay phương pháp phân bổ gián tiếp.
- Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát
sinh có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất riêng
biệt. Theo phương pháp này ngay từ khâu hạch toán ban đầu, chi phí sản xuất phát
sinh được phản ánh riêng cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trên chứng từ
ban đầu, sau đó căn cứ vào chứng từ thực hiện hạch toán trực tiếp chi phí sản xuất cho

từng đối tượng riêng biệt.
- Phương pháp phân bổ gián tiếp áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất
phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Theo phương pháp
này kế toán căn cứ vào chứng từ gốc tập hợp chi phí sản xuất phát sinh chung cho
nhiều đối tượng theo từng nơi phát sinh chi phí. Sau đó lựa chọn tiêu thức phân bổ
thích hợp để phân bổ các chi phí này cho từng đối tượng chịu chi phí như sau:
Ci = Ti x H
C
với H =
Ti
Trong đó: Ci: Chi phí phân bổ cho đối tượng i
Ti: Đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng i
H: Hệ số phân bổ
C: Tổng chi phí sản xuất cần phân bổ
n: Số lượng đối tượng được phân bổ chi phí
Với phương pháp này mức độ chính xác của chi phí sản xuất tính cho từng đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất phụ thuộc vào tính hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ được
lựa chọn. Tuỳ thuộc vào từng loại chi phí sản xuất cần phân bổ và điều kiện của từng
doanh nghiệp để lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý nhất.
1.4.2.2.2. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất
*Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:


Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ chi phí về nguyên liệu, vật liệu
chính (xi măng, sắt, thép gạch, đá, cát...), nửa thành phẩm mua ngoài (vật liệu kết cấu,
thiết bị gắn liền với công trình...), vật liệu phụ, nhiên liệu, các chi phí khác như chi phí
cốt pha, giàn giáo, dụng cụ sử dụng nhiều lần...... sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất
chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện lao vụ dịch vụ. Nó không bao gồm giá trị vật liệu,
nhiên liệu sử dụng cho máy thi công.
Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì tính trực tiếp cho

công trình, hạng mục công trình đó. Trường hợp không tách riêng được (như vật liệu
sử dụng luân chuyển...) thì phải tiến hành phân bổ cho từng công trình, hạng mục công
trình theo định mức tiêu hao vật liệu hoặc theo khối lượng thực hiện...
Chi phí NVL
trực tiếp trong kỳ

=

Trị giá NVL
đưa vào sử dụng

-

Trị giá phế liệu

-

thu hồi (nếu có)

Trị giá NVL
còn lại chưa sử dụng

Chứng từ sử dụng bao gồm: Phiếu xuất kho, Hoá đơn...
Để thực hiện ghi chép, tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng
TK 621- Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp. Tài khoản này dùng để phản ánh các
chi phí nguyên vật liệu phát sinh thực tế để sản xuất sản phẩm xây lắp; được mở chi
tiết cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp, các giai đoạn
công việc có dự toán riêng.



- Trình tự kế toán được khái quát theo sơ đồ 1.3.

TK 152, 611

TK154,631

TK 621 (chi tiết từng đối tượng)
Xuất vật liệu cho SXSP

(chi tiết)

Cuối kỳ kết chuyển,
phân bổ CPNVLTT
TK 111, TK 112

TK 311, TK 111, TK 112

Vật liệu mua ngoài giao thẳng choVật
SXliệu sử dụng không hết bán thu hồi
TK 152,611

TK 133

Vật liệu dùng không hết nhập lại kho
TK 411, TK 336, TK 338
Vật liệu nhận cấp phát, vay xuất cho SX
TK 153,611

TK 142


CCDC chờ phân bổ

Phân bổ
CCDC

Sơ đồ1.3: Trình tự kế toán tập hợp nguyên vật liệu trực tiếp
*Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp:
- Chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp bao gồm tiền lương
chính, các khoản phụ cấp lương, lương phụ có tính chất ổn định của công nhân trực
tiếp sản xuất và tiền thuê lao động ngoài trực tiếp xây lắp để hoàn thành sản phẩm xây
lắp theo đơn giá XDCB.
Chi phí nhân công trực tiếp được tập hợp riêng theo từng đối tượng (công
trình, hạng mục công trình). Trường hợp không tách riêng được thì phải tiến hành
phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình theo chi phí tiền lương theo định
mức hoặc kế hoạch...
Căn cứ để hạch toán là hợp đồng lao động, bảng chấm công, hợp đồng làm
khoán, bảng tính lương, bảng thanh toán tiền làm thêm giờ, làm đêm...


Để thực hiện ghi chép, tập hợp chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK
622- Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản tiền
lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp các công trình, công nhân phục vụ xây
dựng và lắp đặt (kể cả nhân công vận chuyển, bốc dỡ vật tư trong mặt bằng xây lắp) và
tiền lương của công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiện trường. TK 622 cũng được
mở chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình, giai đoạn công việc...
- Trình tự kế toán được khái quát theo sơ đồ 1.4.

TK 3341

TK 622 (chi tiết)

Tiền lương phải trả

TK 3342

CNTTSX trong danh sách

TK 154,631 (chi tiết)

Cuối kỳ kết chuyển, phân bổ
CPNCTT cho từng công trình, HMCT

Trường hợp thuê ngoài trả lương trực tiếp
TK 335
Trích trước tiền lương phép của CNTTSX

Sơ đồ1.4: Trình tự kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
*Kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công:
- Máy móc thi công là các loại xe máy có động cơ được sử dụng trực tiếp để thi
công xây lắp các công trình như: máy trộn bê tông, trộn hồ vữa, máy đào đất, máy xúc
đất, máy đóng cọc, ô tô vận chuyển đất đá trong công trường... Các loại phương tiện
máy thi công này doanh nghiệp xây lắp có thể thuê ngoài hoặc tự trang bị để khai thác
sử dụng lâu dài .
Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân công và
các chi phí khác phát sinh trong quá trình sử dụng máy thi công để thực hiện khối
lượng công việc xây lắp bằng máy theo phương pháp thi công hỗn hợp vừa thủ công
vừa bằng máy. Chi phí máy thi công gồm các khoản như: chi phí nhân công (lương
chính, lương phụ, phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp điều khiển máy thi công),
chi phí vật liệu (nhiên liệu, vật liệu dùng cho máy thi công), chi phí khấu hao máy thi



công, chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho máy thi công... Người ta có thể chia chi phí
sử dụng máy thi công thành 2 loại là chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời:
+ Chi phí thường xuyên: Là những chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng xe
máy thi công và được tính thẳng vào giá thành của ca máy như tiền lương của công
nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí nhiên liệu động lực, khấu hao cơ bản, chi phí
sửa chữa thường xuyên, tiền thuê xe máy thi công.
+ Chi phí tạm thời: là những chi phí phải phân bổ dần theo thời gian sử dụng
máy thi công như: chi phí tháo, lắp, thử máy, vận chuyển máy đến công trường và di
chuyển máy trong quá trình sử dụng ở công trường, chi phí về xây dựng và tháo dỡ
công trình tạm loại nhỏ (lều, lán...) phục vụ cho việc sử dụng máy thi công...
Chi phí sử dụng máy thi công được tập hợp riêng theo từng đối tượng (công
trình, hạng mục công trình). Trường hợp không tách riêng được thì phải tiến hành
phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình theo số ca máy hoạt động, sản
lượng thực hiện...
Căn cứ để hạch toán là Hợp đồng thuê máy, Hoá đơn, Bảng chấm công...
Để tập hợp chi phí sử dụng máy thi công, kế toán sử dụng TK 623 TK154,631
- Chi phí sử
TK 111, 152, 153, 611...
TK 623
dụng máy thi công. Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy thi
công phục vụVật
trực
tiếpdụng
chocụ
hoạt
(doanh
nghiệp
liệu,
sảnđộng
xuất xây lắp công

Cuốitrình
kỳ kết
chuyển,
phânxây
bổ lắp thực
hiện theo phương thức thi công hỗn hợp).
phục vụ máy thi chi
công
phí máy thi công cho từng công trình, hạng mục công trình
- Trình tự kế toán được khái quát theo sơ đồ 1.5.
TK 334
(Trường hợp doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng hoặc
Lương
côngriêng
nhânnhưng
điều không hạch toán riêng cho đội máy thi công).
có tổ chức đội máy
thi công
khiển máy thi công
TK 214
Trích khấu hao
máy thi công
TK 142, 242, 335
Sửa chữa lớn máy thi công


TK 111, 112, 331
Chi phí dịch vụ mua ngoài,
chi phí khác bằng tiền
TK 133

Thuế GTGT

Sơ đồ1.5: Trình tự kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công.
*Kế toán chi phí sản xuất chung:
- Chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp là những chi phí có liên quan đến
việc tổ chức, phục vụ và quản lý thi công của các đội thi công xây lắp và ở các công
trường xây dựng. Chi phí sản xuất chung là khoản mục chi phí tổng hợp bao gồm
nhiều nội dung chi phí khác nhau và đều có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng
xây lắp như: tiền lương nhân viên quản lý đội xây dựng, BHXH, BHYT, KPCĐ trích
theo tỷ lệ 19% trên tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân sử
dụng máy, nhân viên quản lý đội và các chi phí khác có liên quan trực tiếp tới hoạt
động của đội.
Các chứng từ liên quan đến hạch toán chi phí sản xuất chung là: Bảng chấm
công, Phiếu xuất kho, Bảng phân bổ khấu hao TSCĐ, Hoá đơn...


×