Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.11 KB, 19 trang )

Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là một trong những trụ cột chính của an sinh xã hội được Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm bởi nó có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Bảo
hiểm xã hội giúp người lao động bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút trong quá
trình lao động đảm bảo các quyền của người được hưởng khi gặp rủi ro trong cuộc sống
đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước luôn quan tâm đến chính sách về con
người.
Trong cuộc sống con người phải tuân theo quy luật phát triển và sự sinh tồn của tự
nhiên nên khi rơi vào các trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hay do sự tác động của kinh tế thị trường thì người
lao động cần có một khoản vật chất giúp đỡ người lao động giải quyết những khó khăn
đó. Vì thế, việc tham gia Bảo hiểm xã hội của người lao động là hết sức cần thiết trong
đó có sự can thiệp điều chỉnh của Nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho người lao động
khi gặp rủi ro và xác định trách nhiệm pháp lý của người sử dụng lao động và người lao
động khi người lao động gặp phải khó khăn thông qua đóng góp nghĩa vụ tài chính bắt
buộc.
Bảo hiểm thai sản là một trong những chế độ của Bảo hiểm xã hội bắt buộc nằm
song hành với các chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, chế độ bảo hiểm hưu trí…Bảo hiểm thai sản ngoài chức năng đảm bảo thu
nhập cho người lao động khi công việc lao động tạm thời bị gián đoạn nó còn góp phần
quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, đảm bảo quyền được chăm
sóc của trẻ em. Vì sự ưu việt của chế độ Bảo hiểm thai sản có tầm quan trọng đặc biệt
đối với lao động nữ nói chung tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm
mẹ vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội nên việc nghiên cứu
đề tài “chế độ Bảo hiểm thai sản ở Việt Nam” là rất cần thiết. Hơn nữa, đề tài có ý nghĩa
thiết thực giải quyết các vấn đề về bảo hiểm thu nhập và đảm bảo sức khoẻ cho lao động
nữ nói riêng khi mang thai, sinh con và cho người lao động nói chung khi nuôi con nuôi,
thực hiện các biện pháp tránh thai…
Công tác thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hồ


Chí Minh trong những năm qua đã có nhiều bước phát triển, đối tượng người lao động
1

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

được tham gia đóng bảo hiểm xã hội ngày càng tăng, nguồn thu quỹ bảo hiểm ngày càng
cao, ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện việc chi trả các chế độ chính sách cho người
lao động theo đúng quy định của Nhà nước, góp phần giúp người lao động khắc phục
khó khăn, ổn định đời sống, an tâm công tác, tạo được sự đồng thuận lớn trong nhân dân.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều đơn vị sử dụng
lao động còn thiếu ý thức trong việc chấp hành Luật Bảo hiểm xã hội, đặc biệt các doanh
nghiệp mới được thành lập trong quá trình đổi mới, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do
chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội trong việc
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động và quá trình phát triển của doanh nghiệp,
chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt nên nhiều chủ doanh nghiệp đã trốn tránh trách nhiệm
tham gia bảo hiểm xã hội dưới nhiều hình thức như: Không kê khai đúng số lượng lao
động, ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn theo dạng chuỗi, không đóng bảo hiểm xã hội
cho người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo đúng quy định,
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, vi phạm
pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị - xã hội. Vấn đề này thường xuyên
gặp phải ở các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước nên tôi đã chọn đề tài : “ Xử lý tình
huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản” để làm bài tiểu
luận cuối khoá và đưa ra một tình huống cụ thể về vấn đề trên.
Chọn đề tài xử lý tình huống trên, với mong muốn thông quá trình phân tích,
nguyên nhân và hậu quả, xác định mục tiêu xử lý tình huống để đưa ra được phương án
giải quyết phù hợp, đảm bảo cho các quy định về bảo hiểm xã hội được thực thi trên
thực tế, đồng thời góp tiếng nói của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng,

hợp pháp cho người lao động, góp phần hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay.
Lần đầu tiên làm quen với đề tài tình huống trong quản lý, mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng với những hạn chế về thời gian, trình độ chuyên môn và nhận thức của bản
thân, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót về mặt nội dung cũng như hình thức,
rất mong nhận được ý kiến phê bình của các thầy giáo, cô giáo Lớp 49B và các đồng
nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh và có tính khả thi cao.
Xin chân thành cảm ơn!

2

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

PHẦN NỘI DUNG:
1. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Bà Nguyễn Thị P sinh năm 1986, là con đầu trong một gia đình nông dân nghèo,
có bốn anh chị em, ở Huyện Bình Chánh. Trong điều kiện hoàn cảnh gia đình gặp nhiều
khó khăn, nhưng vì không muốn những đứa con của mình phải chịu thiệt thòi, ông bà đã
quyết tâm cho các con ăn học hy vọng sau này có được việc làm ổn định. Với bản tính
cần cù, chịu thương, chịu khó, chắt chiu tằn tiện, sự giúp đỡ của bà con xóm, làng và
chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các chị em của bà Nguyễn Thị P vẫn được học hành
đầy đủ.
Tháng 7 năm 2008, Nguyễn Thị P tốt nghiệp Trường trung cấp Kinh tế với tấm
bằng trung cấp kinh tế chuyên ngành Kế toán doanh nghiệp, loại khá. Tuy nhiên, để tìm
được việc làm phù hợp với khả năng và trình độ chuyên môn như bà P trong giai đoạn
hiện nay không phải là điều dễ dàng.
Sau thời gian dài tìm việc làm ở hầu khắp các doanh nghiệp trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 01/6/2009 bà Nguyễn Thị P được Công ty trách nhiệm hữu hạn

(TNHH) B tiếp nhận vào làm việc (theo loại hợp đồng thời vụ 3 tháng/lần), công việc cụ
thể làm nhân viên thống kê lao động tại Phân xưởng sản xuất Vật liệu xây dựng của
Công ty. Sau 6 tháng làm việc với 2 lần ký hợp đồng thời vụ, thấy khả năng làm việc tốt,
đức tính thật thà, năng động, sáng tạo trong công việc, Giám đốc Công ty đã ký hợp
đồng có xác định thời hạn 2 năm với bà P từ ngày 01/12/2009 để đảm bảo trách nhiệm
và quyền lợi của cả hai phía.
Công ty TNHH B có trụ sở đóng tại phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2 - Thành phố
Hồ Chí Minh, được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2006 theo Luật Doanh
nghiệp, cơ cấu tổ chức gồm: Văn phòng Công ty, 2 đội thi công công trình và 1 phân
xưởng sản xuất vật liệu xây dựng. Số lượng lao động sử dụng thường xuyên khoảng 76
người. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của Công ty: Xây dựng dân dụng, giao
thông, thuỷ lợi; sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng.
Đầu năm 2010 bà Nguyễn Thị P lập gia đình với ông Nguyễn Văn C tại thành phố
Hồ Chí Minh. Sau thời gian mong mỏi đợi chờ, ngày 09/01/2012 bà P sinh cháu trai đầu
lòng trong niềm vui sướng, hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ và gia đình hai bên.
3

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Bà P nghỉ sinh 4 tháng theo chế độ, nhưng trong 4 tháng đó bà không nhận được
tháng lương nào. Ông C một mình nuôi vợ trong thời gian vợ nghỉ sinh và con nhỏ chỉ
bằng một suất lương của mình nên gia đình gặp nhiều khó khăn, túng thiếu về kinh tế,
ông thường hay cáu gắt, bực bội mỗi khi nói đến vấn đề thu nhập, chi tiêu trong gia đình.
Bởi vì, tại cơ quan nơi ông đang làm việc có cô nhân viên văn phòng nghỉ sinh con cùng
thời điểm với vợ ông thì đã được Bảo hiểm xã hội thanh toán chế độ thai sản từ tháng
2/2012. Ông A đã liên lạc với Công ty TNHH B, nơi bà P đang làm việc đề nghị thanh
toán chế độ thai sản cho vợ ông và được trả lời là Bảo hiểm xã hội thành phố không giải

quyết. Đến ngày 01/5/2012 thì bà P đi làm và hỏi lại cụ thể lý do tại sao không giải quyết
chế độ thai sản thì Công ty TNHH B không trả lời được, đã thế cô cán bộ phụ trách bảo
hiểm xã hội của Công ty còn nói: “qua Bảo hiểm xã hội mà hỏi”. Sự thiếu trách nhiệm
của cán bộ công ty đã làm cho bà P hết sức bất bình. Ngày 10/5/2012, bà P viết đơn
khiếu nại gửi Bảo hiểm xã hội thành phố, với nội dung như sau:
Kính gửi: Bảo hiểm xã hội thành phố.
Tôi tên Nguyễn Thị P xin trình bày với quý cơ quan sự việc như sau:
Tôi đang làm việc tại Công ty TNHH B, ngày 01/01/2012 tôi nghỉ sinh, sau thời
gian 4 tháng được nghỉ theo quy định, đến ngày 01/5/2012 tôi đã đi làm. Trước khi sinh
con, tôi có thời gian công tác tại Công ty TNHH B và tham gia bảo hiểm xã hội là 01
năm 01 tháng (hàng tháng Công ty đều khấu trừ tiền đóng bảo hiểm xã hội vào tiền
lương của tôi). Chiếu theo Luật Bảo hiểm xã hội thì tôi đủ điều kiện để hưởng chế độ
thai sản như quy định.
Để đảm bảo quyền lợi cho bản thân và gia đình, tôi làm đơn này đề nghị
Bảo hiểm xã hội thành phố giải quyết chế độ thai sản cho tôi. Tôi nghĩ rằng Công ty
TNHH B phải có trách nhiệm thanh toán chế độ thai sản cho tôi nhưng khi hỏi cán bộ
phụ trách bảo hiểm của Công ty thì họ trả lời là Bảo hiểm thành phố không giải quyết, và
cho đó là trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội.
Vậy tôi viết đơn này yêu cầu Bảo hiểm xã hội trả lời lý do tại sao không thanh
toán chế độ thai sản cho tôi.

4

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Là cơ quan nhà nước, chịu trách nhiệm các vấn đề về chế độ bảo hiểm xã hội cho
người lao động, tôi yêu cầu Bảo hiểm xã hội thành phố phải trả lời trong thời gian 30

ngày để tôi còn có thời gian khiếu kiện lên cấp cao hơn khi tôi thấy chưa thoả đáng.
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị P gửi, cơ quan Bảo hiểm xã
hội thành phố đã khẩn trương rà soát hồ sơ tham gia Bảo hiểm xã hội của Công ty
TNHH B và thấy rằng: Danh sách tham gia bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH B chưa
có tên bà Nguyễn Thị P, cán bộ chính sách cho biết hồ sơ đề nghị thanh toán thai sản cho
bà Nguễn Thị P của công ty TNHH B chuyển sang ngày 01/02/2012, nhưng cán bộ
chính sách Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH trả lại, lý do là Công ty TNHH B chưa báo
tăng lao động bà Nguyễn Thị P và Công ty còn nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội quý III
và quý IV/2011 vẫn chưa chuyển trả. Với nguyên tắc có đóng góp thì mới có thụ hưởng
nên bảo hiểm xã hội không thanh toán.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia Bảo hiểm xã
hội bắt buộc đối với người lao động: người làm việc theo hợp đồng lao động không xác
định thời hạn, hợp đồng lao động có đủ từ 3 tháng trở lên; cán bộ công chức, viên
chức…và tại Điều 4 quy định các chế độ người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được
hưởng bao gồm: Chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại
Điều 91 và Điều 92 của Luật Bảo hiểm xã hội và hàng tháng trích từ tiền lương, tiền
công của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Điều 141 Bộ luật Lao động quy định, bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối
với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên. Ở những doanh nghiệp
này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định
và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thai sản,hưu trí và tử tuất.
Vấn đề đặt ra là: Người lao động đã hội đủ các điều kiện thì phải được đóng bảo
hiểm xã hội và được hưởng các chế độ theo quy định, còn cơ quan, đơn vị, cá nhân nào
làm sai thì phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật. Bảo đảm cho người lao động
được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình theo quy định, yên tâm
5


Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

công tác, tạo năng suất lao động cao hơn, giữ vững lòng tin đối với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Đối chiếu với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động thì bà
Nguyễn Thị P thuộc diện tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc và được hưởng các quyền
lợi về chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
2. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT :
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Không vì mục
đích kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế cần phải tuân thủ và áp dụng đúng
quy định của pháp luật, nhằm mục đích an sinh và an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội chứa
đựng nhiều ý nghĩa lớn lao, đó là tính nhân đạo, tính nhân văn của xã hội chủ nghĩa.
Tính pháp lý liên quan đến tình huống :
- Căn cứ Luật bảo hiểm xã hội 2006
- Căn cứ Luật doanh Nghiệp 2005
- Căn cứ Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ. Hướng
dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Căn cứ Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 22/12/2007 của Bộ Lao động
-Thương binh và xã hội. Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo
hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Quyết định số 815/QĐ-BHXH ngày 06/6/2007 của bảo hiểm xã hội Việt Nam
quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Vì vậy mục tiêu xử lý cần đạt được như sau:
-Thứ nhất, bà Nguyễn Thị P phải được hưởng chế độ thai sản và các quyền lợi
khác của người lao động theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động.

Xây dựng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong
doanh nghiệp ngày càng gắn bó, trách nhiệm, tạo niềm tin cho người lao động yên tâm
công tác, phát huy hết khả năng của mình trong công việc.
-Thứ hai, Công ty TNHH B phải kịp thời báo tăng số lượng người lao động và
trích nộp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, đảm bảo kỷ cương phép nước,
6

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

tính nghiêm minh của pháp luật, khẳng định đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về bảo hiểm xã hội là hoàn toàn đúng đắn, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.
-Thứ ba, bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia bảo
hiểm xã hội, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong quá trình sản
xuất, kinh doanh.
-Thứ tư, nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao
động trong quá trình đóng và thụ hưởng bảo hiểm. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ
công chức, viên chức, cơ quan Bảo hiểm xã hội trong quá trình thực thi công vụ.
Việc tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không chỉ là quyền lợi và
trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội mà
còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, của các đoàn thể quần chúng và
các tổ chức xã hội. Vì vậy, thực hiện xã hội hoá trong công tác bảo hiểm xã hội là việc
làm cần thiết và phù hợp với xu thế hiện nay.
3 . PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
Từ sự việc Công ty TNHH B không thực hiện đúng các quy định của pháp luật
lao động, không đăng ký tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn Thị P, nợ tiền
đóng bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2011, không thanh toán chế độ thai sản cho bà P
khi bà nghỉ sinh, dẫn đến việc bà P phải khiếu nại lên Bảo hiểm xã hội thành phố, theo

tôi có các nguyên nhân và hậu quả sau đây:
3.1 Nguyên nhân
3.1.1 Nguyên nhân chủ quan
Đối với bà P :
Chưa tự trang bị cho mình kiến thức cơ bản về pháp luật lao động, thiếu hiểu biết
về quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong quá trình tham gia lao động. Ở đây, bà P
gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Công ty TNHH B, chỉ biết mình được nhận vào làm
việc là may mắn rồi nên không dám đề đạt nguyện vọng gì thêm, kể cả trong trường hợp
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Đối với công ty TNHH B
- Giám đốc Công ty chưa nhận thức đầy đủ các điều kiện ràng buộc hoạt động của
một doanh nghiệp và những yếu tố xã hội có tác động thúc đẩy sản xuất phát triển trong
7

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp mới chỉ chú trọng đầu tư sản xuất kinh doanh, chạy
theo lợi nhuận, chưa quan tâm đến quyền lợi của người lao động, chưa nhận thấy lực
lượng lao động là một trong những yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp.
- Không báo tăng tham gia bảo hiểm cho người lao động và đóng nộp Bảo hiểm
xã hội theo đúng quy định, xem đây là một trong những biện pháp tình thế để ổn định tài
chính doanh nghiệp phục vụ sản xuất.
Đối với Tổ chức công đoàn của Công ty
Chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là tuyên truyền giáo
dục, nâng cao nhận thức về pháp luật cho người lao động, đặc biệt là các quyền và nghĩa
vụ của người lao động trong doanh nghiệp; chưa kịp thời nắm bắt tình hình và có biện

pháp bảo vệ người lao động khi quy ền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm
pham.
Đối với Bảo hiểm Xã hội thành phố
Chưa kịp thời nắm số lao động tăng của đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, để buộc
Công ty THHH B phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho những người lao động theo
quy định, chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc thu nợ tiền bảo hiểm xã hội, để đơn vị
nợ đọng lâu ngày, gây khó khăn trở ngại cho quá trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã
hội, làm ảnh hưởng quyền lợi cho người lao động.
3.1.2 Nguyên nhân khách quan
Công tác quản lý nhà nước ở các cấp đối với Công ty TNHH B nói riêng và các
doanh nghiệp trên địa bàn nói chung còn buông lỏng, thiếu sự đồng bộ, công tác thanh
kiểm tra của các cơ quan chức năng có nơi, có lúc chưa kiên quyết, còn “nhẹ tay” khi xử
lý những vi phạm của doanh nghiệp.
Một số văn bản quy phạp pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về chế độ bảo
hiểm xã hội còn bất cập, chưa chặt chẽ, tính hiệu lực chưa cao, cơ quan bảo hiểm xã hội
được giao tránh nhiệm quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội nhưng không có chức năng
quản lý nhà nước về lao động, không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực này.

8

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

- Các biện pháp để thu nợ bảo hiểm xã hội đã được quy định, như bắt buộc nộp lãi
đối với các đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ mạnh vì họ sẵn sàng nộp lãi
còn hơn phải vay ngân hàng để nộp bảo hiểm xã hội. Nộp lãi bảo hiểm xã hội không cần
làm các thủ tục phức tạp và lãi suất thấp, trong khi vay ngân hàng cần phải có các thủ tục

thế chấp, phương án sản xuất…
- Công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể có tích cực, nhưng chưa sâu rộng,
các cơ quan thông tin đại chúng chưa thực sự xem công tác này là trách nhiệm của mình.
Về phía cơ quan Bảo hiểm xã hội mặc dù có tích cực trong công tác, song chưa có
biện pháp hữu hiệu để đạt kết quả cao, một số tổ chức xã hội chưa tích cực, năng động
trong công tác này.
- Người lao động rất khó khăn tìm được việc làm, họ rất ngại khi phải khiếu nại
hoặc đề xuất yêu cầu với người sử dụng lao động vì đó cũng là một trong những lý do để
dẫn đến mất việc làm như hiện nay. Trong khi chúng ta vẫn chưa có được một thị trường
việc làm để người lao động có điều kiện lựa chọn và bình đẳng khi tham gia ký kết hợp
đồng lao động với người sử dụng lao động theo đúng nghĩa của nó. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân để các doanh nghiệp thường xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động mà người lao động không dám lên tiếng.
3.2. Hậu quả
- Về cá nhân bà P và gia đình: Không được giải quyết chế độ thai sản kịp thời nên
đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của gia đình, đặc biệt là trong giai đoạn giá cả
sinh hoạt tăng cao như hiện nay.
- Về mặt quản lý Nhà nước: Việc thực hiện pháp luật bị hạn chế, làm ảnh hưởng
đến tính nghiêm minh của pháp luật. Chưa bảo đảm sự công bằng giữa các doanh nghiệp
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo dư luận không tốt trong nhân dân.
- Về mặt xã hội: Một bộ phận người lao động qua tình huống này sẽ chưa thực sự
tin tưởng vào cán bộ, công chức, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, ảnh
hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện.

9

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc



Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

- Uy tín lãnh đạo Công ty, tổ chức Công đoàn của doanh nghiệp bị giảm sút,
người lao động mất niềm tin, không yên tâm công tác, năng suất, chất lượng và hiệu quả
lao động giảm, ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động.
4. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Qua phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống, để đạt được các mục tiêu
đã xác định tôi đề xuất các phương án giải quyết và lựa chọn phương án giải quyết như
sau:
4.1 Phương án 1:
Công ty TNHH B chủ động thanh toán chế độ thai sản cho bà P. Sau đó làm việc
với Bảo hiểm xã hội thành phố để quyết toán chế độ thai sản của bà P cho Công ty
TNHH B nhằm giảm bớt phần nào khó khăn trong cuộc sống cho gia đình bà P.
Bởi vì theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội và công
văn số 17/BHXH-TP ngày 02/01/2009 của Bảo hiểm xã hội Thành phố hướng dẫn: “Kể
từ ngày 01/01/2009 trở đi người sử dụng lao động giữ lại 2% số phải nộp để trả kịp thời
cho người lao động đủ điều kiện huởng chế độ (ốm đau và thai sản) theo quy định. Hàng
quý hoặc hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm quyết toán kinh phí này với
cơ quan Bảo hiểm xã hội theo quy định.
Kể từ tháng 01/2009, khi quyết toán số tiền đóng BHXH, BHYT của các đơn vị,
cơ quan BHXH sẽ trừ lại 2% số phải nộp, nếu đơn v ị nào hàng tháng không giữ lại 2%
để chi trả chế độ ốm đau, thai sản thì phải có công văn đề nghị gửi cơ quan BHXH các
huyện, thành phố, để có cơ sở giải quyết”.
 Ưu điểm:

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt, đảm bảo quyền lợi cho bà Nguyễn Thị H,
lấy lại lòng tin cho người lao động, tránh được những dư luận không có lợi cho công ty.
 Nhược điểm:

Gây ra sự ngộ nhận về tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho người lao động

không tự mình quan tâm đến quyền lợi của mình và đi đến ỷ lại, họ nghĩ rằng chỉ cần
viết đơn là giải quyết ngay, chưa đảm bảo được tính công bằng và quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm.

10

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Số tiền nợ bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH B vẫn còn, ảnh hưởng đến nguồn
thu bảo hiểm, tạo tiền lệ xấu trong quá trình gải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, làm mất
lòng tin vào tính ưu việt của xã hội ta cũng như chế độ chính sách của Đảng và Nhà
nước.
4.2 Phương án 2:
Bảo hiểm xã hội chủ động đứng ra làm đơn vị triệu tập viên, mời bà Nguyễn Thị
P, Công ty TNHH B, Công đoàn Công ty TNHH B đến cơ quan Bảo hiểm xã hội thành
phố làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót, trách nhiệm thuộc về ai. Từ đó yêu cầu
Công ty TNHH B phải tiến hành làm thủ tục báo tăng kịp thời cho bà Nguyễn thị
P, truy nộp bảo hiểm xã hội, để giải quyết chế độ thai sản cho bà P, đảm bảo quyền lợi
cho người lao động.
Cán bộ chính sách tính toán số tiền chế độ thai sản cho bà P với cách tính được
quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội như sau:
Bà P có hệ số lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,86.
Mức lương tối thiểu chung được áp dụng để tính là: 730.000 đồng (thời điểm bà P
nghỉ sinh con).
Với 4 tháng nghỉ sinh hưởng chế độ thai sản (quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều
31 Luật Bảo hiểm xã hội: “Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
là 4 tháng nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường”. bà H

được hưởng số tiền:
1,86 x 730.000đ x 4 tháng = 5.431.200 đồng
Bà P được hưởng thêm 2 tháng lương tối thiểu trợ cấp một lần khi sinh (quy định
tại Điều 34, Luật Bảo hiểm xã hội: “ Lao động động nữ sinh con hoặc nhận con nuôi
dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi
con”)
2 tháng x 730.000đ = 1.460.000 đồng.
Tổng cộng số tiền bà P được hưởng là:
5.430.200đ + 1.460.000đ = 6.891.200 đồng.
 Ưu điểm:

11

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Đảm bảo tính pháp chế, tính công bằng, tinh thần thái độ phục vụ của
cán bộ trong đơn vị sử dụng lao động được cải thiện, với mục tiêu “tất cả vì quyền lợi
người lao động”.
Đảm bảo hợp tình, hợp lý, thu hút được đối tượng tham gia bảo hiểm, góp phần
đẩy nhanh công tác xã hội hoá bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng minh tính đúng
đắn trong thực tiễn, việc bổ sung, sửa đổi một số quy định trong quản lý, trong xử lý quy
trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm
sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động.
 Nhược điểm

Cán bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội phải tập trung đầu tư thời gian để xử lý, gia đình
bà Nguyễn Thị P và người lao động trong Công ty có thể ngộ nhận, trách nhiệm sai sót

thuộc về cơ quan Bảo hiểm xã hội.
4.3 Phương án 3:
Yêu cầu Công ty TNHH B trích kinh phí thường xuyên, giải quyết trợ cấp khó
khăn cho gia đình bà Nguyễn Thị P với số tiền bằng tiền chế độ thai sản.
 Ưu điểm:

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt cho gia đình bà Nguyễn Thị P.
 Nhược điểm:

Công ty TNHH B và Bảo hiểm xã hội thành phố chưa thực hiện đúng quy định
của pháp luật, không gắn trách nhiệm của Công ty với quyền lợi lâu dài của người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội (thời gian và mức đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để giải
quyết các chế độ khác cho người lao động sau này như hưu trí, tử tuất, tai nạn lao
động...), tính khả thi không cao vì phải phụ thuộc vào sự tự giác của Công ty TNHH B.
4.4 Lựa chọn phương án giải quyết tình huống :
Quá trình phân tích, đối chiếu với mục tiêu đã xác định với ba phương án đã trình
bày ở trên, phương án nào cũng có mặt ưu và nhược. Tuy nhiên, trong trường hợp này
tôi lựa chọn phương án 2 là phương án để giải quyết, vì trong các phương án đã xây
dựng, nó là phương án tối ưu. Thực hiện phương án này sẽ đảm bảo tính công bằng, tính
nghiêm minh của pháp luật, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ cơ quan Bảo
hiểm xã hội và các đơn vị sử dụng lao động, với mục tiêu “tất cả vì quyền lợi người lao
12

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

động”, vừa đảm bảo hợp lý, hợp tình, thu hút được đối tượng tham gia, góp phần đẩy
nhanh công tác xã hội hóa bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng minh tính đúng đắn

trong thực tiễn về việc bổ sung sửa đổi một số quy định trong quản lý, trong xử lý quy
trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm
sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động.
5. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN LỰA CHỌN
Để thực hiện tốt phương án đã được lựa chọn, đòi hỏi sự phối hợp thực hiện giữa
người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội một cách khoa học
chặt chẽ, đầy đủ thủ tục, theo đúng trình tự các bước, đảm bảo quyền lợi cho người lao
động được giải quyết đúng, đủ và kịp thời.
Các bước tiến hành cụ thể
Bước một: Bảo hiểm xã hội thành phố thông báo mời Công ty TNHH B, bà
Nguyễn Thị P và đại diện tổ chức công đoàn công ty tới cơ quan Bảo hiểm xã hội để làm
việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót của cá nhân, tổ chức có liên quan đến sự việc, chỉ
rõ hậu quả mà Công ty phải gánh chịu nếu vẫn cố tình không báo tăng và đóng bảo hiểm
cho người lao động theo đúng quy định, trên tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Thống
nhất cách thức, trình tự các bước, thời gian thực hiện. Yêu cầu các bên có liên quan phải
cam kết thực hiện nghiêm túc.
Bước hai - Trách nhiệm của bà P: Phải gặp trực tiếp cán bộ ph ụ trách các chế độ
bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH B, thực hiện đối chiếu các hồ sơ, hợp đồng lao động
đầy đủ, đồng thời đề nghị cán bộ phụ trách tiến hành làm thủ tục báo tăng bảo hiểm xã
hội cho bà kịp thời, đúng quy định.
- Trách nhiệm của Công ty TNHH B: Tiến hành cân đối tài chính, tìm nguồn ưu
tiên truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội đầy đủ, tiến hành làm các thủ tục để báo tăng lao
động và thanh toán chế độ thai sản cho bà P, đồng thời rà soát lại trong Công ty TNHH
B còn chế độ nào của người lao động từ trước đến nay chưa thanh toán, khẩn trương xem
xét, giải quyết.
- Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội thành phố: Khẩn trương phối hợp và đốc thúc
Công ty TNHH B tiến hành nhanh chóng các thủ tục như báo tăng lao động, truy nộp

13


Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

phần nợ bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2011. Tiến hành thanh toán kịp thời chế độ
thai sản cho bà H và những trường hợp khác trong Công ty (nếu có).
Bước ba: Bảo hiểm xã hội thành phố hướng dẫn Công ty TNHH B thực hiện báo
tăng theo mẫu 02a-TBH. Tiến hành đối chiếu tiền chênh lệch do nợ bảo hiểm xã hội quý
III và quý IV/2011. Hướng dẫn Công ty lập danh sách truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế bắt buộc theo mẫu số 03-TBH.
Công ty TNHH B sau khi hoàn tất xong các thủ tục, tiến hành truy nộp số tiền nợ
đóng bảo hiểm xã hội vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội của cơ quan bảo hiểm xã hội,
qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố hoặc tài khoản tại kho
bạc Nhà nước thành phố.
-Bước bốn: Bảo hiểm xã hội thành phố sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ và giấy
báo đã chuyển vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội, tiến hành kiểm tra duyệt
danh sách đề nghị hưởng chế độ thai sản theo mẫu số C67a - HD để chi trả cho đối
tượng kịp thời, đúng quy định hiện hành, đảm bảo quyền lợi cho bà Nguyễn Thị P, góp
phần giảm bớt khó khăn cho gia đình.
-Bước năm: Bảo hiểm xã hội tổ chức họp kiểm điểm, rút kinh nghiệp, đề xuất
biện pháp tăng cường quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn.
Công ty TNHH B tổ chức cuộc họp kiểm điểm việc không làm thủ tụ báo tăng kịp
thời cho người lao động, không trích nộp bảo hiểm kịp thời theo quy định. Lãnh đạo
Công ty tìm mọi biện pháp đẩy mạnh sản suất kinh doanh, ổn định tình hình tài chính
doanh nghiệp, bảo đảm đủ các nguồn chi theo đúng quy định.
6. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN :
6.1 Kiến nghị :
Qua tình huống trên để thực hiện tốt việc quản lý Nhà nước về công tác bảo hiểm
xã hội, bảo đảm nguồn thu vào quỹ bảo hiểm xã hội đúng, đủ, kịp thời, đồng thời giải

quyết đầy đủ quyền lợi cho người lao động, tôi có một số kiến nghị như sau:
1. Đối với cơ quan nhà nước ở Trung ương

- Luật bảo hiểm xã hội được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 29/6/2006; có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Nghị định 152/NĐ-CP ngày
22/12/2006 và một số văn bản hướng dẫn khác đã đánh dấu một bước tiến trong quản lý
14

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

nhà nước thuộc lĩnh vực an sinh, an toàn xã hội. Tuy nhiên, tình trạng không đăng ký
tham gia bảo hiểm cho người lao động khi có đủ điều kiện và nợ đọng bảo hiểm xã hội
vẫn còn xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp, trên phạm vi cả nước. Hiện nay, pháp
luật có quy định thêm biện pháp mới là tính tiền lãi chậm nộp cho các đơn vị nợ đọng
bảo hiểm, tuy nhiên biện pháp này tỏ ra không mấy hiệu quả trên thực tế. Do vậy, trước
mắt các cơ quan nhà nước cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và đồng bộ trong
công tác quản lý nhà nước về lao động.
Còn về lâu dài cần phải có cơ chế hoàn thiện đồng bộ và hiệu quả trong việc quản
lý nguồn thu bảo hiểm xã hội, cần xem xét theo hướng giao trách nhiệm thu bảo hiểm xã
hội cho cơ quan thuế, tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ, nguồn thu và kịp thời xử lý các đối
tượng vi phạm. (cơ quan bảo hiểm xã hội có nhiệm vụ quản lý nguồn thu bảo hiểm
nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực lao động và bảo hiểm xã hội,
không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực này).
2. Đối với chính quyền địa phương

- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ
chức đoàn thể, quán triệt thực hiện sâu rộng, nghiêm túc chế độ, chính sách bảo hiểm xã

hội trong giai đoạn hiện nay. Xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của tất cả
các ban, ngành, tổ chức, đoàn thể ... và của toàn xã hội.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bảo hiểm xã hội, và Luật Lao động cho
chủ doanh nghiệp, người lao và đại diện người lao động để họ nhận thức đầy đủ về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc tham gia bảo hiểm xã hội, từ đó tự
giác thực hiện một cách có hiệu quả.
3. Đối với Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố
Đề xuất chính quyền các cấp mở các hội nghị liên ngành bao gồm: ngành Lao
động Thương binh và Xã hội; Bảo hiểm xã hội; Liên đoàn lao động; Thanh tra chuyên
ngành, cùng nhau bàn và đi đến thống nhất các chương trình, kế hoạch hành động, tiến
hành thanh tra, kiểm tra các đơn vị có sử dụng lao động.
Xử lý dứt khoát, khen thưởng các đơn vị hoàn thành tốt nhiêm vụ đóng
bảo hiểm xã hội.

15

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

Tăng cường điểm các đơn vị nợ đọng, trốn nộp bảo hiểm xã hội, tăng cường kỷ
cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Gắn việc thực hiện bảo
hiểm xã hội với công tác thi đua, khen thưởng ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, kịp
thời tuyên dương bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong toàn
ngành, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thi hành công vụ, theo dõi, nắm
chắc tình hình tham gia bảo hiểm xã hội của các đơn vị trên địa bàn, có phương án x ử lý
kịp thời các tình huống.
4. Đối với tổ chức Công đoàn và người lao động trong doanh nghiệp
Nâng cao khả năng, kỹ năng hoạt động của cán bộ công đoàn, kịp thời nắm bắt

thông tin về bảo hiểm xã hội của đơn vị, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội khi bị xâm phạm.
Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội
cho người lao động. Người lao động trong doanh nghiệp phải tích cực tham gia hoạt
động công đoàn, chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
6.2 Kết luận :
Chế độ Bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao động nữ nói
chung, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, vừa tạo điều
kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Trong các quy định riêng về Bảo
hiểm xã hội đối với lao động nữ, Bảo hiểm thai sản được coi là đặc thù. Chiếm hơn một
nửa lực lượng lao động xã hội, lao động nữ có vị trí vô cùng quan trọng trong gia đình
và xã hội. Có thể nói lao động nữ là nguồn nhân lực có tiềm năng to lớn của đất nước, là
động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế đất nước
và toàn cầu đang có những biến động mạnh mẽ đặt ra cho người lao động nói chung và
người lao động nữ nói riêng nhiều thách thức và điều kiện mới.
Người lao động nữ với đặc thù của mình không chỉ hoạt động trong các lĩnh vực
truyền thống mà mở rộng sự có mặt của mình ra tất cả các ngành, lĩnh vực và nền kinh
tế đất nước. Mặc dù người lao động nữ nhìn chung vẫn ở vị trí “yếu thế” song với sự nỗ
lực không ngừng của bản thân họ đang tự vươn lên tự khẳng định mình trong thị trường
lao động sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước thông qua pháp luật sẽ là sự bảo
vệ tốt cho họ, giúp họ khắc phục những hạn chế đặc thù của bản thân phát huy ưu điểm
16

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

từ đó thực hiện tốt vai trò kép của mình. Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, các
văn bản pháp về Bảo hiểm xã hội ban hành và thực hiện đã mang lại những hiệu quả

nhất định. Những quy định riêng về chế độ Bảo hiểm thai sản đã phần nào thể chế hoá
được chính sách lao động và chính sách xã hội của Nhà nước.
Các quy định của pháp luật hiện hành đối với chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản
đã chứng tỏ ý nghĩa quan trọng của nó trong công tác bảo vệ người lao động nữ khi
mang thai, sinh nở và người lao động nói chung khi nuôi con nuôi sơ sinh. Những chế độ
mà pháp luật Bảo hiểm xã hội dành cho đối tượng hưởng Bảo hiểm xã hội về thai sản đã
giúp người lao động vượt qua những khó khăn khi công việc lao động tạm thời bị gián
đoạn do khám thai, sẩy thai, nghỉ trước và sau khi sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh.
Từ việc giải quyết tình huống bà Nguyễn Thị P nhân viên Công ty trách nhiệm
hữu hạn B khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố không thực hiện đúng chế độ
thai sản cho mình, cho thấy mỗi quyết định của cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ trong quá trình thi hành công vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó có thể làm
tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nếu quyết định đúng, phù hợp với tình hình
thực tế và ngược lại. Vì vậy, trong quá trình xử lý các tình huống phát sinh từ hoạt đ ộng
thực tiễn,người cán bộ cần phải thận trọng, bình tĩnh, sáng tạo, coi trọng quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động, của doanh nghiệp, đồng thời, phải thực hiện
đúng pháp luật, vận dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn các quy định pháp luật bảo
đảm giải quyết công việc hợp lý, hợp tình, tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Việc thực hiện chế độ thai sản trong những năm qua đã giúp cho hàng triệu lượt
người, mà chủ yếu là lao động nữ giải quyết được những vấn đề của đời sống và chăm
sóc thai nhi, con nhỏ… Kết quả của việc thực hiện đó không chỉ dừng lại ở đó mà ý
nghĩa lớn lao của nó đã góp phần vào việc tái sản xuất lực lượng lao động mới cho xã
hội. Có thể nói chính sách Bảo hiểm thai sản đối với người lao động ở Việt Nam là tiến
bộ và có tính ưu việt cao. Nhà nước cũng cần có sự lồng ghép trong các quy định pháp
luật để bảo vệ người lao động cũng như lợi ích của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản cũng đã bộc lộ những mặt tồn tại,
hạn chế. Những hạn chế, tồn tại đó xuất phát từ nhiều phía, trong đó có cả nguyên nhân
từ hệ thống các quy định của pháp luật chưa được hoàn thiện và ý thức pháp luật của
17


Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

những người trong cuộc, cũng như quá trình tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật về thai sản. Vì thế, trong thời gian tới cần tập trung vào việc hoàn
thiện pháp luật và các mặt công tác khác như tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp
luật về thai sản, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra… để nâng cao hiệu quả của chế
độ thai sản trong xã hội.

18

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc


Đề tài : Xử lý tình huống lao động giải quyết bảo hiểm xã hội đối với chế độ thai sản

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001).
2. Bộ luật lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006,2007)
3. Luật bảo hiểm xã hội 2006
4. Luật doanh Nghiệp 2005
5. Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ. Hướng
dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
6. Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 22/12/2007 của Bộ Lao động -Thương
binh và xã hội. Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP
ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về
bảo hiểm xã hội bắt buộc.

7. Quyết định số 815/QĐ-BHXH ngày 06/6/2007 của bảo hiểm xã hội Việt Nam
quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
8. Công văn số 17/BHXH –TP ngày 02/01/2009 của bảo hiểm xã hội Thành phố.
9. Bộ giáo trình quản lý nhà nước chương trình chuyên viên của Học viện Hành
chính, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật năm 2010.
10. Giáo trình Luật Lao động Trường đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản sự thật
năm 2005.

19

Họ và tên : Huỳnh Hồng Cúc



×