I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Lịch sử là một môn khoa học có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục
phổ thông. Giáo viên giảng dạy Lịch sử cần có phương pháp hợp lí nhằm giúp
học sinh tiếp thu một cách tốt nhất các kiến thức lịch sử. Trong thời đại ngày
nay, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ nhanh, thông tin ngày càng nhiều.
Để theo kịp sự phát triển của xã hội và cung cấp cho học sinh những kiến thức
mới nhất, đầy đủ nhất trong một thời gian có hạn, việc đổi mới phương pháp dạy
học luôn là vấn đề bức xúc được nhiều người quan tâm.
Việc cập nhật thông tin và đổi mới luôn đặt lên hàng đầu, trong tình hình
đó việc giảng dạy bộ môn Lịch sử cần phải đổi mới, cần phải có định hướng
chung để học sinh tiếp xúc với nhiều tri thức, nhiều thông tin và rèn luyện kỹ
năng làm bài, kỹ năng thực hành. Như chúng ta biết lịch sử là một trong những
nội dung vô cùng quan trọng thuộc kiến thức xã hội. Việc nhận thức lịch sử vừa
phải tuân thủ quy luật nói chung, nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng. Học
sinh không thể trực tiếp lĩnh hội các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua
không lặp lại nguyên xi, không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa
học tự nhiên. Vì lẽ đó dạy học lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin,
thu nhận và xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy
học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật, phong phú thì càng
có khả năng nhận thức sự vật, hiện tượng chính xác và chân thật hơn .
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang phát triển, trước tác động ngày
càng mạnh của xu thế toàn cầu hóa, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trở ngại
do chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn thấp hơn so với yêu cầu. Và
hơn thế nữa, khi hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cũng kéo theo đó có nhiều
nền văn hóa du nhập vào nước ta, bản lĩnh dân tộc đang bị lung lay khi bản sắc
dân tộc có thể bị mất đi. Khi chính những con người Việt Nam lại quên đi
nguồn gốc, lịch sử dân tộc. Vì điều này, những năm gần đây số học sinh đăng kí
thi vào đại học môn lịch sử quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Vì sao
lại như vậy?
1
Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong
đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem nhẹ bộ môn này,
coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần đầu tư công sức nhiều,
dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ
sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều
trường.
Qua nhiều năm giảng dạy lịch sử, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra những
phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn hơn và đạt kết quả cao
hơn. Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp góp phần nâng
cao chất lượng giờ học lịch sử ở trường THCS” nhằm tạo ra môi trường tương
tác đa dạng hấp dẫn giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau, đồng
thời gây hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo ở học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử trong nhà trường.
2. Điểm mới của đề tài:
Qua thực tế tình hình học tập bộ môn Lịch sử nói chung, phần lớn học sinh
chưa thực sự yêu thích và say mê môn học cho nên việc ghi nhớ các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử, thời gian… còn yếu. Đa số các em chưa độc lập
suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà phải đọc nguyên văn trong sách giáo khoa
hay chỉ nêu lên được một mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói
lên sự kiện gì… Các em chưa có phương pháp học để chủ động chiếm lĩnh kiến
thức bài giảng của giáo viên. Đó là điều trăn trở không chỉ riêng bản thân tôi mà
còn đối với nhiều giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn học này. Vì vậy tôi
mạnh dạn đưa ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: “Một số biện
pháp góp phần nâng cao chất lượng giờ học lịch sử ở trường THCS” .
Điểm mới của đề tài này là việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học theo hướng tích cực trong mỗi nhóm bài cụ thể. Đó là sử dụng hình vẽ,
tranh ảnh trong sách giáo khoa, chân dung các nhân vật lịch sử, sử dụng bản đồ,
niên biểu … Mà đặc biệt là sử dụng phim ảnh, âm thanh kết hợp với phương
pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học.
2
3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đề tài có thể áp dụng cho tất cả các giáo viên dạy môn Lịch sử bậc THCS.
Với các nhóm bài: Giới thiệu chân dung nhân vật lịch sử, thuyết trình sự kiện ...
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng:
Đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học lịch sử nói riêng là một quá
trình được thực hiện thường xuyên và kiên trì, trong đó có nhiều yếu tố quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang được tiến hành đồng bộ và
thu được những kết quả đáng kể. Tuy vậy xã hội vẫn không khỏi băn khoăn về
việc học sinh đăng kí thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng môn Lịch
sử quá thấp.
Vậy, làm thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú, yêu thích, say mê với môn
học là một vấn đề đáng trăn trở đối với giáo viên dạy Lịch sử.
Kết quả điều tra đầu năm học đối với khối 6, 7, 9:
Lớp
SLHS
6
7
9
94
88
79
Hứng thú
SL
%
20 21,3
27 30,7
12 15,2
3
Không hứng thú
SL
%
74
78,7
61
69,3
67
84,8
Những thông số trên đặt ra yêu cầu cao về tâm huyết, trách nhiệm của giáo
viên đối với chất lượng môn học. Vì thế, trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi giáo
viên cần phải thực sự tìm tòi để có được phương pháp tối ưu phù hợp từng nội
dung của từng bài, nhằm kích thích tinh thần ham hiểu biết, sự tò mò muốn
khám phá thế giới lịch sử cho học sinh. Trong những năm qua, mặc dù chương
trình và sách giáo khoa đã có thay đổi, nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài học
vẫn rất nhiều. Đa số học sinh không thể nhớ hết sự kiện lịch sử nếu không hiểu
bài.
Vậy nên, sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp trong dạy học Lịch sử
là rất cần thiết. Mỗi phương pháp có một công năng khả thi khác nhau: Phương
pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng giúp cụ thể hóa các sự kiện
và khắc phục tình trạng hiện đại hóa Lịch sử của học sinh. Phương pháp “kể
chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử” cũng là phương pháp góp phần kích
thích hứng thú tự chiếm lĩnh tri thức của các em. Vận dụng linh hoạt các phương
pháp trong các tiết dạy sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức bài học dễ dàng và
chắc chắn hơn.
2. Giải pháp.
Do đặc thù của môn học: các sự kiện lịch sử là những vấn đề thuộc về thời
đã qua, nên người học không trực tiếp quan sát được. Vậy nên phương pháp trực
quan góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các
sự kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Trong bài viết này tôi không trình bày lại phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học lịch sử nói chung mà chủ yếu đề xuất một số biện pháp
sử dụng nhằm phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh, đồng thời
phát huy sự chủ động tích cực hơn nữa cho học sinh bằng việc kết hợp với
những câu chuyện lịch sử bổ ích, hấp dẫn.
4
Để đáp ứng yêu cầu này cũng như khắc phục tình trạng trước đây chúng ta
cần phải biết kết hợp hài hoà giữa lời dạy và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực
quan. Tuy nhiên đối với mỗi đồ dùng chúng ta có những phương pháp sử dụng
riêng phù hợp với nội dung từng loại bài.
2. 1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
2.1.1. Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong SGK:
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có
tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá
khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực.
Những tranh ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp
học sinh hiểu sâu sắc tính chất sự kiện lịch sử và tạo cho học sinh những ấn
tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ.
Ví dụ: Khi sử dụng bức tranh “Đội Việt Nam tuyên tryền giải phóng
quân” ( hình 37, SGK Lịch sử lớp 9, trang 88 ) trong bài 22 “Cao trào cách
mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945”
5
Giáo viên phải gợi mở để học sinh quan sát: Lá cờ biểu hiện điều gì? Ai là
người chỉ huy trực tiếp Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khi mới
thành lập? Trang bị lúc đầu như thế nào? Tất cả những điều này cuối cùng
giúp học sinh nắm được Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập
và lãnh đạo lực lượng vũ trang đầu tiên của cách mạng. Họ là những người du
kích trong đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và “Cứu quốc
quân” (5/1945). Tuy số lượng còn ít (chỉ có 34 người) vũ khí trang bị còn thô sơ
nhưng đã tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của các
mạng. Đồng thời đây là mầm móng đầu tiên của lực lượng vũ trang Việt Nam
sau này.
Khi sử dụng tranh ảnh hình vẽ cần kết hợp sử dụng câu hỏi, miêu tả hoặc
tường thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan
sát học sinh cần nêu lên suy nghĩ của mình, phát biểu của các em dù đúng, sai
nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá trình độ của học sinh để
uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những điều kiện có thể cần
gợi ý tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận của các em khi quan sát một bức tranh
hay một hình vẽ nào đó.
2.1. 2 . Sử dụng các ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử
Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử
dụng để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm
tính cách tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng giáo viên không nên
miêu tả quá nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi
bật những nét tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật
để cho học sinh hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc.
6
Chẳng hạn như khi dạy về “Luận cương Chính trị năm 1930”, học sinh
không thể không biết đến Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng - người
cộng sản trung kiên đã khởi thảo ra bản Luận cương của Đảng. Để học sinh hiểu
rõ về Trần Phú, giáo viên không thể không cho các em xem bức chân dung của
ông (hình 31)
7
mà còn phải tìm đọc tiểu sử của Trần Phú để nêu thêm những nét tiêu biểu nhằm
giúp học sinh có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng trẻ tuổi này. Giáo viên có
thể dựa vào bản tư liệu sau: “Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại Quảng Ngãi
(nguyên quán ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ngay từ thuở thơ ấu Trần Phú
đã sống trong cảnh cực khổ, vì cha mẹ mất sớm. Anh em Trần Phú phải về
Quảng Trị nương tựa họ hàng. Sau này Trần Phú vào học ở trường Quốc học
Huế. Năm 1925, tham gia hội Phục Việt rồi gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng.
Tháng 8 – 1926, ông sang Trung Quốc liên lạc với Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên và trở thành hội viên của tổ chức này. Đầu năm 1927, ông được cử
sang học tại trường Đại học Phương Đông Mát - xcơ - va. Đầu năm 1930, ông
về nước hoạt động và được cử vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời. Thời
gian này, Trần Phú sống trong căn hầm của ngôi nhà 90 phố Thợ Nhuộm, Hà
Nội. Tại đây, ông đã soạn thảo Luận cương chính trị. Tháng 10-1930 ông tham
gia Hội nghị lần thứ nhất BCH TW lâm thời và được cử làm Tổng Bí thư. Sau
đó ông về hoạt động tại Sài Gòn. Ngày 19/4/1931 ông bị bắt tại số nhà 66,
đường Săm bơ nhơ (Sài Gòn). Những tên mật thám khét tiếng đã điên cuồng tra
tấn Trần Phú (bắt ngồi ở nước bẩn rồi cho dòng điện chạy qua, đến thủ đoạn
treo ngược lên xà nhà, cắt gân bàn chân rồi đổ xăng đốt). Cuối cùng chúng phải
lắc đầu trước tinh thần gang thép của người chiến sĩ cộng sản. Trước khi chết
Trần Phú đã nhắc lại các đồng chí của mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.
Câu nói của ông đã trở thành vũ khí chiến đấu của mỗi người Việt Nam mỗi khi
đi vào trận chiến. Trần phú ra đi lúc 27 tuổi đời.
Cách giới thiệu bức chân dung kết hợp với một vài nét chấm phá về tiểu sử
nhân vật sẽ khắc vào trái tim các em lòng yêu mến, kính phục người chiến sĩ
cách mạng đã hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
8
Ví dụ: Các nước Mỹ La-tinh (Lịch sử 9) giáo viên sử dụng hình 15, trang
32: chân dung Phi-đen Cat - xtơ - rô - anh hùng dân tộc của Cu-ba để giới thiệu
cho học sinh. “Xuất thân trong một gia đình điền chủ. Năm 1945, học luật ở
Trường Đại học La Habana (La Habana), tham gia phong trào chống Mĩ ở
Côlômbia (1948) sau đó về nước; năm 1950, đỗ tiến sĩ luật học. Ngày 1.1.1959,
chế độ Batixta bị lật đổ, Caxtơrô trở thành người lãnh đạo Chính phủ Cách
mạng Cuba. Tổng bí thư Đảng Cộng sản Cuba, chủ tịch Hội đồng Nhà nước và
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cuba. Ông là một người từng làm cho các nước
Đế quốc lo sợ, phải tốn nhiều công sức, tiền bạc để tiễu trừ bằng các cuộc ám
sát. Người ta tính rằng có tổng cộng 638 âm mưu ám sát ông bằng nhiều thủ
đoạn từ đơn sơ đến hiện đại như: thuốc cực độc, điếu xì gà giết người, chiếc áo
thấm vi khuẩn, những con vật chứa chất nổ, nhiều vụ bắn tỉa… Chỉ vì đơn giản
ông là một thủ lĩnh đầy cá tính, một chính trị gia lỗi lạc về chiến lược, một lãnh
tụ thiên tài của nhân dân Cu- ba - Một người bạn chí tình của nhân dân Việt
Nam với câu nói nổi tiếng: “Vì Việt Nam, Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu
của mình”.
2.1.3 . Phương pháp sử dụng bản đồ, niên biểu.
Bản đồ, sơ đồ, niên biểu, là những đồ dùng trực quan quy ước không thể
thiếu được trong dạy học lịch sử. Nhờ có bản đồ lịch sử mà học sinh có biểu
tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta đều
biết rằng mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một không gian và
thời gian nhất định. Tách sự kiện khỏi không gian và thời gian chúng ta sẽ
không hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự
kiện lịch sử sẽ không phải chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng
hơn gắn liền với mỗi địa danh đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian
cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiên của địa điểm đó. Trong khi sử dụng bản
đồ giáo viên luôn chú ý đến sự thu nhận của học sinh, giúp học sinh phân tích
nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản đồ chứ không nên cho
học sinh tiếp thu một cách thụ động.
9
Giáo viên sử dụng bản đồ của trường, nếu không có thì giáo viên tự vẽ hoặc
cho học sinh vẽ. Tác dụng của việc sử dụng bản đồ này là nhằm cụ thể hóa kiến
thức giúp học sinh. Ví dụ khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (1953-1954), giáo viên cho học sinh khai thác hình 53:
Lược đồ hình chiến trường trong Đông - Xuân 1953 –1954.
Để khai thác lược đồ trên, trước hết giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc
ghi chú, trong đó đặc biệt chú ý đến hướng tấn công của Pháp, hướng tấn công
của ta, hướng tấn công của quân giải phóng Lào và Bộ đội tình nguyện Việt
Nam. Sau đó giáo viên chỉ rõ cho học sinh các hướng tấn công của quân Pháp ở
Bắc Kì và duyên hải Nam Trung Bộ. Hướng tấn công của ta và Liên quân Lào
nhằm phân tán lực lượng của địch từ 1 vị trí sang 5 vị trí là Điện Biên Phủ, Xê
nô, Luông pha băng - Mường Sài, Plâycu … góp phần làm phá sản kế hoạch
Nava của Pháp.
10
Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng bản đồ, niên biểu thực tế đã cho
những kết quả tốt hầu hết các em đã chăm chú lắng nghe, dễ hiểu và nắm được
bài ngay trên lớp. Không những thế còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử của
các em. Đó là thái độ căm phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của thực
dân Pháp, là lòng xót xa sự uất ức đối với người dân Việt Nam sống trong cảnh
nước mất nhà tan.
Ví dụ: Trong bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống TDP xâm lược kết
thúc 1953 – 1954” (SGK LS 9) giáo viên kết hợp sử dụng bản đồ, niên biểu
trình bày diễn biến chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, sau đó lập niên biểu
cho học sinh xem:
Thời gian
Sự kiện lịch sử
12/1953
Bộ đội chủ lực của ta tấn công Thị xã Lai Châu
Đầu tháng 12/1953
Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Trung Lào
Tháng 1/1954
Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Thượng Lào
Tháng 2/1954
Quân ta tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên
11
Như vậy với việc sử dụng bản đồ, sơ đồ niên biểu, trong quá trình giảng
dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi gây được sự chú ý tập trung của học sinh,
phát huy khả năng độc lập tư duy. Cũng như việc khái quát tổng kết kiến thức
lịch sử của học sinh. Với giờ dạy sử dụng đồ dùng trực quan chất lượng cao hơn
nhiều so với giờ dạy “chay”. Chính vì lẽ đó trong các giờ dạy lịch sử giáo viên
nên tích cực sử dụng đồ dùng trực quan này.
2.2. Phim ảnh, âm thanh
Ngày nay công nghệ thông tin đã đạt được những bước tiến vượt bậc và có
tác động lớn đến giáo dục đặc biệt là môn Lịch sử. Các nhà làm phim tái hiện lại
hình ảnh lịch sử một thời trong quá khứ. Những nhân vật lịch sử, những sự vật
hiện tượng, những sự kiện đã qua nhằm giúp học sinh nắm bắt lịch sử một cách
chính xác dễ nhận biết, dễ nhớ làm tăng hiệu quả học tập, lôi cuốn học sinh tham
gia tích cực vào bài giảng. Mặt khác, có những đoạn phim lịch sử tái hiện lại bối
cảnh có thật. Khi cho học sinh xem những thước phim này sẽ đạt hiệu quả cao
trong quá trình giảng dạy. Với việc sử dụng phim tài liệu vào dạy học lịch sử
giúp học sinh dễ nhận biết dễ nhớ các sự vật hiện tượng, các sự kiện làm tăng
thêm hiệu quả học tập. Ông bà ta đã từng nói “Trăm nghe không bằng một
thấy”, tập trung được sự chú ý của học sinh vào đối tượng lôi cuốn học sinh
tham gia tích cực vào bài học làm cho lớp học năng động, không buồn tẻ, tăng
hiệu quả dạy học. Giúp học sinh dễ dàng hiểu được vấn đề, nắm bắt chính xác
các sự vật hiện tượng người thật, việc thật, định hướng tốt nội dung bài học dễ
tiếp nhận thông tin, rút ngắn được thời gian trình bày của giáo viên. Đồng thời,
giúp học sinh nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài 23, lớp 9, nói về sự kiện ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, thay lời giáo viên truyền đạt, chúng ta có thể
cho học sinh nghe lời của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn đó. Học
sinh sẽ hiểu và khắc sâu hình ảnh Bác và bước ngoặt lớn trong Lịch sử Việt
Nam.
12
Một ví dụ khác, ở bài 30, lớp 9 khi nói về: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy
xuân 1975. Giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn phim tài liệu về chiến
dịch Hồ Chí Minh. Những thước phim tư liệu vừa có hình ảnh, vừa có lời thuyết
minh và có cả chữ để nhấn mạnh các sự kiện lịch sử quan trọng như ngày giải
phóng Huế, Giải phóng Đà Nẵng, rồi giải phóng Sài Gòn... sẽ giúp học sinh
hứng thú và nhớ lâu những sự kiện lịch sử đó.
2.3. Phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử.
Đối với nhóm bài này giáo viên cần sưu tầm những mẫu chuyện liên quan
đến nhân vật như thói quen, tài năng hay cống hiến của nhân vật… điều đó sẽ
giúp học sinh ghi nhớ tốt nhân vật. Bởi mỗi nhân vật lịch sử có cuộc đời, sự
nghiệp cũng như đóng góp khác nhau. Những câu chuyện ghi chép về nhân vật
lịch sử như: cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng, sinh hoạt đời thường,
những cống hiến của nhân vật giúp học sinh có cái nhìn khái quát về những sự
kiện lịch sử và quá trình phát triển của xã hội loài người. Tạo được biểu tượng rõ
ràng cụ thể, tăng tính sinh động cho bài học và gây hứng thú học tập cho học
sinh, việc tiếp thu bài nhanh hơn và không nhàm chán trong giờ học.
Ví dụ: Khi dạy bài 26 (Lịch sử 9): Bước phát triển mới của cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp (1950 – 1953). Ở mục I: “Chiến dịch
Biên giới Thu - Đông năm 1950”. Khi trình bày diễn biến về trận Đông Khê (16
- 18/9/1950), giáo viên lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử: anh hùng La Văn
Cầu.
13
Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1932 trong một gia đình nghèo, dân tộc
Tày, tỉnh Cao Bằng. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh,
được nhiều cán bộ tuyên truyền giác ngộ, nên hăng hái tham gia vào công cuộc
kháng chiến ở quê hương. Với khát khao được cầm súng giết giặc giải phóng đất
nước, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Một
trong những chiến công mà từ đó tên tuổi của anh đã đi vào sử sách là Trận
đánh đồn Đông Khê lần thứ hai (từ 16 - 18. 9.1950). Trong trận đánh này, anh
được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá hàng rào và đánh lô cốt
đầu cầu (cửa mở trận đánh). Trong trận đánh, anh bị thương nát tay phải và đã
nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay ấy cho khỏi vướng rồi tiếp tục đánh bộc phá mở
đường cho đơn vị xung phong.
- Giáo viên có thể trích giới thiệu một phần bản tự thuật của anh La Văn
Cầu về trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai được ghi trong “Biên bản Đại hội
Toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu” diễn ra tại Việt Bắc từ
ngày 01 tháng 5 đến ngày 06 tháng 5 năm 1952, hiện đang được bảo quản tại
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phòng Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 467.
Tấm gương chiến đấu của anh La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua giết
giặc lập công trong toàn quân và trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử
dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới của quân đội ta mở ra từ
chiến dịch Biên Giới năm 1950. Với những chiến công của mình, anh La Văn
Cầu được tặng thưởng một Huân chương Quân công hạng Ba (năm 1950), Huân
chương Kháng chiến hạng Nhất và được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân đợt đầu (năm 1952).
Khi dạy bài (Lịch sử 9): Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954). Ở mục II. 1. “Cuộc tiến công chiến lược
Đông - xuân 1953-1954”. Khi trình bày diễn biến giáo viên lồng ghép kể chuyện
nhân vật lịch sử: Bế Văn Đàn.
14
- Đông Xuân 1953 - 1954, Bề Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn cùng đơn vị
hành quân đi chiến dịch. Một đại đội của Tiểu đoàn 251 được giao nhiệm vụ bao
vây địch ở Mường Pồn (Lai Châu). Thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại
đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai đợt chúng đều bị quân
ta đánh bật lại. Tình hình chiến đấu hết sức căng thẳng. Địch liều chết chống trả.
Ta kiên quyết ngăn chặn.
- Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Đồng chí
vượt qua lưới đạn dày đặc của địch truyền mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu
đáo.
- Tình hình chiến đấu ngày càng ác liệt, đồng chí được lệnh ở lại đại đội
chiến đấu. Khi quân địch phản kích đợt ba, điên cuồng mở đường tiến. Đại đội
thương vong chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương nhưng
đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên không bắn được do xạ thủ
hy sinh, còn khẩu trung liên của đồng chí Chu Văn Pù không bắn được vì chưa
tìm được chỗ đặt súng.
- Không do dự, Bế Văn Đàn rời khỏi công sự, lao đến cầm hai chân trung
liên đặt lên vai mình nói như ra lệnh: "Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi
thì bắn chết chúng nó đi". Khẩu trung liên nhả đạn về phía quân địch, đẩy lùi đợt
phản kích.
- Bế Văn Đàn mình đầy thương tích, đồng chí đã anh dũng hy sinh, hai tay
còn ghì chặt chân súng trên vai. Đồng chí được kết nạp Đảng tại trận địa.
15
Hay khi dạy về chiến dịch Điện Biên Phủ (Lịch sử 9) - một chiến dịch
gắn liền với thiên tài quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến dịch Điện
Biên Phủ được tính toán là phải tiêu diệt địch nhanh gọn bằng chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh”. Tuy nhiên, ngày 26/01/1954 sau khi xem xét thực tế trận
địa Đại tướng trăn trở và đã có một quyết định thay đổi chiến lược từ “đánh
nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc”. Đại tướng biết rõ khó khăn
nhưng phải đảm bảo chiến dịch giành thắng lợi. Mặc dù tất cả đã sẵn sàng chỉ
cần chờ lệnh là xuất phát, pháo đã được kéo vào bây giờ lại phải kéo ra. Giáo
viên dừng lại để kể về anh Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo. “Tô Vĩnh
Diện xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống
dốc. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô to: “Thà hi sinh, quyết
bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước lấy thân mình chèn vào
bánh pháo”.
16
Bằng ngôn ngữ của mình cùng với những hình ảnh minh chứng sống động
giáo viên đã đưa các em sống lại một thời chiến tranh ác liệt đầy gian khổ nhưng
rất hào hùng và oanh liệt của dân tộc. Gương hy sinh cao cả của anh hùng Tô
Vĩnh Diện giúp các em thấy sức mạnh cổ vũ từ tấm gương anh dũng của anh để
toàn đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ và càng tự hào hơn về thế hệ cha ông đã
chiến đấu và hi sinh xương máu, bảo vệ nền độc lập tự do cho Tổ Quốc. Từ đó,
giáo dục thêm lòng biết ơn các anh hùng, liệt sĩ của dân tộc.
Giờ học lịch sử sẽ sinh động hơn khi biết lồng ghép những câu chuyện
ngắn kết hợp với kênh hình, những thước phim tư liệu… có ý nghĩa thiết thực
tác động đến trí nhớ, đến sự hứng thú của học sinh.
3. Kết quả:
3.1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Rõ ràng, không phải các em không thích học môn Lịch sử mà bởi vì giáo viên
chưa kích thích được trí tò mò, sự ham hiểu biết cũng như hứng thú học tập của các
em bằng những phương pháp phù hợp, tối ưu với mỗi nhóm bài dạy.
Qua áp dụng sáng kiến này bản thân thấy rằng, muốn tạo cơ hội cho học
sinh học tập tốt bộ môn của mình, người thầy giáo luôn luôn chủ động tìm tòi
những biện pháp, những con đường truyền thụ kiến thức tốt nhất để đem lại hiệu
quả nhất trong giờ lên lớp, qua thời gian áp dụng sáng kiến này, kết quả học tập
của học sinh lớp tôi phụ trách có nhiều tiến bộ rõ rệt, hơn 90 % số học sinh trong
lớp tham gia cùng thầy giáo khai thác kiến thức trong bài giảng, các em hứng
thú và say mê nghiên cứu bài học, chất lượng cuối kì I đạt kết quả cao hơn so
với đầu năm học, điều đó thể hiện rõ qua bảng thống kê sau :
Kết quả điều tra đầu năm học đối với khối 6, 7,9:
17
Lớp
SLHS
Hứng thú
Không hứng thú
SL
%
SL
%
6
94
20
21,3
74
78,7
7
88
27
30,7
61
69,3
9
79
12
15,2
67
84,8
18
Kết quả khảo sát cuối HKI:
Lớp
SLHS
6
94
7
88
9
79
Hứng thú
Không hứng thú
SL
%
SL
%
89
94,7
5
5,3
93,3
7
6,7
91.1
7
8,9
81
72
19
Qua bảng so sánh trên đã cho thấy, việc áp dụng sáng kiến đã đem lại hiệu
quả cao trong dạy và học. Dường như các em nhận thức được vai trò và tầm
quan trọng của bộ môn Lịch sử vì thế các em hứng thú hơn trong mỗi giờ học.
3.2. Bài học kinh nghiệm.
1. Khi sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, ảnh chân dung của
các nhân vật lịch sử, sử dụng bản đồ, niên biểu phải thận trọng, phải chuẩn bị kĩ
nội dung để giới thiệu, thuyết trình cho học sinh nhằm minh họa rõ nét, tiêu
biểu, phù hợp với nội dung bài dạy và có tính giáo dục cao.
2. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu,
lĩnh hội kiến thức bài học thông qua việc được nghe giới thiệu, được xem
phim... Từ đó mà bồi dưỡng tình yêu, sự đam mê môn học.
3. Trong quá trình khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan hay những đoạn
phim… giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim
phục vụ tiết học có tính thiết thực, làm rõ nội dung bài dạy. Giáo viên không
quá tham lam, nhồi nhét các thông tin, phim, ảnh không phù hợp làm giảm hiệu
quả bài học.
4. Khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan, âm thanh, phim ảnh là một
trong những biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao,
giúp giáo viên không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên môn mà quan
trọng hơn là kích thích tính tò mò, sự say mê khám phá kiến thức Lịch sử từ đó
giúp các em yêu thích học bộ môn này.
III. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài.
20
Trong dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, đổi mới phương
pháp dạy học là việc làm thường xuyên của mỗi một thầy cô giáo. Nếu giáo viên
khéo léo tổ chức cho các em học tập bằng việc khắc hoạ sâu sắc hình ảnh nhân
vật lịch sử, vận dụng đồ dùng trực quan sinh động… có tác dụng rất lớn trong
việc gây hứng thú học tập cho học sinh hiện nay, đây là việc cần phải làm của
giáo viên, vì có hứng thú học tập, rung cảm thì người học nhất là học sinh trung
học cơ sở, là lứa tuổi rất nhạy cảm trong việc tìm tòi cái mới cái chưa biết và rất
cảm động khi giáo viên biết sử dụng những tư liệu giáo dục đạo đức cách mạng
cho các em ngay trong bài học lịch sử trên lớp.
Gây hứng thú học tập là chiếc cầu nối, là phương tiện để góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học tập bộ môn lịch sử hiện nay, đây là yêu cầu phải làm
thường xuyên đối với giáo viên dạy sử ở trường phổ thông. Với cách thức và
những con đường cùng một số biện pháp trên góp phần kích thích sự tò mò, gây
hứng thú, tạo niềm say mê phấn khởi trong học tập. Đồng thời người giáo viên
biết phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm có sẵn, biết sáng tạo linh hoạt trong
quá giảng dạy trên lớp, biết khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong dạy và học,
và quan trọng hơn là đã loại bỏ kiểu dạy “thầy giảng trò nghe”, “thầy đọc trò
chép”, các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: “Một số biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng giờ học lịch sử ở trường THCS” được trình bày trên
cũng là cách thức để gây hứng thú học tập bộ môn lịch sử đối với học sinh bậc
trung học cơ sở nói riêng và ở nhà trường phổ thông nói chung.
Với sáng kiến này, hiệu quả trên hết là thái độ học tập của học sinh: các em
tham gia học tập sôi nổi hơn, tập trung hơn và thể hiện ý kiến bản thân về sự
kiện lịch sử một cách tự nhiên hơn bởi có nhiều hình ảnh sống động như thật,
nhiều hình ảnh minh họa cụ thể. Tiết dạy trở nên sinh động hơn, thu hút được sự
chú ý và tạo được sự hứng thú ở học sinh nhiều hơn.
21
Thực tế cho thấy rằng: khi được nghe, nhìn các tư liệu lịch sử có liên quan
đến nội dung bài đang học, hầu như đều có sức lôi cuốn mọi đối tượng học. Từ
những em có năng lực khá giỏi đến trung bình, thậm chí học sinh học yếu cũng
có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Đặc biệt đối với đối tượng học
sinh khá giỏi, các em có được sự cảm thụ sâu rộng hơn, không gò ép theo câu
chữ của giáo viên hay phụ thuộc nội dung trong sách giáo khoa đơn thuần, khi
mà các em được nghe, nhìn qua đồ dùng dạy học trực quan hay tư liệu băng
hình, phim ảnh mà giáo viên sử dụng trong giờ học.
Quan trọng hơn là các em học sinh bớt sợ học môn Lịch sử, mà ngược lại
có sự hào hứng, đón chờ các tiết học với tinh thần vui vẻ. Với tâm thế ham khám
phá, các em cũng đã tự truy cập tìm kiếm thông tin, tài liệu trên mạng để bổ trợ
cho kiến thức Lịch sử của mình. Điều này, góp phần không nhỏ nâng cao hiệu
quả tiếp thu và cảm nhận của học sinh về sự kiện lịch sử.
2. Kiến nghị - Đề xuất
Chúng tôi nhận thấy các em hào hứng hơn khi được học Lịch sử, thiết nghĩ
các thầy cô sử dụng rộng rãi đề tài này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
Lịch sử trong nhà trường nói riêng và nâng cao chất lượng đại trà nói chung.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, hội đồng chuyên
môn để đề tài được sử dụng phổ biến và có hiệu quả.
Xin chân thành cảm ơn!
22